Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Hệ thống biểu tượng trong hai trường ca ngày đang mở sáng và mỗi loài hoa một mặt trời của trần anh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN LỆ QUYÊN

HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG HAI TRƯỜNG CA “NGÀY ĐANG MỞ
SÁNG” VÀ “MỖI LOÀI HOA MỘT MẶT TRỜI” CỦA TRẦN ANH THÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS Chu Văn Sơn

HÀ NỘI, NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Chu Văn Sơn người đã tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà thơ Trần Anh Thái đã tặng sách và cung cấp tư liệu cho
tôi trong quá trình nghiên cứu.
Xin chân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.

Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Lệ Quyên



MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề

3

2.1. Nhận định về trường ca Trần Anh Thái

3

2.2. Nhận định về biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

10

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

10

5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Cấu trúc luận văn 11
NỘI DUNG 12
CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG VÀ TÁC GIẢ TRƯỜNG CA TRẦN ANH THÁI
1.1 Lý thuyết biểu tượng

12


1.1.1 Khái niệm biểu tượng 12
1.1.2 Tính chất của biểu tượng

16

1.1.3 Cách thức giải mã biểu tượng

18

1.1.4 Phân biệt biểu tượng với một số khái niệm gần gũi
1.1.4.1 Biểu tượng với hình tượng24
1.1.1.2 Biểu tượng với hình ảnh 26
1.2 Biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái 28

23

12


1.2.1 Tác giả trường ca Trần Anh Thái

28

1.2.2 Con đường hình thành biểu tượng trường ca Trần Anh Thái

33

CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TRONG NGÀY ĐANG MỞ SÁNG VÀ MỖI
LOÀI HOA MỘT MẶT TRỜI


43

2.1. Biểu tượng con người 43
2.1.1. Biểu tượng mẹ

44

2.1.2. Biểu tượng người lính

48

2.1.3. Biểu tượng những đứa trẻ

55

2.1.4. Biểu tượng người lao động 58
2.2. Biểu tượng thiên nhiên 62
2.2.1. Biểu tượng nước

62

2.2.3. Biểu tượng lửa

66

2.2.3. Biểu tượng đất

70


2.2.4. Biểu tượng cây cối 73
2.3. Biểu tượng sự vật

75

2.3.1. Biểu tượng con đường
2.3.3. Biểu tượng đô thị

75

82

CHƯƠNG 3: CÁCH KIẾN TẠO BIỂU TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA TRẦN ANH
THÁI 90
3.1. Ẩn dụ

90

3.2. Nhân hóa

95


3.3. Tượng trưng

97

3.4. Một số đặc sắc nghệ thuật khác
3.4.1. Đối lập 101
3.4.2. Giọng điệu


103

3.4.3. Sự phối hợp các thể loại
Kết luận

112

108

101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Trong văn học, biểu tượng được sử dụng như một mã nghệ thuật quan trọng, thể
hiện cái nhìn độc đáo của nhà văn về thế giới. Việc nghiên cứu khám phá và giải mã
các biểu tượng trong văn học giúp ta hiểu sâu sắc hơn bản chất sáng tạo của nghệ thuật
nói chung, bổ sung thêm một hướng nghiên cứu thi pháp hình tượng, đem lại những
khám phá mới mẻ và lí giải quá trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
2. Chiến tranh - hòa bình luôn là những vấn đề lớn, thường xuất hiện ấn tượng trong
các thể tài văn học Việt Nam và thế giới. Ở thể loại trường ca, đặc biệt là trường ca
Việt Nam thế kỉ XX, vấn đề này tiếp tục những phát triển rộng mở và mạnh mẽ, nhất là
thời kì đổi mới (sau 1986) đến nay. Các nhà nghiên cứu thường gọi giai đoạn này là
Đợt sóng trường ca lần thứ hai. Cũng bắt đầu từ đây trở đi, trường ca Việt Nam bước
hẳn sang một giai đoạn mới, giai đoạn tìm tòi, biến đổi ở cả hai phương diện: nội dung
và hình thức nghệ thuật.
Trường ca trước 1975 kéo dài đến 1986 ( Đợt sóng trường ca lần một), mang đậm dấu
ấn sử thi và tự sự. Âm hưởng chủ đạo trường ca giai đoạn này là ngợi ca, tôn vinh cuộc
chiến tranh của dân tộc. Sau năm 1975, cùng với những biến động lớn lao của lịch sửxã hội; sự nhất thể hóa các dòng văn học trong nước và đặc biệt là sự tương tác, ảnh

hưởng trực tiếp của văn học thế giới, đã tạo ra một cột mốc cho nền văn học trong
nước. Có thể nói, đây là thời kỳ có nhiều chuyển động mạnh mẽ trong các sáng tác, là
thời kì lên ngôi của cái tôi cá nhân, cá thể, cái tôi bản thể. Bởi vậy, hiện thực được các
tác giả tập trung khai thác là mảng hiện thực của thân phận cá nhân con người, của
chiều sâu tâm linh, chiều sâu suy tưởng...
Song, có một thực tế, sự quan tâm đến nghiên cứu về trường ca còn lẻ tẻ, chưa có hệ
thống và nhất là chưa được tập trung đào sâu suy ngh một cách thấu đáo và toàn diện.
1


Các công trình nghiên cứu phê bình thường tập trung vào các trường ca kháng chiến,
như Thanh Thảo đã từng nhận xét: Trường ca đã được quyền nghỉ ngơi vì chiến tranh
đã kết thúc rồi... Chính vì có quan điểm này, nên việc nhìn nhận đánh giá về trường ca
trong thời gian qua chưa thực sự công b ng và chưa có cái nhìn xác thực, thấu đáo.
Trên thực tế, vùng hiện thực của trường ca v n không ngừng phát triển và nới rộng
biên độ, có sự phát triển mạnh mẽ ở cả chiều sâu và bề rộng. Và nhất là hiện nay, sau
“đợt sóng trường ca lần thứ hai , nhiều cây bút trẻ liên tiếp cho ra đời, thử sức mình ở
thể loại trường ca - Một thể loại đòi hỏi ở người viết phải có một nội lực sáng tạo mạnh
mẽ, bền bỉ, một tư duy rộng và sâu....
3. Là một gương mặt tiêu biểu của trường ca Việt Nam hiện đại, Trần Anh Thái với bộ
bốn trường ca Đổ bóng xuống mặt trời (1999) Trên đường (2004), Ngày đang mở
sáng (2007), Mỗi loài hoa một mặt trời (2015) đã làm mới diện mạo trường ca Việt
Nam, có sự cách tân trên nhiều phương diện: đề tài, ngôn từ, giọng điệu, hệ thống hình
ảnh,… Trần Anh Thái đã mở ra một hướng đi mới cho trường ca Việt Nam trong thời
điểm trường ca dường như đang rơi vào ngõ cụt.
Trần Anh Thái là một người nghệ s chân chính. Ông đã có những cống hiến lớn lao
trong việc phát huy truyền thống thơ ca của dân tộc, kết hợp một cách nhuần nhuyễn
giữa truyền thống và hiện đại; đồng thời góp phần không nhỏ trong việc tìm tòi, đổi
mới, cách tân thể loại. Đưa thể loại trường ca tiệm cận với đời sống sâu thẳm của hiện
thực, của thân phận người. Các công trình nghiên cứu về trường ca Trần Anh Thái tuy

đã có nhưng chưa đầy đủ, chưa hệ thống và nhất là chưa thực sự sâu sắc, mà mới chỉ
dừng lại ở những bài báo, một số bài nghiên cứu và một số luận văn nghiên cứu chuyên
sâu về phong cách, đặc điểm trường ca,… đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu
về hệ thống biểu tượng trong trường ca của ông.

2


Với tất cả những lý do trên, mục đích nghiên cứu của luận văn lần này là làm rõ hệ
thống biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái, chỉ ra những đóng góp của Trần Anh
Thái trên thể loại trường ca nói riêng và trong nền thơ ca Việt Nam nói chung...
2. Lịch sử vấn đề
Trần Anh Thái là một trong số ít những nhà thơ đương đại nhận được sự quan tâm, chú
ý của bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình. Ngay từ tập trường ca đầu tiên Đổ bóng
xuống mặt trời được ra mắt bạn đọc, nó đã ngay lập tức thu hút sự quan tâm của giới
văn học, các nhà nghiên cứu phê bình có uy tín về phong cách, giọng điệu, ngôn từ, cấu
trúc, hình ảnh,…
Có rất nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo, lời nhận xét ngắn, luận văn
nghiên cứu về trường ca Trần Anh Thái có giá trị. Đặc biệt cuộc hội thảo thơ có tầm cỡ,
với chủ đề “Nhà thơ Trần Anh Thái với thể loại trường ca” của Viện Văn học Việt
Nam và Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, có sự tham gia của đông đảo các nhà nghiên
cứu, phê bình, các nhà văn nhà thơ hàng đầu của cả nước như: GS Trần Đình Sử, GS
Đ

ai Thúy, PGS Trương Đăng Dung, PGSTS Nguyễn Đăng Điệp, TS Chu Văn Sơn,

GS Trần Ngọc Vương, GS Nguyễn Văn ong... Nhà thơ Trúc Thông, nhà thơ Thanh
Thảo, nhà thơ Inrasara, nhà văn Bảo Ninh, Nguyễn

uang


ập, Chu Lai, Đ Minh

Tuấn, Dương Kiều Minh, Hoàng Hưng…
2.1. Nhận định về trường ca Trần Anh Thái
GS.TS Trần Đình Sử đã khẳng định “Trường ca Trần Anh Thái là một cuộc lột xác về
diễn ngôn “Trường ca Trần Anh Thái là một đối thoại với truyền thống và giai đoạn
trước .
Trung Trung Đình đánh giá cao “sức mạnh cảm hứng trong trường ca: “Trần Anh
Thái không chọn cấu trúc cho cảm hứng mà ông đã cùng với cảm hứng chọn cho

3


trường ca của mình một cấu trúc, có thể nói một cấu trúc ng u hứng, một cấu trúc hoàn
toàn nương theo cảm hứng mang đậm chất tài tử của lối chơi dân dã… và ý tưởng đó
đã tạo nên “vẻ đẹp vạm vỡ của mạch nguồn bởi sức hấp d n của cá tính trầm uất nhưng
đầy phóng túng của nhà thơ [14].
Cùng nhận định về cấu trúc trường ca Trần Anh Thái, Nguyễn Hòa nêu ý kiến: “Cái
khác biệt của trường ca Trần Anh Thái chính là sự phá vỡ cấu trúc trường ca, không
phải kể sự kiện mà là suy tư về sự kiện “Trần Anh Thái chính là đã làm cho trường ca
sống lại b ng cảm xúc tâm trạng thoát khỏi những cốt truyện, những sự kiện mà dựa
vào suy tư, trải nghiệm của bản thân [57]. Còn Trương Đăng Dung thì nhận xét: “Trần
Anh Thái đã bóp méo cấu trúc hiện thực để giữ lại cấu trúc cái tôi “Trường ca Trần
Anh Thái giữ được mạch trọn vẹn. Cảm hứng của anh không như người ta lắp ghép
vào với nhau [57]. Không thể không nhắc đến nhận định của Đoàn Ánh Dương về cấu
trúc trường ca Trần Anh Thái: “Cốt truyện sự kiện bị phân rã và cốt truyện tâm lý được
đẩy lên đến cao trào. Nó làm nên nét khác biệt của trường ca Trần Anh Thái so với
trường ca trước đó. Cấu trúc tự sự trong trường ca của anh dựa hoàn toàn vào cảm xúc,
lấy cảm xúc làm mạch chủ đạo, mạch sự kiện chỉ nảy sinh nhờ liên tưởng [57].

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận định: “Câu thơ của Trần Anh Thái có nhiều sự lấp
lánh, tạo nên những mảng sáng, khiến người ta đọc không bị nhàm. Trường ca Trần
Anh Thái có tính bè phách, làm trường ca có bề thế, có hình dáng. Sự biến đổi và thay
đổi giọng điệu, sắc thái của âm thanh, nhịp điệu biến trường ca Trần Anh Thái như một
bản giao hưởng [57].
Ngôn ngữ trường ca Trần Anh Thái có nhiều cách tân, nhà phê bình ưu Khánh Thơ
đã nhận xét: “Trường ca của Trần Anh Thái đều sử dụng các biểu trưng nghệ thuật.
Ngôn ngữ không còn là những thông tin ngữ ngh a thông thường mà tôi cảm thấy anh
đã xây dựng được những biểu trưng mang tính ẩn dụ nghệ thuật đậm nét [57].

4


Tiến s Đ Thu Thủy nhận thấy “ Dấu riêng của trường ca Trần Anh Thái trước hết là ở
những suy tư, lí giải về con người. Đó là n i ám ảnh về thân phận người “Sự khác biệt
của Trần Anh Thái trong cách nhìn, cách đánh giá, cách lý giải về con người, về lịch sử
là ở tư duy theo chiều hướng tổng hợp và xuyên thấu cả hai phương diện trên [57].
Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo nghiên cứu về trường ca riêng lẻ của Trần Anh Thái.
Có thể kể đến như: Tạ Duy Anh đánh giá cao Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh
Thái, ông cho r ng với trường ca này Trần Anh Thái đã tạo cho mình một khuôn mặt
riêng, không thể hoàn l n với ai. Và ông cũng đặc biệt đánh giá cao giọng điệu trong
trường ca Trần Anh Thái: “một thứ giọng khỏe, có thể nói là vạm vỡ, không chau
chuốt, m n mặn vị muối Thái Bình nhưng thâm trầm của người đã thấm văn hóa Hà
Nội , “chính giọng điệu tạo ra cảm giác hoành tráng, sử thi cho tác phẩm [1]. Khi
trường ca Trên đường xuất hiện, lại một lần nữa làm người ta ngỡ ngàng, Dương Kiều
Minh viết: “Ở trường ca này, tác giả của trường ca Đổ bóng xuống mặt trời đã mạnh
mẽ dứt bỏ, dứt bỏ một cách bạo liệt, quyết đoán đối với những gì còn bịn rịn, níu kéo
[…] Có lẽ sự dứt bỏ này chưa tạo được sự cảm thông của người đọc đối với trường ca.
Nhưng sáng tạo thơ ca là vậy, sự cách tân, đổi mới chính mình là mục tiêu quan thiết
nhất, là nguyên tắc quyết định con đường thi ca của m i nhà thơ [36]. Ngày đang mở

sáng đã đưa Trần Anh Thái trở thành gương mặt tiêu biểu của trường ca hiện đại với
hàng loạt bài viết, bài nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình. Nguyễn Đăng
Điệp trong bài “Sự khắc khoải của những dòng tâm tư nhận xét “ngôn ngữ thơ Trần
Anh Thái được chọn lọc k càng nhưng v n hết sự tự nhiên bởi đó là những con chữ
chân thực nhất của một trái tim nhạy cảm đầy suy tư [12]. Ngọc Thiên Hoa với “Trần
Anh Thái – khúc huyền ca khắc khoải nhận định: “đây là một bản trường ca khai mở
một giá trị nhân văn tích cực, nhất là cách nhìn người lính bên kia chiến tuyến với tư
cách con người […] Ngày đang mở sáng có đầy đủ những tư cách để đóng dấu son vào
văn học Việt Nam nói chung và thể trường ca nói riêng, là lần đầu tiên có một tác

5


phẩm văn học thay đổi cách nhìn trực diện về một cuộc chiến đi qua 2/3 thế kỉ trên một
tinh thần nhân văn không cải lương [19;464], về nghệ thuật: “Đây là tác phẩm mở
đường cho thi pháp sáng tác mới trong văn học Việt Nam hiện đại [19;465]. Với tập
trường ca mới nhất Mỗi loài hoa một mặt trời, “Cái lo âu, bối rối, buồn rầu, thất vọng
và tự giễu mình ấy đã xuất hiện trong ba tập trường ca trước của nhà thơ Trần Anh
Thái là Đổ bóng xuống mặt trời, Trên đường, Ngày đang mở sáng. Nhưng phải đến
Mỗi loài hoa một mặt trời thì mạch trạng huống ấy mới được phát triển sâu hơn, cao
hơn. Ấy là tinh thần phản biện thời đại rõ ràng, song phẳng và đầy nhân bản [9].
Từ những đổi mới, cách tân táo bạo và những đóng góp lớn cho thấy tài năng của Trần
Anh Thái ở thể loại trường ca, TS Chu Văn Sơn khẳng định: “Trần Anh Thái là cây
trường ca số 1 của thế hệ anh. Hiện nay, Trần Anh Thái là một trong những cây trường
ca nổi bật nhất đương đại .
Các nghiên cứu này, về cơ bản đều thống nhất đánh giá cao những cách tân về thể loại,
ngôn ngữ, giọng điệu, … đồng thời khẳng định Trần Anh Thái là một tài năng độc đáo,
đã có những đóng góp quan trọng cho bộ mặt trường ca Việt Nam thời hiện đại.
2.2. Nhận định về biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái
Đã có một số bài viết trên các tạp chí chú ý đến hệ thống hình ảnh trong trường ca Trần

Anh Thái. Nhìn chung những ý kiến này đều thống nhất nhận thấy và khẳng định giá trị
biểu đạt của hệ thống hình ảnh trong trường ca ông.
Dương Kiều Minh trong bài viết “Tính hiện đại qua một số hình ảnh biểu tượng, tượng
trưng, ẩn dụ trong trường ca Ngày đang mở sáng , ông đã đi khảo sát một số hình ảnh
giàu giá trị biểu tượng như: ngôi đền, ngọn lửa, sóng biển, những hộp giấy đựng bầu
trời, ngày,… Dương Kiều Minh khẳng định “Những hình ảnh mang tính biểu tượng,
tượng trưng và ẩn dụ trong trường ca của Trần Anh Thái – là sự sáng tạo, tìm tòi, cách
tân - một n lực và bạo liệt của nhà thơ. Tính phức điệu của ngữ ngh a, hình ảnh và
6


nhịp điệu được tạo ra từ bản trường ca, đó là một trong những đặc trưng và đặc thù
quan trọng nhất của thơ hiện đại. đó là đóng góp đáng ghi nhận của nhà thơ Trần Anh
Thái với thi ca đương đại Việt Nam [35].
Trong bài “Về những suy tư trong bộ ba trường ca của Trần Anh Thái của PGS tiến s
Nguyễn Hữu Sơn, nhận xét “Tôi cảm nhận trường ca Trần Anh Thái thật giàu chất suy
tư suy tưởng, giàu hình ảnh và những liên tưởng làm nên chất thơ giọng thơ [42].
Đậu Dung nhấn mạnh về hình ảnh thơ Trần Anh Thái “hình ảnh thơ mang tính ẩn dụ,
nhiều lúc thành hình tượng nghệ thuật, ký thác cái tôi tự sự của Trần Anh Thái [9].
“Cấu trúc không gian mở trong Ngày đang mở sáng của Nguyễn Thanh Tú, khi khảo
sát về cấu trúc không gian trong trường ca, tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh vào biểu
tượng biển, với sự khảo sát khá chi tiết 22 lần biển xuất hiện trực tiếp, Nguyễn Thanh
Tú đã đưa ra những ý ngh a tương đối ổn định, trở thành mô tip của biểu tượng biển
trong trường ca Trần Anh Thái. Nhưng bên cạnh đó, tác giả cũng nhận ra r ng, để làm
phong phú, đa dạng và sinh động hơn, Trần Anh Thái đã cấp cho biểu tượng biển ý
ngh a mới: “sự cựa quậy muốn tìm một sự bung phá để vượt qua giới hạn và “là
những gì vất vả lam lũ tảo tần .
Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Con đường tượng trưng và băn khoăn lữ khách , ông
đã phát hiện ra k thuật sáng tạo biểu tượng trong thơ Trần Anh Thái “kết hợp một cái
cụ thể với một cái trừu tượng “ba không gian + một thời gian khiến cho những “con

đường, lửa, hi vọng, bờ và sóng được thấy như là những biểu tượng, được trừu xuất
khỏi ý ngh a thông thường vốn có để trở thành những dấu hiệu của một thực tại, thuộc
về cái tâm linh [23].
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi “Đổ bóng xuống mặt trời là “bản huyền ca của đất
[50] xem trường ca này là biểu tượng về văn hóa tinh thần và tâm hồn người Việt.

7


Trong cuộc tọa đàm “Trần Anh Thái và trường ca , PGS.TS ưu Khánh Thơ đã nhận
xét: “Cả ba trường ca của Trần Anh Thái đều sử dụng các biểu tượng nghệ thuật […]
những hình ảnh biểu trưng mang tính ẩn dụ nghệ thuật đậm nét, nhiều phép ẩn dụ nghệ
thuật thú vị đã xuất hiện, như: “Con đường, ánh sáng,… vừa là tâm linh, vừa là vô thức.
Nhân vật “tôi có một cơ chế giấc mơ d n dắt trở thành biểu tượng nghệ thuật đẹp .
Cũng trong buổi tọa đàm này, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp cũng đã khẳng định: “ngôn
ngữ của anh đẹp và giàu biểu tượng . Hay TS Nguyễn Thanh Tú thì phát hiện ra:
“Hình ảnh “biển trong thơ Trần Anh Thái day dứt, chật vật, đau đớn về thân phận con
người . Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đã phát hiện ra cái mới mẻ độc đáo trong việc sử
dụng hình ảnh trường ca Trần Anh Thái: “Trường ca Trần Anh Thái sâu sắc ở thủ pháp
hình ảnh […] Anh viết rất tự nhiên, không khuôn sáo, không theo “phom nào cả. Tôi
ấn tượng nhất là yếu tố nguồn cội và hình ảnh mặt trời trong thơ anh [57]. Các nhà
nghiên cứu, các tác giả đều nhận thấy những nét đặc sắc trong hệ thống hình ảnh và
biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái.
Lời lời giới thiệu cuốn “Trường ca , nhà xuất bản

uân đội Nhân dân đã khẳng định

cách thức để vén mở những bí ẩn trong trường ca Trần Anh Thái “Biểu tượng “Trên
đường và ẩn dụ tín hiệu “Ngày đang mở sáng , có lẽ là một trong những chìa khóa để
bạn có thể vén mở cái khoảng trời hiện dần lên trong trường ca Trần Anh Thái [43]

Tiểu luận phê bình “Nhìn lại bến bờ của nhà nghiên cứu Ngọc Thiên Hoa, đã dành
một dung lượng rất lớn để khảo sát về trường ca Trần Anh Thái. Trong cuốn tiểu luận
phê bình này, bà đã khai thác trường ca Trần Anh Thái theo ba phân khúc: Trước,
trong và sau chiến tranh. Trong quá trình tìm hiểu này bà đã đề cập khá nhiều đến hình
ảnh tiểu biểu trong trường ca ông: con người, thiên nhiên, không gian, thời gian,… Tuy
nhiên những hình ảnh đó mới chỉ như là những phương tiện để khái quát lên những ý
ngh a, giá trị cơ bản, chứ bà không nhìn và khai thác nó như một biểu tượng.

8


Trong cuộc tọa đàm về trường ca Trần Anh Thái, bên cạnh những nhận xét về cấu trúc,
đề tài, ngôn từ, một số nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến phương diện hình ảnh của
trường ca, PGS.TS ưu Khánh Thơ cho r ng “cả ba trường ca Trần Anh Thái đều sử
dụng biểu tượng nghệ thuật, ngôn ngữ thơ không đơn giản là thông tin ngữ ngh a thông
thường mà là những biểu trưng mang tính ẩn dụ nghệ thuật đậm nét, nhiều phép ẩn dụ
thú vị xuất hiện…Nhân vật “tôi có một cơ chế giấc mơ d n dắt trở thành biểu tượng
nghệ thuật đẹp [57].
Luận văn thạc s “Phong cách trường ca Trần Anh Thái của Bùi Thị Thủy, đã bước
đầu tìm hiểu hệ thống biểu tượng trong trường ca ông, tác giả đã khẳng định: “Trên
hành trình kiếm tìm sự đổi mới, n lực cách tân thơ, Trần Anh Thái đã góp tiếng nói
đầy nhiệt huyết của mình b ng những biểu tượng thơ giàu sức gợi, giàu vốn văn hóa và
giàu chất suy tưởng [55;74]. Trong luận văn này, tác giả đã đi khảo sát một cách khái
lược về một số biểu tượng tiểu biểu trong trường ca Trần Anh Thái như: biển, làng, con
đường, cái chết, sự hồi sinh. Sự nghiên cứu v n còn mang tính khái quát, chưa thể hiện
được hết những giá trị mà trường ca Trần Anh Thái đem đến cho người đọc.
Một luận văn thạc s khác, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Anh, khi đi tìm hiểu “Đặc điểm
cơ bản của trường ca Trần Anh Thái đã khẳng định: “Trường ca Trần Anh Thái rất
giàu hình ảnh, đó thường là những hình ảnh kì v , lớn lao bộc lộ một tâm hồn phóng
khoáng, tự do mang đậm chất biển [2;88], đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh: “Trần

Anh Thái xây dựng những hệ thống hình ảnh biểu tượng đa ngh a nhưng nhất quán
xuyên suốt ba trường ca. Những hệ thống hình ảnh đó thường được đặt trong quan hệ
tương phản, đối lập [2;89]. Ở luận văn này, tác giả khai thác hệ thống biểu tượng theo
hướng: biểu tượng về cái chết, sự hư vô; Hình ảnh biểu trưng cho sự hồi sinh; hình
ảnh biểu trưng cho hành trình kiếm tìm và khai mở. Cách khai thác theo kiểu tương
quan đối lập giữa hai hệ thống biểu tượng và bước đầu đã cho người đọc cái nhìn khái
quát về biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái.

9


“Trường ca Trần Anh Thái nhìn từ góc độ thể loại luận văn thạc s Nguyễn Thị Thanh
Thủy, tác giả cũng đã nhắc tới những biểu tượng tiêu biểu trong trường ca ông như:
àng “Trần Anh Thái đã làm sống dậy bản sắc và sức sống của văn hóa Việt – văn hóa
Làng với những biểu tượng văn hóa linh thiêng [56;72]; con đường “gắn với hành
trình khám phá và sáng tạo nghệ thuật của anh, đó là con đường gắn với khát vọng
khám phá và kiếm tìm cuộc sống tận cùng bản thể người của nhà thơ [56;73],…
Các bài viết cũng như công trình nghiên cứu nghiêm túc, sâu sắc, diễn ra rất sôi nổi,
bước đầu cho thấy vai trò độc đáo về các hình ảnh trong trường ca Trần Anh Thái.
Song những nhận xét này mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, chưa có hệ thống và chưa có
một cái nhìn bao quát tổng thể. Đồng thời cũng chưa có công trình nghiên cứu sâu sắc
nào trên toàn bộ hệ thống trường ca của ông. B ng tất cả những đánh giá, nhận định
trên đã góp phần khơi gợi ý tưởng, cung cấp tri thức để người viết lựa chọn và triển
khai đề tài “Hệ thống biểu tượng trong hai trường ca Ngày đang mở sáng và Mỗi loài
hoa một mặt trời của Trần Anh Thái .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu hệ thống biểu tượng trong hai trường ca của Trần Anh Thái chúng
tôi muốn làm rõ tài năng sáng tạo của tác giả, qua đó làm rõ phong cách, bút pháp của
ông khi sáng tác trường ca.
Quá trình nghiên cứu cũng nh m làm rõ những cống hiến của nhà thơ đến quá trình vận

động, phát triển của thể loại trường ca đối với nền văn học nước nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dựa trên sự phù hợp của đề tài, người viết xác định đối tượng nghiên cứu chính của
luận văn là hai trường ca: Ngày đang mở sáng và Mỗi loài hoa một mặt trời. Bên cạnh

10


đó chúng tôi sẽ khảo sát thêm hai trường ca còn lại của ông là Trên đường và Đổ bóng
xuống mặt trời.
Ngoài ra để làm rõ những đóng góp của trường ca Trần Anh Thái chúng tôi còn mở
rộng phạm vi tư liệu với các tác giả trường ca gia đoạn trước và cùng thời.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
5.2. Phương pháp thống kê phân loại
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc khảo sát hai trường ca của Trần Anh Thái, chúng tôi mong muốn đóng góp
hữu ích vào việc làm rõ một cách có hệ thống những yếu tố làm nên sức hấp d n, sức
hút của trường ca Trần Anh Thái, đặc biệt là qua hệ thống biểu tượng ở hai trường ca.
Không chỉ vậy, qua hai trường ca còn cho thấy sự kế thừa và phát triển của trường ca
Trần Anh Thái, đóng góp của ông trong việc làm hồi sinh thể loại trường ca hiện đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Biểu tượng và tác giả trường ca Trần Anh Thái
Chương 2: Hệ thống biểu tượng trong Ngày đang mở sáng và M i loài hoa một mặt
trời
Chương 3: Cách kiến tạo biểu tượng trong trường ca Trần Anh Thái
11



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BIỂU TƯỢNG VÀ TÁC GIẢ TRƯỜNG CA TRẦN ANH THÁI

1.1 Lý thuyết biểu tượng
1.1.1 Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng (tiếng anh là symbol, tiếng Pháp là symbole). Triết tự hai chữ biểu tượng ta
có thể hiểu như sau: Biểu là bày ra ngoài, tượng là sự vật hiện tượng cụ thể được dùng
để tượng trưng cho cái cụ thể nào đó. Biểu tượng là hình ảnh, sự vật cụ thể bày ra
ngoài, dùng để tượng trưng cho cái cụ thể.
Biểu tượng có ngh a rộng và hẹp: theo ngh a rộng, văn học phản ánh đời sống b ng
hình tượng nghệ thuật. Đặc điểm cơ bản của hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện thế
giới thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ s . Nhưng hình tượng cũng là hiện
tượng đầy tính ước lệ. B ng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra thế giới hoàn toàn mang
tính biểu tượng. Vậy, biểu tượng là đặc trưng phán ánh cuộc sống b ng hình tượng của
văn học nghệ thuật.
Theo ngh a hẹp biểu tượng là phương thức chuyển ngh a của lời nói hoặc một loại hình
tượng nghệ thuật đặc biệt, có khả năng vừa khái quát được bản chất của sự vật hiện
tượng vừa thể hiện một quan niệm, tư tưởng, triết lí sâu xa về con người cuộc đời.
Biểu tượng bắt đầu được định danh và chú ý từ Arixtot, trải qua quá trình lịch sử
nghiên cứu lâu dài với các tác giả như Heghen, Anault,… cho đến nay đã hình thành
một hệ thống lý thuyết hết sức phong phú, đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Đối
với biểu tượng để có một khái niệm thật chính xác về nó quả là một điều không hề đơn
giản, đúng như nhà nghiên cứu Jean Chevalier đã nhận xét: “Không cách gì định ngh a

12


được biểu tượng. Tự bản chất của nó, nó đã phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp

lại các thái cực trong cùng một ý niệm [26]. Hơn nữa, biểu tượng không chỉ là thuật
ngữ sử dụng riêng cho mảng nghiên cứu về văn hóa văn học, mà biểu tượng còn là đối
tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác. Bởi vậy, trước khi đi đến một kết
luận đầy đủ về biểu tượng, chúng tôi xin được khảo sát các cách hiểu về biểu tượng ở
những ngành khoa học khác nhau và đặc biệt là trong l nh vực văn hóa và văn học.
Việc làm này giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về biểu tượng.
Theo từ điển Triết học “Biểu tượng là hình ảnh trực quan – cảm tính, khái quát về các
sự vật hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo lại trong ý thức và không có sự
tác động trực tiếp của các sự vật và các hiện tượng đến giác quan . Như vậy, nhìn từ
góc độ triết học, biểu tượng thuộc về giai đoạn tiền ý thức, nó xuất phát từ hiện thực
khách quan và được tái tạo lại trong não con người. Với cách hiểu như vậy, tất cả các
sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan sẽ trở thành biểu tượng khi con người tiếp
nhận b ng ý thức chủ quan của mình. Thế giới ấy có phong phú đa dạng hay không tùy
thuộc vào năng lực của m i cá nhân khi tiếp nhận. Bởi vậy, trong m i chúng ta ẩn chứa
một kho biểu tượng vô tận, đúng như Guy Schoello nhận định: “Sẽ là quá ít, nếu nói
r ng chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng sống trong
chúng ta [26].
Dưới góc độ Tâm lý, theo từ điển tiếng việt “Biểu tượng là một hiện tượng tâm sinh lý
do một số sự việc ở ngoài tác động vào giác quan khiến ý thức nhận biết được sự vật,
kích thích hoặc nhìn thấy hình ảnh của nó trở lại trong trí tuệ hay ý thức . Như vậy, từ
góc độ tâm lí biểu tượng chỉ có thể xuất hiện khi có sự vật hiện tượng ở ngoài tác động
vào giác quan con người và nó là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính
trực quan. Tâm lý học coi biểu tượng là khâu liên kết giữa các giai đoạn nhận thức của
cảm giác trực quan với tư duy trừu tượng, góp phần tạo tiền đề cho giai đoạn nhận thức
lý tính. Nó cũng giúp con người nhận biết và hiểu sâu sắc về những thuộc tính, bản

13


chất cũng như tính quy luật của sự vật hiện tượng. Nhưng dù là hình thức cao nhất của

giai đoạn nhận thức cảm tính, biểu tượng v n chưa phải là hình thức đóng vai trò quyết
định đối với việc khám phá và phản ánh thế giới. Với đặc điểm như vậy, biểu tượng
luôn gắn liền với trí tưởng tượng của con người và nó có thể chuyển hóa thành biểu
tượng trong l nh vực nghệ thuật, đặc biệt là l nh vực thơ ca.
Theo quan điểm Ngôn ngữ học, S.X.Poocxo đã đưa ra khái niệm về biểu tượng: “Biểu
tượng là một kí hiệu tùy thuộc vào đối tượng mà nó biểu hiện do một luật lệ thông
thường là sự liên tưởng chung, là cho biểu tượng ấy được xem như tùy thuộc vào đối
tượng ấy . Còn E.Yanggo cho r ng: “Biểu tượng là cái nhìn thấy được, mang một kí
hiệu diễn tả cái không thấy được . Nhìn chung các nhà ngôn ngữ học cho r ng, biểu
tượng cũng như tín hiệu ngôn ngữ, là sự thống nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt. Cái biểu đạt là lớp vỏ bên ngoài hay phương thức thể hiện, cái được biểu đạt là ý
ngh a bên trong hay giá trị nội dung tư tưởng. Mối quan hệ giữa hai bình diện này là có
lý do dựa trên quan hệ liên tưởng, tưởng tượng và tính ước lệ. Cũng nhờ mối quan hệ
này mà biểu tượng thường chứa đựng trong nó nhiều tầng ý ngh a sâu xa, hàm ẩn.
Từ góc độ Văn hóa, m i nền văn hóa đều được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau,
và một trong những yếu tố đó chính là biểu tượng. Biểu tượng cũng là một trong những
cơ sở để xác định đặc trưng của các nền văn hóa với nhau.
Theo từ điển về văn hóa của Unessco đã khẳng định: “Văn hóa là tập hợp hệ thống
biểu tượng, nó quy ước về ứng xử của con người và làm cho số đông người có thể giao
tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng . Vì vậy, biểu tượng là vấn đề
được các nhà văn hóa đặc biệt quan tâm.
Jean Chevalier đã chỉ rõ “mọi nền văn hóa đều có thể xem như tập hợp các hệ thống
biểu tượng trong đó xếp hàng đầu là ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh
tế,… , và ông cũng khẳng định “bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng,

14


đồng thời “phân biệt rạch ròi hình ảnh tượng trưng với tất cả những hình ảnh khác mà
nó quá thường hay bị l n lộn [26;XVII] như: biểu hiện, phúng dụ, ẩn dụ,… Những lối

diễn đạt b ng hình ảnh này chỉ là những dấu hiệu, không vượt quá mức độ biểu ngh a,
còn biểu tượng luôn luôn “rộng hơn hơn cái ý ngh a được gán cho nó một cách nhân
tạo, nó có một sức vang cốt yếu và tự sinh [26;XIX]. Biểu tượng luôn mang trong nó
tính cách tân, biến đổi không ngừng, mãi mãi gợi đến những cái bất tận, vô biên. Đồng
thời m i thời đại, m i dân tộc lại có những biểu tượng của riêng mình, nó hướng tới
biểu đạt những tầng vỉa cảm xúc, thể hiện rõ nét âm hưởng dân tộc và thời đại.
Bên cạnh đó biểu tượng vừa mang tính ổn định vừa chứa đựng một tiềm năng về sự
biến đổi và phát triển. Ổn định vì các nền văn hóa khác nhau bao giờ cũng có một tập
hợp hệ thống biểu tượng khác nhau. Mặt khác, trong dòng chảy văn hóa ý ngh a của
m i biểu tượng cũng như cả hệ thống luôn được bồi đắp những ý ngh a mới cùng
những biến đổi và chuyển hóa của thời đại. Chẳng hạn, ở cấp độ đầu tiên là m u gốc
khi đi vào đời sống văn hóa m i m u gốc lại sản sinh ra những biểu tượng văn hóa
khác nhau, ví như m u gốc nước sẽ sản sinh những biểu tượng khác nhau như: biển,
sông, suối, giọt sương,... Cho nên, không thể xem xét biểu tượng như một yếu tố t nh
mà phải luôn luôn nhìn nó trong quá trình vận động, trong sử dụng và tái tạo nó của đời
sống xã hội.
Từ góc độ văn học, biểu tượng là phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính đa ngh a
trong văn học. Văn học là nghệ thuật ngôn từ trong đó ngôn từ nghệ thuật không chỉ là
vật liệu chuyên chở nội dung mà nó có thể làm nảy sinh tư tưởng. Muốn vậy, nhà văn
phải mã hóa ngôn từ, tạo ra hình thức lạ hóa nh m tổ chức một thế giới nghệ thuật in
đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo và xuất hiện những hình tượng nghê thuật có giá trị.
Như vậy, trong văn học, biểu tượng chính là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu
– kí hiệu chứa tính đa ngh a của hình tượng. Biểu tượng văn học mang nhiều tầng sâu ý
ngh a và có tính khái quát cao, soi sáng và làm rõ hình tượng. Cũng chính vì biểu
15


tượng mang tính đa ngh a nên không thể giải mã chúng chỉ b ng n lực của lí trí mà
đòi hỏi phải có sự thâm nhập vào bên trong với sự m m cảm trong liên tưởng, tưởng
tượng.

Để giải mã ý ngh a của biểu tượng cần đặt chúng trong mối quan hệ với cả ngữ cảnh
(ngữ cảnh lời nói và ngữ cảnh văn hóa). Bởi vì các mối quan hệ này tạo nên hàng loạt
sự tương tác trong môi trường văn hóa – ngôn ngữ, giúp cho chúng ta nhận diện được ý
ngh a cũng như sự biến đổi ý ngh a nếu chỉ dựa vào các thành phần nội tại của ngôn
ngữ nhất là đối với ngôn ngữ văn học. Các biến đổi ngữ ngh a trước hết xuất phát từ
các nguyên do : đời sống tâm lí xã hội, văn hóa, năng lực nhận thức về đối tượng của
cộng đồng.
Như vậy, biểu tượng và đặc biệt là biểu tượng trong văn học có tính đa ngh a và khả
năng khái quát cao. Biểu tượng văn học không còn sức sống khi tồn tại biệt lập trong
ngôn ngữ của tác phẩm văn học mà còn phải có sự liên hệ với môi trường văn hóa, tâm
lí xã hội. Do vậy, biểu tượng chỉ được nắm bắt, lí giải b ng việc thâm nhập, khả năng
liên tưởng, xâu chu i kết hợp với sự nhạy bén của m i người.
Trong văn học dù được xem xét ở nhiều khía cạnh nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu
đều nhấn mạnh về vai trò, giá trị khái quát và tượng trưng của biểu tượng, đồng thời
nêu bật tính đa ngh a của biểu tượng trong tác phẩm văn học.
1.1.2 Tính chất của biểu tượng
Trước hết biểu tượng trong văn học mang tính chất tương đối ổn định. Khởi nguyên
của biểu tượng là hai mảnh vật bị cắt làm đôi, sau ghép lại để cha mẹ, những người yêu
thương nhận ra nhau, cho nên giữa hai mặt của biểu tượng, cái biểu trưng và cái được
biểu trưng là mối quan hệ mang tính có lí do. Jean Chevalier đã khẳng định “Đặc
trưng của quan hệ này là có một sự ổn định nhất định giữa các yếu tố bộc lộ và tiềm ẩn
của biểu tượng [26]. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho r ng, biểu tượng dù
16


đa dạng, giàu ý ngh a đến đâu v n mang tính ổn định tương đối, ngh a là trong mối
quan hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng v n có quan hệ gần gũi ở những
mức độ nhất định.
Ý ngh a của biểu tượng không phải là một cấu trúc khép kín mà gợi ra nhiều chiều liên
tưởng trong thực tại tinh thần của con người, những chiều hướng này rất khác nhau

thậm chí trái ngược nhau. M i con người có thể tìm thấy trong biểu tượng sự trải
nghiệm tinh thần mang tính cá nhân nhưng v n không tách rời bản chất xã hội, cái
trung tâm tinh thần chi phối toàn bộ sự vận động của chúng. Đó là mối quan hệ thuộc
về bản chất, chứ không phải là sự tưởng tượng h n loạn, không định hướng “các vế
chưa biết mà biểu tưởng hướng tư duy của ta về đó không phải là bất cứ điều ngông
cuồng nào của trí tưởng tượng [26; XXX], “các biểu tượng đã tỏ rõ một tính ổn định
nào đó trong lịch sử các tôn giáo, các xã hội và lịch sử tâm thức m i cá nhân [26;
XLII].
Cũng vì có tính ổn định nên biểu tượng được khắp nơi trên thế giới dùng mang ý ngh a
chung, thống nhất. Bắt nguồn từ ý ngh a đó, biểu tượng nghệ thuật thường có những
hạt nhân bảo lưu cho đời sau và được đời sau tiếp thu, bồi đắp thêm các ý ngh a mới,
qua quá trình tìm tòi, khám phá của người nghệ s .
Biểu tượng văn học mang tính đa nghĩa. Do liên tục được bồi đắp những ý ngh a mới
bên cạnh những ý ngh a được bảo lưu nên biểu tượng thường chứa đựng rất nhiều ý
ngh a, đó là một hiện tượng đa ngh a. Các ý ngh a trong biểu tượng có sự đan xen,
chồng lấn và tương tác l n nhau gợi lên những ý ngh a đồng thời. Các ý ngh a ban đầu
gần m u gốc, có ý ngh a khá rõ ràng, càng xa m u gốc ý ngh a càng trở nên mơ hồ, khó
nắm bắt. Nó vừa bộc lộ, vừa che giấu, vừa ổn định vừa biến ảo. Nhận định về điều này,
C.Jung cho r ng “biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản
chất ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh… biểu tượng không bó chặt gì hết, nó không cắt
ngh a, nó đưa ra bên ngoài chính nó đến một ý ngh a còn n m ở tận phía ngoài kia,
17


không thể nắm bắt được dự cảm một cách mơ hồ và không có từ nào trong ngôn ngữ
của chúng ta có thể diễn đạt một cách thỏa đáng [26;XXV]. Biểu tượng chứa đựng
một năng lượng v nh cửu, nó mãi mãi gợi về cái bất tận, với một biểu tượng m i người
sẽ có những cảm nhận riêng trên cơ sở cái chung của cộng đồng.
Ngoài ra, biểu tượng còn mang tính lịch sử. Ở m i thời đại, văn học đề cập đến một hệ
thống biểu tượng khác nhau. Trong văn học dân gian, hệ thống biểu tượng thường gắn

với những gì là khởi nguyên, nguyên sơ như: mặt trời, mặt trăng, gió, nước, lửa,… Đến
văn học trung đại, ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo, hệ thống biểu tượng lại thay đổi,
đó là: tùng, cúc, trúc, mai, long, ly, quy, phượng,… Đến văn học hiện đại, du nhập và
chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, biểu tượng lại một lần nữa thay đổi: cao ốc,
mảnh vụn,… Không chỉ vậy, có những biểu tượng tồn tại xuyên suốt từ thời kì văn học
này đến thời kì văn học khác nhưng nội hàm ý ngh a của nó cũng đã có những sự thay
đổi nhất định. Biểu tượng văn học không phải là một cấu trúc khép kín mà nó là một
hiện tượng mở bởi vậy nó thường xuyên mất đi những nét ngh a quen thuộc thay vào
đó là những nét ngh a mới mang dáng dấp thời đại.
1.1.3 Cách thức giải mã biểu tượng
Để có thể hiểu được nội hàm ý ngh a của biểu tượng không phải là một điều đơn giản,
mà cần phải xem xét nó trong tương quan với nhiều yếu tố khác. Và chúng tôi xin đưa
ra một số yếu tố khi lí giải biểu tượng cần vận dụng vào để có cách hiểu chính xác nhất
về một biểu tượng:
Xem xét biểu tượng trong tương quan với ngữ cảnh, Đ Việt Hùng cho r ng: “Bất kỳ
một lời nói được phát ra cũng xảy trong một tình huống nhất định. Không nắm được
tình huống phát ngôn được phát ra, có thể d n tới việc hiểu không đúng, thậm chí
không thể hiểu được ý ngh a mà phát ngôn đó muốn truyền đạt [24;39].

18


Trong ngữ cảnh và chỉ trong ngữ cảnh, giá trị hiệu quả của một yếu tố ngôn ngữ mới
được bộc lộ trọn vẹn. Như vậy, khi phân tích một yếu tố ngôn từ, bao giờ cũng phải đặt
nó trong ngữ cảnh cụ thể. Trong ngữ cảnh tu từ, một yếu tố ngôn ngữ biểu hiện một
hoặc một số ý ngh a bổ sung nhất định bên cạnh ý ngh a cơ bản. Ngoài ngữ cảnh đó,
yếu tố cơ bản v n giữ nguyên nhưng phần ý ngh a bổ sung, mang bản chất ngữ cảnh,
có tính chất lâm thời bao giờ cũng biến đổi.
Việc giải mã tác phẩm văn chương không bao giờ có thể tách rời ngữ cảnh. Và việc
giải mã biểu tượng cũng vậy, phải luôn luôn phải đặt biểu tượng trong ngữ cảnh sản

sinh ra nó.
Xem xét biểu tượng trong tương quan với phong cách tác giả. “Phong cách là ch độc
đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của
những nhà văn ưu tú [32;89]. Biểu tượng thơ đa dạng, phong phú khi m i nhà thơ đều
có nhu cầu sáng tạo riêng để tạo nên dấu ấn phong cách của mình. Các biểu tượng
trong thơ hiện đại gắn liền với đặc trưng phong cách của từng tác giả. Môi trường sống,
kinh nghiệm sống từ ấu thơ cho đến quá trình trưởng thành, trải qua lao động, đấu
tranh, chiêm nghiệm có ý ngh a quyết định đến sự hình thành biểu tượng. Qua biểu
tượng có thể nhận ra cuộc sống quen thuộc, vùng thẩm mỹ của nhà thơ. Những dấu ấn
tuổi trẻ in đậm trong tư duy sáng tạo của nhà thơ, có khi qua nhiều không gian, thời
gian khác nhau nhưng ấn tượng ấy mãi tồn tại trong phần tiềm thức, vô thức của tác giả.
Vì thế mà sông nước cứ trở đi trở lại trở thành biểu tượng trong thơ Tế Hanh, trăng
máu là biểu tượng trong thơ Hàn Mặc Tử, bà trong thơ B ng Việt, Nguyễn Duy,…
Quá trình chuyển từ phạm vi tâm lý xã hội sang phạm vi tâm lý cá nhân, từ cái vô thức
sang ý thức sáng tạo, từ bình diện văn hóa mang tính cộng đồng sang cái cá nhân, cá
thể, từ chất liệu vật thể đến chất liệu phi vật thể (ngôn ngữ) mà kết quả của nó là sự
biến đổi ý ngh a của biểu tượng nghệ thuật, biểu tượng thơ ca được hiện thực hóa
thông qua chính các thao tác ngôn từ: lựa chọn các biến thể trong vốn từ - biểu tượng
19


trong phạm vi ngôn ngữ văn hóa và tạo ra các biến thể mới b ng các quan hệ kết hợp
trong ngữ đoạn.

uá trình đó xác định dấu ấn của tác giả - người sử dụng đồng thời là

người sáng tạo lại các biểu tượng trong thơ ca. Tồn tại ở bình diện chủ thể, được hiện
thực hóa thông qua các thao tác lựa chọn, kết hợp ngôn từ, sự biến đổi ý ngh a biểu
tượng tất yếu gắn với đặc trưng phong cách thể loại và nhất là phong cách tác giả.
Vấn đề phong cách tác giả trong sự biến đổi ý ngh a của biểu tượng là sự thống nhất

giữa các yếu tố sau: quan niệm của tác giả về thực tại – đối tượng biểu hiện – phương
thức, thủ pháp biểu hiện. Trong từng tác phẩm, ý ngh a văn hóa của biểu tượng được
nhào nặn lại thông qua năng lực nhận thức của những cá tính sáng tạo nhất định. Điều
quan trọng nhất là tác giả đã sử dụng vốn văn hóa chung, cái tiềm năng ý ngh a ở trong
m i biểu tượng ấy ra sao. Trong những nhân tố của ngữ cảnh, nhân tố chủ thể nối kết
và điều chỉnh tất cả các nhân tố khác do tính chủ động và khả năng định hướng của nó.
Mục đích của tác giả quyết định sự lựa chọn biến thể cũng như quá trình kết hợp các
yếu tố để tạo ra biểu tượng mới, điều chỉnh ý ngh a vốn có, sản sinh ra nét ngh a mới.
Do đó, sự biển đổi ý ngh a biểu tượng trong thơ ca, xét đến cùng chính là vấn đề liên
quan đến phong cách tác giả trong mối tương quan với phong cách thời đại, phong
cách thể loại.
Trong phạm vi các phong cách ngôn ngữ phi nghệ thuật, sự lựa chọn không n m
trong bản thân ngôn ngữ mà trong những tình huống xã hội, những hoàn cảnh giao tiếp
điển hình sẽ chi phối sự lựa chọn của người sử dụng. Với ngôn ngữ nghệ thuật, hoàn
cảnh điển hình luôn luôn là các yếu tố đã được thẩm thấu qua đời sống tinh thần của
chủ thể, bị điều chỉnh bởi chủ thể. Trong phạm vi đó, thao tác lựa chọn và kết hợp
quyết định giá trị phong cách trong các cấp độ biểu hiện của biểu tượng: đặc trưng của
hình tượng và sự tổ chức hệ thống tín hiệu thẩm m .
Ở một tác phẩm văn học, có thể tồn tại một hoặc nhiều hình tượng. Có thể một tác
phẩm chỉ tập trung làm sáng rõ một biểu tượng, trong trường hợp này biểu tượng là sự
20


×