Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.01 KB, 90 trang )

NGUYỄN THỊ THÚY VÂN

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÚY VÂN

CÔNG TÁC XÃ HỘI (CHƯƠNG TRÌNH LIÊN KẾT VỚI PHI-LÍP-PIN)

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

KHÓA II (2015-2017)

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THÚY VÂN

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội về “Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Long
An” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, lời đầu tiên cho phép tôi được gửi lời cảm ơn
chân thành đến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Học viện
Khoa học Xã hội, Học viện Xã hội Châu Á, cơ sở học viện tại thành phố Hồ Chí
Minh, Quí thầy, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho


tôi trong suốt khóa học. Đặc biệt tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến
sĩ Hà Thị Thư đã tận tình hướng dẫn, động viên giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở Lao động -Thương
binh và Xã hội tỉnh Long An, Lãnh đạo UBND cấp huyện, các cô chú cao tuổi đã
nhiệt tình hỗ trợ, chia sẻ, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
thu thập thông tin, cung cấp số liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã động

viên, nhiệt tình hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dù đã có cố gắng, nhưng trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi
những thiếu sót. Bản thân rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý
thầy cô giáo đề luận văn được hoàn thiện hơn và giúp tôi có những kinh nghiệm cho
các nghiên cứu sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI..............................................................................................10
1.1. Người cao tuổi: khái niệm, đặc điểm và nhu cầu................................................10
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi.............................................15
1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cao tuổi...........................25
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO
TUỔI TẠI TỈNH LONG AN …..........................................................................34


2.1. Đặc điểm về địa bàn và khách thể nghiên cứu..................................................34
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Long An...
.....................................................................................................................................44
2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cao tuổi….....62
Chương 3: ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VÀ
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG
AN.......................................................................................................................... 72
3.1. Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân ...............................................72
3.2. Các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với người cao
tuổi..............................................................................................................................84
KẾT LUẬN...........................................................................................................93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................94
PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH
CLB
CTXH
CSSK
CSND
CTV CTXH
KT - XH
LĐTBXH
NCT
NVCTXH
UBND

An sinh xã hội
Câu lạc bộ
Công tác xã hội
Chăm sóc sức kỏe
Chăm sóc nuôi dưỡng
Cộng tác viên công tác xã hội
Kinh tế - Xã hội
Lao động – Thương binh và Xã hội
Người cao tuổi
Nhân viên công tác xã hội
Ủy ban nhân dân


Sơ đồ 1.1.

Sơ đồ 1.2.

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tiến trình công tác xã hội cá nhân
Tiến trình công tác xã hội nhóm

23
24

Sơ đồ 1.3.

Tiến trình phát triển cộng đồng

25

Sơ đồ 3.1.

Sơ đồ phả hệ gia đình bà D

77

Sơ đồ 3.2.

Sơ đồ sinh thái

78

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.


Tổng quan về người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Long An

36

Bảng 2.2.

Phân loại về sức khỏe người cao tuổi

41

Bảng 2.3.

Đánh giá của người cao tuổi về hiệu quả hoạt động truyền
thông

46

Đánh giá của người cao tuổi về hình thức truyền thông

47

Đánh giá hiểu biết của người cao tuổi về các vấn đề liên
quan đến người cao tuổi

48

Đánh giá của người cao tuổi về hoạt động kết nối nguồn lực

59


Đánh giá của người cao tuổi về các yếu tố ảnh hưởng đến
công tác xã hội đối với người cao tuổi

62

Các yếu tố thuộc về bản thân người cao tuổi

63

Bảng 2.4.
Bảng 2.5.
Bảng 2.6.
Bảng 2.7.
Bảng 2.8.


Bảng 2.9.

Đánh giá mức độ ảnh hưởng của đặc điểm nhân viên công
tác xã hội đối với CTXH (tỷ lệ %)
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của chính quyền địa phương,
cộng đồng đối với CTXH

65

Bảng 3.1.

Điểm mạnh, điểm hạn chế

79


Bảng 3.2.

Kế hoạch hỗ trợ cho bà D

80

Bảng 2.10.

68


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ĐỒ
Biểu đồ 2.1.

Phân theo khu vực

37

Biểu đồ 2.2.

Phân loại giới tính người cao tuổi

37

Biểu đồ 2.3.

Phân theo độ tuổi người cao tuổi

38


Biểu đồ 2.4.

Trình độ học vấn của người cao tuổi

38

Biểu đồ 2.5.

Nghề nghiệp của người cao tuổi

39

Biểu đồ 2.6.

Tình trạng hôn nhân của người cao tuổi

40

Biểu đồ 2.7.

Tình trạng mắc các bệnh mãn tĩnh của người cao tuổi

42

Biểu đồ 2.8.

Đặc điểm tâm lý của người cao tuổi

43


Biểu đồ 2.9.

Kết quả đánh giá của người cao tuổi về các hoạt động để
nâng cao nhận thức cho người cao tuổi

45

Biểu đồ 2.10.

Đánh giá của người cao tuổi về chế độ ăn uống, vệ sinh

50

Biểu đồ 2.11.

Tình hình luyện tập thể dục thể thao của người cao tuổi

52

Biểu đồ 2.12.

Tình hình khám sức khỏe định kỳ hàng năm của người cao
tuổi

53

Biểu đồ 2.13.

Đánh giá của người cao tuổi về thái độ hỗ trợ chăm sóc

sức khỏe

54

Biểu đồ 2.14.

Đánh giá tâm trạng của người cao tuổi sống tại địa phương

56

Biểu đồ 2.15.

Đánh giá của người cao tuổi về mức độ giúp đỡ từ cá
nhân/tổ chức

57

Biểu đồ 2.16.

Kết quả khảo sát người cao tuổi về nguồn lực mà họ được
hỗ trợ

58

Biểu đồ 2.17.

Đánh giá của người cao tuổi về thái độ trợ giúp pháp lý

61


Biểu đồ 2.18.

Đánh giá mức độ ảnh hưởng của khả năng huy động
nguồn lực đối với công tác xã hội

69

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Già hóa dân số đang là xu hướng của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Theo Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc tổng số người già từ 60 tuổi trở lên sẽ tăng
nhanh từ 214 triệu người vào năm 1950 lên 400 triệu người vào năm 1982, khoảng
600 triệu người vào năm 2001 và khoảng 1,2 tỉ người vào năm 2025. Số người 80
tuổi trở lên sẽ tăng từ 13 triệu người năm 1950 lên 50 triệu người vào 1995 và sẽ


tăng lên 137 triệu người vào năm 2025. Tỉ lệ người cao tuổi trên thế giới sẽ tăng liên
tục từ 8% dân số năm 1950 lên 10% vào năm 2000 và gần 20% vào năm 2050. Ở
Việt Nam dự báo đến năm 2025 sẽ có trên 10 triệu người cao tuổi chiếm tỉ lệ 15%
dân số trên cả nước.
“Kính trên, nhường dưới”, “Kính lão, đắc thọ” là một trong những truyền thống
tốt đẹp, lâu đời của dân tộc Việt Nam. Trong xã hội ta, cũng như trong mỗi gia đình,
người cao tuổi luôn giữ một vị trí rất quan trọng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn
khẳng định người cao tuổi là một lực lượng xã hội đông đảo, quý giá trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tuổi cao gương sáng người cao tuổi phát huy trí tuệ, kinh
nghiệm sống, lao động, chiến đấu, học tập, đóng góp xây dựng gia đình và cộng
đồng trong xã hội.
Ở Long An hiện có 154.199 người cao tuổi, (trong đó nam: 75.557 người, nữ
78.642 người), chiếm 10,2% trên tổng dân số của tỉnh. Dự báo đến năm 2030, Long
An chuyển sang cơ cấu dân số già. Người cao tuổi trên địa bàn tỉnh đang sống bằng

sự nỗ lực của bản thân, gia đình dựa vào cộng đồng. Tỉnh triển khai thực hiện nhiều
chính sách hỗ trợ cho người cao tuổi. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách,
bên cạnh những mặt tích cực đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn trong
quá trình hỗ trợ cho người cao tuổi.
Từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu, đề tài viết về người cao tuổi nhưng
chỉ tiếp cận ở khía cạnh ảnh hưởng và tác động của chính sách an sinh xã hội tại địa
phương ảnh hưởng đến đời sống của gia đình người cao tuổi; tìm hiểu về vấn đề
chăm sóc sức khỏe, về thực trạng đời sống người cao tuổi, hay đánh giá hiệu quả của
việc thực hiện chính sách trợ giúp đối với người cao tuổi dưới góc nhìn của người
làm chính sách và đối tượng là người cao tuổi nói chung chứ không có đề tài nào đi
sâu vào việc nghiên cứu sâu sắc về thực trạng công tác xã hội đối với người cao tuổi,
bên cạnh đó cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu để có thể đưa ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác xã hội đối với người cao tuổi… Vì thế tác giả không chỉ muốn
tìm hiểu thực trạng công tác xã hội đối với người cao tuổi mà còn muốn góp phần
tìm ra một số giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xã hội đối với người
cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Long An.
Các công trình nghiên cứu về công tác xã hội đối với người cao tuổi đã có về
mặt lý luận cũng như thực trạng tại một số địa phương. Tuy nhiên, công trình nghiên
cứu chuyên sâu về công tác xã hội đối với cao tuổi tại tỉnh Long An thì còn chưa có.


Với lý do trên, tác giả chọn đề tài “Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ
thực tiễn tỉnh Long An” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, người cao tuổi và các vấn đề của người cao tuổi đều nhận
được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia,
học giả trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả chọn
và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu có nội dung liên
quan:
Cuốn sách “Trong miền an sinh hội-những nghiên cứu về tuổi già Việt Nam”

năm 2005 của tác giả Bùi Thế Cường, nghiên cứu người cao tuổi trong nghiên cứu
xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1970, các nhà y khoa là những người đầu
tiên khai phá lĩnh vực nghiên cứu y học về người cao tuổi. Sau đó thành lập chương
trình Nghiên cứu Y học tuổi già và 10 năm sau trở thành đơn vị nghiên cứu Y học
Tuổi già của Bộ Y tế [14].
Cẩm nang “Sức khỏe người cao tuổi” của Ban công tác Câu lạc bộ Hội người
cao tuổi Việt Nam - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cung cấp những kiến thức cần
thiết về việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe thể chất cho người cao tuổi.
Người cao tuổi thường có thói quen ít đi lại. Sự giảm hoạt động này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến các rối loạn chức năng và bệnh lý của cơ thể mà chủ yếu
là các bệnh về xương khớp. Ngoài ra, ở người cao tuổi thường xuất hiện các bệnh
như: Cao huyết áp, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến,…Vì thế việc rèn
luyện thể lực là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong cuốn sách cẩm nang vẫn chưa nói đến
các bệnh mà người cao tuổi thường gặp. Bên cạnh đó, chưa nói tới vấn đề dinh
dưỡng cho người cao tuổi. Sách chưa đề cập đến một số phương pháp để người cao
tuổi ở tại các cơ sở mái ấm không thể vận động được có cách chăm sóc sức khỏe
mình tốt hơn. Cuối cùng cuốn sách đã nhắc đến vấn đề tinh thần nhưng chưa đi sâu
vào cách chăm sóc đời sống tinh thần như thế nào phù hợp [8].
Tác phẩm “Tiếp cận văn hóa người cao tuổi” của Nguyễn Phương Lan: người
cao tuổi chuyển đổi từ môi trường hoạt động tích cực sang môi trường nghỉ ngơi hoàn
toàn. Với thời gian rảnh rỗi quá nhiều trong khi sức khỏe ngày càng kém đi đã khiến
cho họ rơi vào trạng thái tâm lí cô lập với thế giới xung quanh, đòi hỏi cần có nhu cầu
giao tiếp mãnh liệt. Do kinh nghiệm sống của các cụ nhiều khi hơn lớp trẻ, được tiếp
xúc với nhiều nền văn hóa mang tính truyền thống. Tác giả đã nhận định đối với các
cụ trong đời sống hiện nay thì nhu cầu giao tiếp xã hội, với con người ta là quan trọng


nhất. Vì khi về tuổi già họ luôn có xu hướng mặc cảm bản thân, chán nản, hay giận dỗi
không kiềm nén được cảm xúc bản thân… do đó ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ
giữa mọi người xung quanh. Dựa trên đặc điểm này ta có thề tìm ra các biện pháp can

thiệp để cải thiện tình trạng giao tiếp theo chiều hướng tốt nhất [20].
Cuốn sách “Công tác xã hội trợ giúp người cao tuổi” năm 2013 của Nguyễn
Thị Kim Hoa, tác giả đã trình bày tổng quan về công tác xã hội đối với người cao
tuổi như: Các khái niệm, hệ thống lý thuyết áp dụng, các chương trình chính sách,
một số mô hình trợ giúp người cao tuổi hiện nay. Cuốn sách đã giới thiệu về công tác
xã hội đối với người cao tuổi theo cách chung nhất và là cơ sở để nhân viên xã hội
vận dụng vào thực hành trợ giúp người cao tuổi [18].
Nghiên cứu “Hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo ở Việt Nam” năm 2001: do
Help Age International phối hợp với Hội người cao tuổi Việt Nam, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Viện Xã hội học và Trung
tâm nghiên cứu Hỗ trợ người cao tuổi thực hiện. Nghiên cứu được tiến hành tại 1
thôn tại 5 tỉnh/thành phố: thành phố Hồ Chí Minh, Lào Cai, Sóc Trăng, Ninh Thuận
và Phú Yên. Nghiên cứu tập trung vào chủ đề: Định nghĩa về tuổi già và thái độ của
xã hội đối với người cao tuổi; các phương kế mưa sinh và đóng góp của người cao
tuổi; khó khăn và mối quan tâm chủ yếu của người cao tuổi, hệ thống hỗ trợ người
cao tuổi [17].
Công trình nghiên cứu “Một số vấn để cơ bản về người cao tuổi ở Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020” của Lê Ngọc Lân - Viện nghiên cứu Gia đình và giới - Viện
Khoa học xã hội Việt Nam. Đề tài đã đề cập tới một số nội dung như: khái niệm, các
tiếp cận nghiên cứu về người cao tuổi, kinh nghiệm nghiên cứu người cao tuổi ở các
nước và quan điểm của Đảng về người cao tuổi, một số vấn đề cơ bản về đời sống
của người cao tuổi hiện nay, một số vấn đề trong chăm sóc người cao tuổi trong các
gia đình, cộng đồng và xã hội. Đồng thời, đề tài cũng là cơ sở thực tiễn để điều chỉnh
chính sách nhằm phát huy hơn nữa vai trò của người cao tuổi và chăm sóc người cao
tuổi tốt hơn trong giai đoạn 2011 – 2015 [21].
Nghiên cứu “Khảo sát thu thập xử lý thông tin về người cao tuổi” năm 2007 do
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi
Việt Nam thực hiện. Nghiên cứu được tiến hành tại 8 tỉnh thuộc 8 vùng địa lý. Nghiên
cứu tập trung vào chủ đề: Đánh giá thực trạng vị thế và đời sống người cao tuổi ở Việt
Nam; đánh giá thực trạng việc thực hiện các chương trình, chính sách về người cao



tuổi. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp về chính sách nhằm phát huy vai trò và
nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi [4].
Đề tài “Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy
Nhơn” năm 2011 của tác giả Phạm Quỳnh Anh tìm hiểu về các đặc trưng của hỗ trợ
xã hội đối với người cao tuổi (sức khỏe, y tế, tinh thần, vật chất), những yếu tố văn
hóa – xã hội của người cao tuổi và làm rõ việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi
thông qua sự trợ giúp về chăm sóc sức khỏe, trò chuyện, sinh hoạt hàng ngày. Trên
cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng những vấn đề hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi,
đề tài đưa ra các giải pháp và định hướng đối với việc hỗ trợ xã hội cho người cao
tuổi. Đề tài tiến hành nghiên cứu quá trình sống của 130 người cao tuổi ở 3 khu vực
(khu vực 1, 3, 8) của phường Nguyễn Văn Cừ, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định [1].
Có thể thấy, rất nhiều các nghiên cứu về người cao tuổi thời gian trước và gần
đây mới chỉ thu thập thông tin về người cao tuổi, các nghiên cứu tập trung vào một
số đặc thù về người cao tuổi hoặc nghiên cứu người cao tuổi ở một số địa bàn đặc
thù nhằm đưa ra thực trạng về người cao tuổi, chất lượng chăm sóc người cao tuổi
và khuyến nghị về chăm sóc người cao tuổi, nâng cao chất lượng chăm sóc người
cao tuổi.
Vì vậy, việc nghiên cứu công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn
tỉnh Long An có giá trị tham khảo đối với cơ quan, tổ chức hữu quan tỉnh Long An
trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển nghề công tác xã hội nói chung,
công tác xã hội đối với người cao tuổi nói riêng.
Nghiên cứu lý luận và thực trạng về công tác xã hội đối với người cao tuổi; các
yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cao tuổi hiện nay. Từ đó ứng
dụng công tác xã hội cá nhân và đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác xã hội đối với người cao tuổi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng về công tác xã hội đối với người cao tuổi; các
yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cao tuổi hiện nay; Từ đó đưa ra
ứng dụng công tác xã hội cá nhân và đề xuất các biện góp phần nâng cao hiệu quả
công tác xã hội đối với người cao tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi.


- Đánh giá, phân tích thực trạng công tác xã hội đối với người cao tuổi.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người cao tuổi.
- Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân đối với người cao tuổi.
- Đưa ra các các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với
người cao tuổi trên địa bàn tỉnh Long An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Long An
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: công tác xã hội đối với người cao tuổi có nhiều nội
dung hoạt động, tuy nhiên trong phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu 05
nội dung hoạt động chủ yếu sau:
+ Hoạt động truyền thông về người cao tuổi
+ Hoạt động hỗ trợ chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi
+ Hoạt động hỗ trợ về tâm lý cho người cao tuổi
+ Hoạt động kết nối nguồn lực
+ Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho người cao tuổi
- Phạm vi về khách thể: Đề tài nghiên cứu trên 110 người cao tuổi; Cán bộ quản
lý và nhân viên công tác xã hội làm việc với người cao tuổi các cấp; Cán bộ đang
làm việc ở các hội đoàn thể liên quan đến người cao tuổi; Gia đình có người cao tuổi.
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu giới hạn phạm vi về không gian chỉ
tập trung nghiên cứu người cao tuổi ở 3 khu vực đặc trưng của tỉnh Long An (đại diện

50 người cao tuổi tại thành phố Tân An, đại diện 30 người cao tuổi tại huyện Vĩnh
Hưng, đại diện 30 người cao tuổi tại huyện Đức Hòa).
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2016 đến năm 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực trạng về đời
sống của người cao tuổi, thực trạng của công tác xã hội đối với người cao tuổi trên
địa bàn rút ra những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp nâng cao
hiệu quả công tác xã hội đối với người cao tuổi trên địa bàn tỉnh.
Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm cơ sở lý luận, khoa học
cũng như phát triển hệ thống các lý luận, phương pháp trong nghiên cứu về các vấn
đề liên quan như công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội, quản lý công tác xã hội và
một số vấn đề lý luận về người cao tuổi.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:


Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu: Tiến hành thu thập và phân tích các
thông tin tư liệu từ các nguồn như: văn bản pháp luật, sách, báo, tài liệu trong các
báo cáo của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội và Hội người cao tuổi. Ngoài ra,
luận văn còn phân tích một số báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp có liên quan
đến người cao tuổi.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi
lặp lại giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu chính sách của
Nhà nước và địa phương đối với người cao tuổi; các hoạt động trong công tác xã hội
đối với người cao tuổi, những mong muốn nguyện vọng, kinh nghiệm và nhận thức
của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ, thái độ của người ấy. Nghiên
cứu sẽ tiến hành 15 cuộc phỏng vấn sâu với lãnh đạo quản lý, cán bộ Hội, nhân viên
công tác xã hội và người cao tuổi có khả năng giao tiếp được đang sống tại 3 khu vực
(thành phố Tân An, huyện Vĩnh Hưng, huyện Đức Hòa).

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với 110
người cao tuổi hiện đang sống tại 3 khu vực đặc trưng của tỉnh Long An (thành phố
Tân An, huyện Vĩnh Hưng, huyện Đức Hòa). Với phương pháp này, nhằm mục đích
để tìm hiểu, thu thập thông tin chung về thực trạng đời sống của người cao tuổi, thực
trạng hoạt động truyền thông, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ pháp lý
và kết nối nguồn lực để chăm sóc đời sống vật chất cho người cao tuổi.
Phương pháp chuyên gia: Thu thập ý kiến các chuyên gia (các nhà lãnh đạo,
các nhà khoa học, các nhà quản lý và người thực hiện) trong lĩnh vực công tác xã
hội. Các chuyên gia là những người có hiểu biết sâu, có nhiều kinh nghiệm và thực
tiễn trong công tác xã hội đối với người cao tuổi. Các ý kiến của chuyên gia giúp
làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu nhất là phần đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm
thực hiện tốt công tác xã hội đối với người cao tuổi trong thời gian tới.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng chương trình SPSS để xử lý, phân
tích bảng hỏi; trích dẫn nội dung phỏng vấn sâu qua băng ghi âm, biên bản ghi chép
theo chủ đề phân tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Thông qua nghiên cứu này, có thể nhìn nhận vấn đề công tác xã hội đối với
người cao tuổi từ góc độ khoa học, mô tả, đánh giá vấn đề bằng những lý thuyết khoa
học liên quan đến ngành công tác xã hội, kiến thức thu được từ thực tiễn được bổ sung


sẽ làm phong phú thêm nguồn tham khảo cho việc phân tích lý luận về công tác xã hội
đối với người cao tuổi nói riêng và lý luận về công tác xã hội nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển và ảnh hưởng
mạnh mẽ của công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã làm cho vấn đề già hóa dân số cần
được quan tâm hơn. Việc chăm lo đời sống của người cao tuổi không chỉ là của cá
nhân, gia đình, cộng đồng mà cả toàn xã hội. Công tác xã hội đối với người cao tuổi
là hoạt động cần thiết nhằm trợ giúp người cao tuổi vượt qua khó khăn, giúp người

cao tuổi đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiếm tiềm năng, điểm mạnh từ đó nâng cao
năng lực tự giải quyết vấn đề. Từ đó tạo điều kiện để người cao tuổi có thể tự nâng
cao năng lực, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của chính bản thân người
cao tuổi, góp phần giúp người cao tuổi sống vui, sống khỏe, sống có ích. Tuy nhiên,
trong quá trình tổ chức thực hiện, công tác này còn gặp rất nhiều khó khăn. Từ
nghiên cứu này, tác giả mong muốn sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về thực trạng
công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn tỉnh Long An; đồng thời đề xuất
một số giải pháp để bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác xã hội đối với người cao
tuổi.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với người cao tuổi tại tỉnh Long An.
Chương 3: Ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân và đề xuất các biện
pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với người cao tuổi từ thực tiễn
tỉnh Long An.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
1.1. Người cao tuổi: khái niệm, đặc điểm và nhu cầu
1.1.1. Khái niệm người cao tuổi
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về NCT. Trước đây, người ta thường dùng
thuật ngữ người già để chỉ những người có nhiều tuổi, hiện nay, nhiều nước trên thế
giới và một số tổ chức quốc tế, cũng như ở Việt nam đã dùng danh từ “Người cao
tuổi” thay cho “Người già”. Cụm từ “Người cao tuổi” bao hàm sự kính trọng, sự
động viên hơn so với cụm từ “Người già”. Tuy nhiên, về mặt khoa học thì thuật ngữ
“Người già” hay “Người cao tuổi” đều được dùng với ý nghĩa tương tự như nhau.

Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với
việc suy giảm các chức năng của cơ thể [11, tr.08].
Theo qui ước của Liên Hiệp Quốc “Những người từ 60 tuổi trở lên không phân
biệt giới tính là người già” và chia làm hai nhóm tuổi (tuổi từ 60-74 là NCT và tuổi
từ 75 trở lên là người già).
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phân chia các lứa tuổi người già làm ba
nhóm (Từ 60-74 tuổi: NCT; Từ 75-90 tuổi: người già và ngoài 90 tuổi: người già
sống lâu).
Tại Việt Nam, Luật NCT được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua tại kỳ họp thứ 6, quốc hội khóa XII quy định: “Người cao tuổi là
công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” [27, tr.01].
Theo quan điểm của Công tác xã hội: Với đặc thù là một nghề trợ giúp xã hội,
CTXH nhìn nhận về NCT như sau: NCT với những thay đổi về tâm sinh lý, lao động,
thu nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do đó, NCT
là một đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của cộng đồng [23, tr.82].
1.1.2. Đặc điểm về tâm sinh lý - xã hội của người cao tuổi
1.1.2.1. Đặc điểm về sinh lý
Ở người già hiện tượng lão hóa xuất hiện. Cường độ trao đổi chất giảm. Hệ hô
hấp tuần hoàn kém (nhịp thở yếu, lực co bóp tim yếu, huyết áp không ổn định...) độ
nhạy cảm giác quan kém (mắt mờ, tai nghễnh ngãng...). Khả năng chống đỡ tác nhân
ngoại cảnh kém, bệnh tật phát sinh [15, tr 82-83].


Ở độ tuổi này NCT thường mắc các bệnh như: bệnh huyết áp cao, tai biến mạch
máu não, đau đầu, giảm thị lực, loãng xương và một số bệnh liên quan đến hệ thần
kinh như Parkinxon làm cho tay chân rui rẩy, không điều khiển chính xác động tác,
hành động của mình, gây nhiều khó khăn cho tự phục vụ trong sinh hoạt, bệnh
Alzheimer làm cho trí nhớ NCT giảm sút, giảm khả năng suy nghĩ lôgic, sau đó biểu
hiện trong lời nói và kèm theo là rối loạn hành vi, hay gây gổ, đi lang thang...dần dần
không làm chủ được gì cho bản thân, không tự phục vụ được và cuối cùng là chết [15,

tr 82-83].
1.1.2.2. Đặc điểm về tâm lý
Bên cạnh những thay đổi về thể chất về sinh lý thì tâm lý còn là một vấn đề hết
sức quan trọng đối với NCT vì trong các giai đoạn của cuộc sống thì tuổi già là giai
đoạn con người không phải làm gì để vun đắp cho cuộc sống mà là giai đoạn thụ
hưởng kết quả đạt được từ trước mang lại.
Tâm lý ở NCT có sự thay đổi như sau [15, tr 83-85]:
- Đời sống trí tuệ: Ở độ tuổi này tính ham hiểu biết vẫn còn, NCT rất hứng thú
theo dõi tin tức thời sự, khoa học kỹ thuật, những trào lưu mới trong xã hội. Tuy
nhiên về mặt trí nhớ, tư duy có sự thay đổi rõ rệt. Trí nhớ ngắn hạn giảm sút, trí nhớ
dài hạn vẫn ở mức độ cao do đó NCT hay quên. Quên ngay điều vừa thấy, nhưng
những kỷ niệm cũ có thể nhớ rất rõ, do vậy họ sống nặng về nội tâm, sống trong quá
khứ. Bên cạnh đó hoạt động tư duy quyết định chậm, nhưng quyết định của NCT lại
rất chín chắn.
- Đời sống tình cảm: NCT phản ứng xúc cảm nhạy bén, vui buồn dễ dàng, dễ
mủi lòng, dễ hờn dỗi, dễ vui, có sự rộng lượng khoan dung; sự xao xuyến lo âu là
tâm trạng thường xuyên của NCT; sợ đau ốm khi tinh thần giảm sút; sợ không người
chăm sóc, không đủ kiên nhẫn chịu đựng nỗi đau, sợ báo hại con cháu, làm khổ
những người xung quanh; sợ cô đơn, vô dụng.
- Đời sống xã hội: Đa số NCT vẫn còn sức khỏe, còn năng lực sáng tạo, thậm
chí ở mức độ cao nhờ tích lũy kinh nghiệm sống. Chính vì vậy các cụ có ý thức trách
nhiệm trước tập thể, gia đình, xã hội cao. NCT thường gắn bó hơn với cuộc sống tâm
linh, với dòng họ, gia đình và con cái. Bên cạnh tâm lý hướng về cội nguồn, tổ tiên,
những NCT còn có mối quan tâm đặc biệt đối với con cháu. Trong giai đoạn này
NCT thường hồi tưởng, thường tự xem xét, đánh giá về quãng đời của mình. Để giải
tỏa những ưu phiền thường nhật trong cuộc sống hiện tại, NCT thường thích hội họp,
tìm lại bạn cũ, cảnh xưa, tham gia hội ái hữu, hội cựu chiến binh... Họ thích ôn lại


chuyện cũ, viết hồi ký, hệ thống lại quãng đời đã đi của mình, nhằm để lại cho con

cháu và hậu thế những trải nghiệm của cuộc đời.
Ở độ tuổi này là giai đoạn con người kết thúc thời kỳ lao động của mình để nghỉ
ngơi, thư giãn. Đây là tuổi hưu của con người. Khi chuyển từ trạng thái làm việc tích
cực, khẩn trương hàng ngày sang trạng thái nghỉ ngơi với cuộc sống mới. Người ta cho
rằng đây là những năm tháng dễ gây ra các “hội chứng về hưu” ở NCT.
1.1.2.3. Đặc điểm về xã hội
Người cao tuổi là người đã kết thúc giai đoạn lao động chính thức. Nhiều người
sau khi nghỉ hưu vẫn tham gia lao động dưới nhiều hình thức. Họ tiếp tục tạo thu
nhập bằng nghề nghiệp cũ, hoặc nhận những công việc mới phù hợp với sức lực,
hoặc đảm đương công việc nội trợ trong gia đình, hoặc trông nom các cháu. Những
suy nghĩ và việc làm của NCT không nhằm vào lợi ích kinh tế mà hướng vào các giá
trị xã hội nhằm khẳng định vị thế, sự hữu ích và uy tín với con cháu, với cộng đồng.
Trong gia đình truyền thống hay gia đình hiện đại thì vai trò, chức năng của
NCT đều được điều chỉnh lại cho phù hợp với sức khỏe và tuổi tác của họ. Sự quan
trọng của NCT đối với gia đình không phụ thuộc quá nhiều vào việc họ có sống cùng
con cháu hay không. Trong cuộc sống gia đình, NCT vừa muốn sống độc lập không
phụ thuộc con cháu (nhất là về kinh tế), song họ đều muốn gần gũi với con cháu, để
tránh sự cô đơn, để được sự chăm nom, săn sóc lúc “trái nắng, trở trời”.
Những tác động của đời sống kinh tế - xã hội tạo ra những thay đổi quan trọng
trong đời sống NCT, ngoài những tiện ích của dịch vụ xã hội hỗ trợ, NCT tự cảm
thấy mình đang mất dần các uy thế và quyền lực. Do tuổi cao, sức yếu, NCT thường
là từ chối, ngại tham gia các hoạt động xã hội mang tính tập thể. Hạnh phúc nhất của
tuổi già chính là sự thanh thản với những sở thích cá nhân. Quan hệ giao tiếp xã hội
thường giới hạn ở những nhóm nhỏ, như Hội NCT, hội dưỡng sinh, các câu lạc bộ,
hoặc tham gia các sinh hoạt lễ hội, chùa chiền. Quan hệ xã hội ở NCT đã bị thu hẹp
lại, họ mãn nguyện trong sự hoà thuận, xum vầy với con cháu, hoặc tự ái, sống cô
đơn trong sự bất lực, giận dỗi với người thân [12, tr .55].
1.1.3. Nhu cầu của người cao tuổi
Là con người xã hội, mỗi người cần có những nhu cầu: nhu cầu về vật chất và
nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường rất đa dạng, phong phú và

phát triển. Nhu cầu con người phản ánh mong muốn chủ quan hoặc khách quan tùy
theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa, nhận thức và vị trí xã hội của họ.


Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ bản cần
cho sự sống như ăn mặc, nhà ở, chăm sóc y tế… để phát triển con người cần được
đáp ứng các nhu cầu cao hơn, như: nhu cầu được an toàn, được học hành, được yêu
thương, được tôn trọng và khẳng định. Xét cho cùng sự vận động và phát triển của xã
hội loài người nhằm mục đích đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của con người. Việc
đáp ứng các nhu cầu con người chính là động cơ thúc đẩy con người tham gia hoạt
động sản xuất, hoạt động xã hội.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu tác giả tìm hiểu
nhu cầu của những NCT theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu
nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có
ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu
của nhà tâm lý học A.Maslow.
Dựa theo thang nhu cầu của A.Maslow thì NCT hiện nay có 5 nhu cầu cơ bản
đó là:
- Nhu cầu được chăm sóc đời sống vật chất: Mặc dù trải qua một giai đoạn của
cuộc đời nhưng nhu cầu cơ bản, thiết yếu của cuộc sống và không thể thiếu ở NCT
đó là chế độ ăn, ở, nghỉ ngơi phù hợp, chẳng hạn NCT mắt kém cần có kính lão để
họ có thể tực túc hoạt động không cần phải được dẫn dắt. NCT vận động và yếu sức
không nên ở nhà tầng cao, vì phải leo cầu thang nhiều dễ ngã,…Đây là nhu cầu
không thể thiếu để NCT có thể tồn tại trong cuộc sống hàng ngày.
- Nhu cầu được an toàn: hầu hết NCT là người đã từng trải qua 2 cuộc đấu
tranh gian khổ để dành độc lập, do đó họ hiểu được sự tàn khốc, mất mát do chiến
tranh gây ra, chính vì vậy, ngày nay NCT luôn mong muốn được sống trong khung
cảnh hòa bình, được gia đình, người thân và cộng đồng đùm bọc, yêu thương, quan
tâm, chăm sóc và chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng họ. Hơn nữa, NCT đang
sống trong giai đoạn cuối của cuộc đời, giai đoạn lão hóa nên không những chỉ ảnh

hưởng thể chất mà cả về tâm lý. Vì vậy, đối với NCT việc chăm sóc sức khỏe là vô
cùng cần thiết, từ chế độ ăn uống sinh hoạt, khám chữa bệnh, tạo điều kiện cho NCT
sống trong môi trường lành mạnh, ít căng thẳng.
- Nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó: NCT là những người từng trải trong cuộc
sống, tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu, chính vì vậy NCT luôn có nhu cầu giao
tiếp, luôn cảm thấy mình vẫn có ích cho xã hội nên họ muốn tiếp tục cống hiến
những kiến thức, kinh nghiệm sống cho con cháu, gia đình và xã hội. Ở độ tuổi này,
NCT luôn muốn được quây quần vui cùng con cháu, được giao lưu với bạn bè, đồng


đội, được tham gia vào các tổ chức ở địa phương như Hội NCT, Hội cựu chiến binh,
…Nếu thiếu những mối quan hệ và tình cảm của những người thân, bạn bè thì NCT
rất dễ nảy sinh cảm giác cô đơn và đôi khi có thể tăng thêm quá trình lão hóa.
- Nhu cầu được tôn trọng: đối với NCT thì đây là một nhu cầu cực kì quan trọng
bởi lẽ họ là những người có nhiều công lao, đóng góp cho gia đình và xã hội, vì vậy họ
luôn muốn được gia đình, cộng đồng và xã hội tôn trọng, kính nể, xem họ là tấm
gương để noi theo và thừa nhận những thành quả mà họ đã cống hiến.
- Nhu cầu tự thể hiện bản thân: NCT mặc dù tuổi cao, sức khỏe yếu nhưng
NCT cũng mong muốn tự khẳng định mình và được xã hội tạo điều kiện để hoàn
thiện bản thân, được cống hiến, được nói lên tiếng nói của họ, được tham gia vào xây
dựng Đảng, tham gia vào các hoạt động xã hội,…
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người cao tuổi
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm công tác xã hội
- Theo tài liệu nghề CTXH – Nền tảng triết lý và kiến thức: CTXH là một nghề,
một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng
nâng cao năng lực đáp ứng yêu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc
đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia
đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo
ASXH [22, tr.3].

Ngoài ra còn có các khái niệm được đưa ra ở nhiều góc độ khác nhau:
- Theo Hiệp hội Quốc gia nhân viên CTXH (NASW): CTXH là hoạt động nghề
nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khôi phục
tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã
hội phù hợp với các mục tiêu của họ [23, tr.3].
- Theo từ điển bách khoa ngành CTXH (1995): CTXH là một khoa học ứng
dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến
xã hội và đem lại nền ASXH cho người dân trong xã hội, CTXH tồn tại để cung cấp
các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm,
cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng lực và cải thiện cuộc sống [37].
- Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh (2004): CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng
đồng tự giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát
huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải
quyết vấn đề của mình.


Công tác xã hội tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết
khoa học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức năng
xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế
hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên
môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để thỏa mãn
những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai
trò xã hội của mình.
- Như vậy, ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của tác giả
Bùi Thị Xuân Mai: CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp
các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng
cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn
lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa
các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo ASXH [23, tr.3].
* Khái niệm công tác xã hội đối với người cao tuổi

Từ khái niệm CTXH, chúng ta có thể đưa ra khái niệm CTXH đối với NCT
như sau: CTXH đối với NCT là hoạt động chuyên môn của CTXH nhằm trợ giúp
NCT đặc biệt là NCT gặp khó khăn trong cuộc sống để họ có điều kiện tự đánh giá,
xác định vấn đề, phát huy điểm mạnh từ đó nâng cao năng lực để tăng cường chức
năng xã hội, tự giải quyết vấn đề thông qua các hoạt động như truyền thông nâng
cao nhận thức, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ về tâm lý, kết nối nguồn lực, hỗ trợ
pháp lý cho người cao tuổi.
1.2.2. Nguyên tắc công tác xã hội trong làm việc với người cao tuổi
Trên cơ sở nền tảng triết lý và giá trị, nguyên tắc nghề nghiệp của ngành CTXH
người ta đưa ra hệ thống các qui tắc ứng xử cho nhân viên xã hội trong quá trình thực
hiệụ. Những qui tắc ứng xử này đóng vai trò như kim chỉ nam cho hành động tương
tác của nhân viên xã hội với đối tượng trong quá trình trợ giúp. Tuy nhiên trong quá
trình làm việc của CTXH đối với NCT cần bảo đảm một số nguyên tắc cơ bản sau
[23, tr.43- 45]:
* Nguyên tắc chấp nhận người cao tuổi
Đối tượng phục vụ của ngành CTXH là con người, đặc biệt là nhóm người yếu
thế, nhóm người có hoàn cảnh và nhu cầu chưa được đáp ứng. Thân chủ trong CTXH
đối với NCT đó là những NCT có hoàn cảnh và nhu cầu cơ bản chưa được đáp ứng.
Mỗi con người dù là bình thường hay bất bình thường, dù người trẻ hay người già thì ở
họ vẫn có nhân phẩm, có giá trị riêng và có quyền được tôn trọng, bình đẳng. Chính vì


vậy trong hoạt động trợ giúp, NVCTXH cần phải có thái độ tôn trọng phẩm giá con
người và chấp nhận họ. Việc chấp nhận những hành vi, quan điểm hay giá trị của thân
chủ không có nghĩa là đồng tình với hành vi, suy nghĩ của họ. Sự tôn trọng hay chấp
nhận ở đây ám chỉ sự ghi nhận sự tồn tại và không phán xét những hành vi hay suy
nghĩ của họ.
NVCTXH cần tôn trọng những cảm xúc, suy nghĩ của NCT. Khi được chúng ta
giúp đỡ, NCT có thể phê phán, đỗ lỗi, quy gán và có những nhận định không hợp lý.
NVCTXH hãy xem đó là những điều bình thường bởi NCT đang bức xúc, họ đang

khủng hoảng với tình trạng của chính bản thân họ. Thực hiện nguyên tắc này giúp cho
NVCTXH tạo được lòng tin từ NCT, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẽ của họ, đó
là nền tảng cho việc thiết lập mối quan hệ nghề nghiệp.
* Nguyên tắc đảm bảo tính cá biệt hóa
NVCTXH cần coi mỗi NCT là một cá thể có thuộc tính thể chất và tinh thần
khác nhau, bởi vậy các mục đích, giá trị, nguyện vọng và hành vi của mỗi người cũng
mang tính cá biệt. Việc cá biệt hóa trường hợp của NCT giúp NVCTXH đưa ra được
phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể. Việc đảm bảo tính khác
biệt trong trợ giúp NCT thể hiện ở việc tìm hiểu và phát hiện những nét đặc thù của
trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề, không áp dụng cách giải quyết giống
nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi trường hợp cần được cân nhắc trên cơ sở
nhu cầu, đặc điểm, khả năng và nguồn lực mà họ có.
* Nguyên tắc tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia giải quyết vấn đề
Phương châm trợ giúp trong CTXH là “cho cần câu chứ không cho xâu cá”.
Do đó, vấn đề khó khăn của thân chủ chỉ có thể giải quyết tốt nhất khi có sự tham gia
của thân chủ, bởi hơn ai hết họ là người hiểu rõ nhất về hoàn cảnh, những khó khăn
của mình. Khi làm việc với NCT, NVCTXH chỉ đóng vai trò xúc tác, vai trò định
hướng trong quá trình trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp cho vấn đề của họ. Đối
với NCT, kinh nghiệm sống rất phong phú, họ đã trải qua nhiều sóng gió của cuộc
đời, kinh nghiệm được tích lũy trong suốt quãng đời trước đây sẽ là nguồn lực hữu
ích giúp họ tham gia tự giải quyết vấn đề.
* Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của người cao tuổi
NVCTXH không quyết định thay NCT, không áp đặt mà chỉ đóng vai trò là
người xúc tác và giúp đỡ họ đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh của
họ. NCT hơn ai hết bản thân biết mình cần gì, mong muốn gì, đồng thời cũng là


người hiểu hoàn cảnh của mình hơn tất cả những người khác vì họ là những người có
nhiều trải nghiệm cũng như kinh nghiệm sống rất phong phú.
Việc NCT tự đưa ra quyết định của mình giúp cho họ có trách nhiệm với việc

lựa chọn của mình, không lệ thuộc vào sự trợ giúp của NVCTXH. Thực hiện nguyên
tắc này cũng là cách mà NVCTXH sẽ giúp cho NCT tự tin hơn, từ đó nâng cao khả
năng tự ra quyết định của mình, khắc phục khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.
* Nguyên tắc giữ bí mật về các vấn đề cuả người cao tuổi
Cũng như các đối tượng khác, NCT luôn mong được giữ kín các thông tin sau
khi họ đã cung cấp cho chúng ta bởi lẽ họ vốn mặc cảm bởi thân phận, bởi tuổi tác,
hoàn cảnh mà họ đang gặp phải và vì vậy không phải với bất cứ ai họ cũng dễ dàng
dãi bày tâm sự. Nếu NVCTXH đảm bảo tốt nguyên tắc này thì sẽ xây dựng được mối
quan hệ tốt đẹp với NCT, tạo được lòng tin với NCT.
* Nguyên tắc phải luôn luôn ý thức được mình
NVCTXH luôn phải chứng tỏ năng lực, sự hiểu biết, tính chuyên nghiệp trong
công việc. Cần nắm rõ vai trò, nhiệm vụ của mình trong từng lúc từng nơi và trong
từng trường hợp cụ thể, luôn phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức và nhân cách của một
NVCTXH.
* Nguyên tắc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên công tác xã hội và
người cao tuổi
Đó phải là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đồng cảm và chia sẻ,
luôn biết coi trọng lợi ích của NCT, không coi việc giúp đỡ của mình là một sự ban
ơn đối với họ.
1.2.3. Hoạt động công tác xã hội đối với người cao tuổi
1.2.3.1. Hoạt động truyền thông về người cao tuổi
Trong tiến trình phát triển, truyền thông là công cụ quyền lực có thể cải thiện
cuộc sống con người, giúp con người nâng cao nhận thức, thái độ và chuyển đổi
hành vi, hiểu biết việc mình làm và hiểu được những rào cản để thay đổi hoặc áp
dụng các thực hành mới. Trong thực tế cuộc sống truyền thông là một công cụ hữu
hiệu, giúp con người dễ dàng trao đổi, thấu hiểu theo chiều hướng phát triển thông
qua giao tiếp và sử dụng thành thạo các phương pháp truyền thông.
Hoạt động truyền thông về NCT nhằm tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức của cộng đồng, gia đình, cơ quan, đoàn thể về các vấn đề liên quan đến NCT
như CSSK, chế độ, chính sách đối với NCT, tạo điều kiện để NCT sống vui, sống

khỏe, sống có ích cho gia đình và xã hội. Bằng các phương tiện thông tin truyền


thông như: các buổi hội họp, sinh hoạt Hội NCT, câu lạc bộ của NCT, các buổi hội
thảo, họp khu phố, các hoạt động văn hóa văn nghệ về NCT hay bằng các phương
tiện thông tin đại chúng như: báo chí, bản tin, sách, tạp trí NCT, pano, apphich, tờ
rơi, Đài phát thanh-Truyền hình, Ti vi, Radio, Internet, mạng xã hội,…Nội dung chủ
yếu cho hoạt động truyền thông về NCT đó là tuyên truyền phổ biến các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về NCT để họ biết và được hưởng những chế độ
theo qui định; vai trò trách nhiệm của gia đình, cộng đồng đối với NCT; đặc biệt là
tuyên truyền phổ biến, truyền đạt những thông tin, kiến thức khoa học về CSSK, các
dịch vụ hỗ trợ xã hội như tư vấn tâm lý cho NCT, dịch vụ chăm sóc NCT tại các cơ
sở nuôi dưỡng, chăm sóc NCT; dịch vụ chăm sóc NCT tại gia đình, cộng đồng… để
cho NCT có thể tham gia, từ đó đáp ứng được một số nhu cầu cần thiết của NCT và
các hoạt động chuẩn bị tuổi già.
1.2.3.2. Hoạt động hỗ trợ chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi
Già là quy luật tự nhiên không thể tránh khỏi ở tất cả mọi người, nhưng quá trình
già rất khác nhau, có người già sớm, có người già muộn, có người ốm yếu, có người
khỏe mạnh,...CSSK cho NCT không chỉ kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao chất lượng
sống, giúp NCT sống vui, sống khỏe, sống có ích gia bản thân, gia đình và xã
hội.chăm sóc sức khỏe NCT vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa vụ, vừa là thể hiện sự
văn minh tiến bộ của xã hội. CSSK cho NCT không chỉ đơn thuần là những chăm sóc
trong khám chữa bệnh, mà còn bao gồm cả những chăm sóc về vật chất, tinh thần và
xã hội.
Với sự thay đổi về tâm sinh lý cũng như xã hội, NCT dễ gặp các vấn đề khó
khăn trong cuộc sống. Các vấn đề này làm cho việc thực hiện các chức năng xã hội
của họ bị cản trở và làm cho họ trở thành nhóm đối tượng yếu thế cần được giúp đỡ
chuyện nghiệp. Khi làm việc trong lĩnh vực trợ giúp NCT, NVCTXH phải tìm hiểu,
phân tích, đánh giá cũng như giúp NCT giải quyết các vấn đề cụ thể của bản thân, từ
đó giúp họ phục hồi và phát triển các chức năng xã hội để hòa nhập với xã hội, tiếp

tục đóng góp sức lực, trí tuệ và kinh nghiệm để phát triển địa phương, đất nước.
Có thể nói rằng công tác CSSK cho NCT được quan tâm, tạo điều kiện. Hầu hết
NCT thuộc diện hưởng lương hưu, chính sách người có công, chính sách bảo trợ xã
hội, NCT thuộc hộ nghèo đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế, được miễn giảm viện phí,
được khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí theo quy định. Nhiều chương trình
CSSK như mắt sáng cho NCT, khám chữa bệnh miễn phí được Hội NCT và các địa
phương thực hiện thường xuyên. Cùng với việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế, để chăm


sóc tốt hơn đời sống tinh thần cho NCT, ngành LĐTBXH tổ chức thăm hỏi, tặng
quà, chúc thọ, mừng thọ cho NCT vào các dịp Lễ, Tết nhằm động viên, khích lệ NCT
sống vui, sống khỏe.
Các hoạt động trợ giúp NCT [11, 28]:
- Tư vấn cách thức CSSK, chế độ dinh dưỡng phù hợp cho NCT và gia đình
của họ.
- Tư vấn cách thức khám chữa bệnh, các thủ tục tại bệnh viện và lên kế hoạch
giúp NCT khi họ có bệnh và phải đi chữa trị tại bệnh viện.
- Tổ chức khám chữa bệnh định kỳ tại địa phương để giúp phát hiện các bệnh
nói riêng và các vấn đề sức khỏe nói chung của NCT.
- Tổ chức các lớp TDTT: võ thuật dưỡng sinh, cầu lông, bóng dìn…tại địa
phương để NCT hoạt động và tăng cường sức khỏe.
- Cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ chăm sóc: Nấu ăn, giặt đồ, dẫn đi dạo…để
NCT có khả năng sống độc lập ngay cả khi họ bị hạn chế về điều kiện sức khỏe.
1.2.3.3. Hoạt động hỗ trợ về tâm lý cho người cao tuổi
Đặc điểm tâm lý nổi bật của NCT là nuối tiếc tuổi trẻ, hay hoài cổ. Họ thường
nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, rất tự hào về kinh nghiệm sống đã qua của
mình. Họ nhạy bén với cái mới, cái hiện đại, với sự biến động của lịch sử các sự kiện
diễn ra hàng ngày. Nhiều cán bộ viên chức sau khi về nghỉ hưu, từ chỗ hết sức bận
rộn với công việc nay lại nhàn rỗi, không có việc gì làm, bị hụt hẫng, đồng thời lại
thấy mình mất vị trí, quyền lực trong xã hội. Họ cảm thấy không còn được kính nể,

trọng vọng như trước đây, từ đó nảy sinh căng thẳng tâm lý. Cùng với sự suy giảm
về sức khoẻ, NCT suy nghĩ mình trở thành người thừa đối với gia đình và xã hội,
mình không còn vai trò hữu ích nữa, không ai cần mình nữa. Vì vậy họ cảm thấy bị
bỏ rơi, cô đơn, nên sinh tủi phận, buồn bã. Do đó, vấn đề tâm lý có ảnh hưởng lớn
đến cuộc sống của NCT. CTXH trong hỗ trợ tâm lý cho NCT là những hoạt động mà
NVCTXH sử dụng phương pháp, kỹ năng chuyên nghiệp của CTXH để thực hiện
các hoạt động nhằm giúp NCT thích ứng với những thay đổi không thể tránh được
trong cuộc sống của NCT.
Các hoạt động trợ giúp NCT [11, tr.29]:
- Lắng nghe và trò chuyện với NCT. Khi họ được lắng nghe, chia sẻ, họ sẽ kể
được những tâm tư của mình, từ đó họ có thể thoát khói sự cô đơn, khép mình.
- Tham vấn tâm lý cho NCT: Nhân viên xã hội cùng NCT phân tích các vấn đề
mà NCT gặp phải, hỗ trợ NCT giải quyết các vấn đề tâm lý đó.


×