Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn của thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ BÍCH LOAN

DỊCH VỤ CƠNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THÁI LAN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội về “Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn
thành phố Hà Nội” là hồn tồn trung thực và khơng trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Trần Thị Bích Loan


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC ................................................................................................. 13
1.1. Lý luận về bạo lực với phụ nữ .................................................................................. 13
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ................................. 18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị
bạo lực ............................................................................................................................. 22
1.4. Cơ sở pháp lý về cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực ........ 26
Chương 2: THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................... 31
2.1. Giới thiệu về địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................................ 31
2.2. Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
tại Hà Nội......................................................................................................................... 40
2.3. Các yếu tố ảnh hướng tới việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị
bạo lực ............................................................................................................................. 62
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUNG CẤP DỊCH
VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC ................................... 69
3. 1. Nhóm các giải pháp về hồn thiện thể chế, luật pháp, chính sách .......................... 70
3.2. Nhóm các giải pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phòng, chống bạo lực
với phụ nữ và dịch vụ công tác xã hội hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực ..................................... 72
3.3. Nhóm các giải pháp tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên cung cấp
dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực...................................................................................... 73
3.4. Nhóm các giải pháp xây dựng, hoàn thiện và phát triển các mơ hình dịch vụ cơng
tác xã hội cho phụ nữ bị bạo lực ...................................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLG:

Bạo lực trên cơ sở giới

BLGĐ:

Bạo lực gia đình

BTXH:

Bảo trợ xã hội

Bộ LĐTBXH:

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội

Bộ VHTTDL:

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CTXH:

Công tác xã hội

ĐCTC:

Địa chỉ tin cậy

Hagar:


Hagar International Việt Nam

NNBY:

Ngơi nhà Bình n

NVCTXH:

Nhân viên cơng tác xã hội

PCBLGĐ:

Phịng, chống bạo lực gia đình

TGPL:

Trợ giúp pháp lý

TT CTXH Hà Nội: Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái vẫn đang là vấn đề báo động ở nhiều
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vấn đề này là trở ngại lớn trong tiến
trình xóa bỏ bất bình đẳng giới, tiến đến xây dựng xã hội công bằng, văn minh và
hiện đại.
Theo Báo cáo Phụ nữ thế giới năm 2015 của Liên hợp quốc, trên thế giới cứ 3
phụ nữ thì có 1 người từng trải qua bạo lực thân thể/tình dục tại 1 thời điểm trong
cuộc đời, ở một số quốc gia, con số này là 70%. Những phụ nữ bị bạo lực có nguy

có phá thai và trầm cảm cao gấp 2 lần, ở một vài khu vực nguy cơ nhiễm HIV cao
hơn 1,5 lần so với phụ nữ không bị bạo lực. Trên thế giới, hơn 700 triệu phụ nữ lập
gia đình dưới 18 tuổi và trong số này cứ trong 3 người thì có hơn 1 người kết hôn
dưới 15 tuổi. Khoảng 120 triệu trẻ em gái trên toàn thế giới từng bị ép buộc quan hệ
tình dục hoặc các hành vi tình dục cưỡng ép khác tại một thời điểm trong cuộc đời.
Phụ nữ trưởng thành chiếm gần một nửa số nạn nhân bị buôn bán được phát hiện
trên toàn cầu. Tuy nhiên, ở hầu hết các quốc gia, dưới 40% phụ nữ là nạn nhân của
bạo lực có nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ, trong đó, dưới 10% tìm kiếm sự giúp đỡ
của cảnh sát [58].
Điều tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam của Tổng cục
Thống kê năm 2010 cho thấy bạo lực đối với phụ nữ đang diễn ra khá phức tạp và
để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Có 1/3 (34%) số phụ nữ đã từng kết hôn phải chịu bạo
hành về mặt thể xác hoặc tình dục gây ra bởi chồng trong cuộc đời. Tại một số vùng,
cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia đình khơng phải là nơi an toàn đối
với họ.So với những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người đã từng bị
chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần hai lần và
khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp ba lần [33].
Tại Việt Nam, bạo lực đối với phụ nữ không chỉ diễn ra trong gia đình mà cịn
ở các góc độ như: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn; mua bán, lạm dụng, quấy rối, xâm hại
tình dục phụ nữ và trẻ em gái ở nơi làm việc, trường học, nơi công cộng; bị ép kết
hơn với người nước ngồi vì lý do kinh tế; nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai
nhi gây nên mất cân bằng giới tính khi sinh [4].

1


Bạo lực với phụ nữ đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng
tới sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và xã hội. Có gần 1/3 phụ nữ cho biết công
việc của họ bị gián đoạn bởi người chồng; 16% không thể tập trung vào cơng việc;
6,6% khơng có khả năng làm việc do ốm đau; 7% mất tự tin; phụ nữ từng bị bạo lực

thiệt hại gần 20% thu nhập tiềm năng hàng tháng; ước tính ở cấp vĩ mơ, tổng chi phí
cơ hội và thiệt hại về năng xuất lao động do bạo lực gia đình gây ra lên tới 3,2%
GDP và gần 38% ngân sách chính phủ cần chi cho y tế vào năm 2011 [42].
Trước những vấn đề nghiêm trọng của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái,
câu hỏi được đặt ra là khi bị bạo lực thì họ muốn tự giải quyết vấn đề của mình hay
cần tìm sự hỗ trợ từ bên ngồi? Trường hợp họ cần tìm sự trợ giúp thì họ có thể tìm
ở đâu? Họ có dễ dàng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực không? Các
dịch vụ hỗ trợ có đáp ứng được nhu cầu của họ không?
Các câu hỏi trên một phần đã được đề cập trong Báo cáo kết quả nghiên cứu
về bạo lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam của Tổng cục Thống kê năm 2010.
Những kết quả này đã đưa ra một bức tranh thực trạng đáng lo ngại, đó là:
Một nửa số phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực gia đình (BLGĐ) chưa từng nói
với bất cứ ai về vấn đề mà mình phải hứng chịu cho tới khi được phỏng vấn. Nếu họ
đã từng nói điều này với ai đó thì thường là thành viên trong gia đình. Nhiều phụ nữ
nghĩ bạo lực trong quan hệ vợ chồng là chuyện “bình thường” và phụ nữ nên tránh
hoặc cam chịu những việc xảy ra với họ vì lợi ích và sự hịa thuận của gia đình.
Hầu hết phụ nữ bị BLGĐ (87%) chưa bao giờ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các dịch
vụ chính thống hoặc từ những người có thẩm quyền. Nếu họ có tìm kiếm sự hỗ trợ
thì cũng là khi bạo lực đã nghiêm trọng và người họ thường tìm đến là lãnh đạo địa
phương.
Khoảng 1/5 số phụ nữ bị BLGĐ đã từng rời khỏi nhà ít nhất là một đêm. Thực
tế gần như khơng có một lựa chọn nào cho phụ nữ đi đâu, về đâu và người phụ nữ
thường quay về nhà [33].
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một trong những thước đo sự phát triển của
một quốc gia đó là hệ thống cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của mọi người dân
trong cộng đồng. Yếu tố này cũng phản ánh một nền an sinh xã hội tốt và hiệu quả.

2



Rà soát hệ thống/mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội hiện nay ở Việt
Nam đã có các cơ sở cung cấp dịch vụ cơng lập, ngồi công lập, tư nhân, tôn giáo
(chùa, nhà thờ) và của các tổ chức xã hội. Ở góc độ đối tượng thụ hưởng, tiếp cận
dịch vụ thì hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội hiện đang có: hệ thống/mạng
lưới cơ sở cung cấp dịch vụ cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em có hồn cảnh khó
khăn; cho người cao tuổi; cho phụ nữ, đặc biệt là dịch vụ cho phụ nữ bị BLGĐ, bị
buôn bán; cho người có HIV/AIDS và cho người khuyết tật [25].
Chỉ tính riêng các cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị BLGĐ, bị buôn bán, theo con số
thống kê chưa đầy đủ trên tồn quốc hiện có 9.157 cơ sở tư vấn, 9.483 cơ sở khám
chữa bệnh, 778 cơ sở bảo trợ xã hội, 6.625 cơ sở hỗ trợ nạn nhân và 31.072 địa chỉ
tin cậy ở cộng đồng [11].
Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện có 34 Trung
tâm CTXH đã được thành lập ở các tỉnh, thành phố, song mới có một vài tỉnh triển
khai hệ thống này xuống tuyến dưới, còn chủ yếu là ở cấp tỉnh [5]. Nhóm đối tượng
có thể tiếp cận dịch vụ do Trung tâm công tác xã hội (CTXH) cung cấp khơng chỉ là
những người thuộc diện hưởng chính sách xã hội mà đã mở rộng tới những người
dân có nhu cầu trong cuộc sống. Dịch vụ mà Trung tâm CTXH cung cấp khơng chỉ
theo chính sách mà bao gồm hoạt động quản lý ca, tham vấn, tư vấn, can thiệp trị
liệu nhóm, vãng gia, truyền thơng cộng đồng...
Năm 2016, tại Hà Nội có 622 cơ sở tư vấn về BLGĐ; 395 cơ sở khám chữa
bệnh; 47 cơ sở BTXH (trong đó có 15 cơ sở BTXH cơng lập); 269 cơ sở hỗ trợ nạn
nhân BLGĐ; 1.078 địa chỉ tin cậy ở cộng đồng [11].
Nếu chỉ nhận định dựa trên số liệu định lượng về số cơ sở hỗ trợ dịch vụ cho
nạn nhân bị bạo lực, bị xâm hại và bn bán, bước đầu có thể n tâm rằng hệ thống
cung cấp dịch vụ cho nạn nhân bị bạo lực đã được thiết lập. Song thực tế hệ
thống/mạng lưới cung cấp dịch vụ này hoạt động như thế nào, chất lượng dịch vụ có
đáp ứng được nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ của người dân nói chung và phụ
nữ bị bạo lực nói riêng hay khơng thì là một vấn đề cần được tìm hiểu, đánh giá một
cách hệ thống và tồn diện.
Bên cạnh đó, với quá trình hình thành và phát triển hơn một thế kỷ, những

thành công và kinh nghiệm trên thế giới đã chứng minh vai trò của các dịch vụ

3


CTXH trong việc hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ.
Liệu những dịch vụ này ở Việt Nam đã được phát triển một cách chuyên nghiệp
nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực chưa cũng cần có nghiên cứu đánh giá.
Chính vì vậy, xuất phát từ u cầu cần có những nền tảng lý luận và thực tiễn
từ khía cạnh luật pháp, chính sách, đặc biệt là nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ
CTXH cho nhóm phụ nữ bị bạo lực, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu: “Dịch vụ
công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn của thành phố Hà Nội” để tìm
hiểu thực trạng những loại hình dịch vụ CTXH hiện nay và đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm cải thiện việc tiếp cận và tăng cường các dịch vụ CTXH với nạn
nhân bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó có thể hỗ trợ phát triển loại
hình dịch vụ này với các phụ nữ bị bạo lực trên tồn quốc.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay có các nghiên cứu được thực hiện dựa trên nhiều khía cạnh khác
nhau về vấn đề bạo lực với phụ nữ và các loại hình dịch vụ hỗ trợ trên thế giới và ở
Việt Nam, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và
phân tích một số cơng trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu trong nước và
quốc tế liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ và các dịch vụ cho nhóm phụ nữ này.
2.1. Những nghiên cứu trên thế giới:
Tạp chí quốc tế về phúc lợi xã hội (International Journal of Social Welfare) số
18/2009 đã đăng bài viết của tác giả Weinehall, K. và Jonsson, M về “Sự bảo vệ
phụ nữ khỏi bạo hành của nam giới – Women under protection – in hiding from
violent men”. Các tác giả cho biết, năm 2007, dân số Thụy Điển vào khoảng 11.047
người, trong đó có khoảng 9 triệu người đang phải sống trong những điều kiện có
nguy cơ cao cần sự bảo vệ cho sự an toàn của họ. 60% là phụ nữ, hầu hết họ đang
phải trốn chạy khỏi những người đàn ông đã đánh đập họ, thậm trí vẫn tiếp tục đe

dọa và tìm kiếm họ. Với nhóm phụ nữ này, các dịch vụ xã hội đem đến cho họ
nhiều sự trợ giúp hữu ích như cung cấp thức ăn, chỗ ở, chăm sóc y tế, hỗ trợ tài
chính và các hình thức bảo vệ xã hội. Điều đáng quan ngại là các dịch vụ xã hội
cũng gặp nhiều khó khăn trong việc trợ giúp các nạn nhân do sự hạn chế về nguồn
lực tài chính. Bởi vậy, sự trợ giúp của họ mới chỉ mang tính tạm thời và ngắn hạn [64].

4


McLeod, A.L và các cộng sự có bài viết về“Kinh nghiệm tiếp cận các nguồn
lực hỗ trợ của những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực – Female Intimate partner
violence survivors experience with necessary resources” đăng trên Tạp chí Tư vấn
và Phát triển (Journal of Counselling and Development) số 88 cho thấy, gia đình và
những người thân thường giúp đỡ nạn nhân có được chỗ ở an tồn sau khi bạo lực
gia đình xảy ra. Tuy nhiên, tâm lý sợ hãi, xấu hổ của bản thân các nạn nhân hoặc
suy nghĩ khơng dám rời bỏ người chồng của mình bởi điều đó có thể khiến họ phải
từ bỏ ngơi nhà, con cái và các mối quan hệ thân thuộc cũng là rào cản đối với phụ
nữ trong việc tìm kiếm sự trợ giúp từ phía mạng lưới các mối quan hệ xã hội của
mình. Đối với các nhà cơng tác xã hội và cán bộ tư vấn, McLeod và các cộng sự cho
rằng các nhà tư vấn cần hiểu và đánh giá một cách đầy đủ về các nguồn lực cá nhân
của nạn nhân và khả năng tiếp cận các nguồn lực của họ, từ đó cung cấp cho họ sự
bảo vệ và trợ giúp một cách phù hợp nhất [52].
Năm 2014, Liên hợp quốc xuất bản cuốn tài liệu“Từ bạo lực gia đình đến bạo
lực giới tại Việt Nam: mối liên hệ giữa các hình thức bạo lực” đã đưa ra những
nhận định như sau: Bạo lực giới là một hiện tượng phổ biến và phức tạp, thể hiện
dưới nhiều hình thức, từ bạo lực gia đình đến quấy rối tình dục. Bạo lực giới duy trì
sự bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ và là động lực duy trì, tăng cường các vai
trị giới truyền thống. Trong mọi hình thức của bạo lực giới, phần lớn nạn nhân là
phụ nữ và trẻ em gái nhưng họ lại ít được tiếp cận và nhận được dịch vụ hỗ trợ pháp
lý. Và sự thiếu hụt quyền lực của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội dẫn đến tình

trạng các nhà chức trách/cơ quan chức năng làm ngơ và không hành động khi phụ
nữ bị bạo lực tìm kiếm sự hỗ trợ, can thiệp [43].
Chuyên gia quản lý truyền thông của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội quốc
tế (IFSW) Nicole Brown đã có bài viết “Nhân viên cung cấp dịch vụ công tác xã
hội có thể giúp chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ- Social Service Workers can help
end violence against women” năm 2015 cho biết Hiệp hội nhân viên công tác xã hội
quốc tế sẽ huấn luyện các nhân viên dịch vụ xã hội để phân tích và hiểu các lý do
phức tạp và khác nhau mà bạo lực xảy ra đối với phụ nữ và có thể hỗ trợ cộng đồng
thay đổi hành vi xã hội và ngăn ngừa bạo lực. Nhân viên cung cấp dịch vụ CTXH
cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, giới thiệu

5


để chăm sóc và điều trị sức khoẻ thể chất, tâm thần và tâm lý xã hội cho phụ nữ bị
bạo lực. Nhân viên cung cấp dịch vụ CTXH cũng có thể là người vận động chính
sách cho các nạn nhân và đơi khi có vai trị dẫn đầu trong việc hỗ trợ pháp lý cho
nạn nhân bằng cách làm việc chặt chẽ với cơ quan thực thi pháp luật [53].
2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Năm 2011, UNODC tại Việt Nam đã công bố Báo cáo nghiên cứu về chất
lượng dịch vụ tư pháp hình sự hiện nay dành cho nạn nhân bạo lực gia đình ở Việt
Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 95% các vụ bạo hành phụ nữ là do người chồng
gây ra. Tuy nhiên, chỉ có 43% vụ việc nhận được sự chú ý của cảnh sát. Kết quả
khảo sát cũng cho thấy, 77% các vụ việc không được cơ quan trợ giúp pháp lý chú ý.
Thách thức mà cơ quan cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý phải đối mặt là thiếu
chuyên gia và các khóa đào tạo về bạo lực gia đình, ngồi ra, nhiều người dân
khơng biết về dịch vụ này hoặc khi nạn nhân bạo lực gia đình tiếp cận tới nhưng họ
lại không được hưởng dịch vụ này bởi không thuộc diện hộ nghèo. Hầu hết các nạn
nhân không nhận được sự chăm sóc y tế (68%). Một trở ngại nghiêm trọng cản trở
việc xử lý hiệu quả các vụ bạo lực gia đình đó là thiếu sự hợp tác giữa các cấp chính

quyền khác nhau, đặc biệt là giữa cơ sở y tế, công an, các tổ chức đoàn thể và đơn
vị cung cấp dịch vụ TGPL [45].
Năm 2013, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Quỹ dân
số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam thực hiện Báo cáo nghiên cứu rà soát bạo
lực trên cơ sở giới ở Việt Nam, trong đó đề cập tới thực trạng các mơ hình, hoạt
động can thiệp về bạo lực trên cơ sở giới được triển khai từ năm 2007 đến 2013
như: các CLB/ nhóm tự lực về phịng, chống bạo lực gia đình; Tổ hịa giải; đường
dây nóng (hotline); sàng lọc tại các cơ sở y tế; Đội can thiệp/nhóm phịng, chống
bạo lực gia đình; hỗ trợ pháp lý; nhà tạm lánh; địa chỉ tin cậy (ĐCTC) tại cộng
đồng; đào tạo nghề, hỗ trợ vốn cho nạn nhân bạo lực gia đình. Mơ hình ĐCTC tại
cộng đồng đã được triển khai rộng khắp tại các địa phương và thường được đặt tại
nhà cán bộ chủ chốt của Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh. Trong bối
cảnh thiếu nguồn kinh phí để vận hành các nhà tạm lánh thì địa chỉ tin cậy được
xem là một giải pháp lựa chọn tiềm năng. Tuy nhiên, mơ hình này cịn nhiều thách

6


thức do chưa có một tiêu chuẩn thống nhất về cơ sở vật chất cũng như dịch vụ để
đảm bảo sự an toàn cho những người phụ nữ và gia đình chủ nhà của ĐCTC [6].
Năm 2015, Viện Nghiên cứu phát triển xã hội công bố Báo cáo “Các yếu tố xã
hội quyết định bất bình đẳng giới ở Việt Nam”. Đây là cơng trình nghiên cứu từ
2012-2015. Trong nghiên cứu định tính, một số người cho biết, phụ nữ khơng được
khuyến khích tố cáo bạo lực. Trong trường hợp phụ nữ tố cáo bị chồng bạo hành thì
họ khơng chỉ là nạn nhân của bạo lực gia đình mà còn là nạn nhân của định kiến xã
hội. Điều này có thể giải thích vì sao sự can thiệp của cơ quan pháp luật thường rất hạn
chế, kể cả với những trường hợp bạo hành nghiêm trọng, kéo dài [47].
Tìm hiểu các nghiên cứu về việc tiếp cận dịch vụ và các mơ hình can thiệp, hỗ
trợ nhóm phụ nữ bị bạo lực cũng như về hoạt động thực hành CTXH đối với nhóm
phụ nữ bị bạo lực ở Việt Nam nói chung và tại địa bàn Hà Nội nói riêng, tác giả

thấy còn thiếu vắng những nghiên cứu này.
Để phục vụ cho nghiên cứu, tác giả đã thu thập thơng tin từ một số báo cáo
hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan như Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội (LĐTBXH), Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VHTTDL). Hiện nay,
trên phạm vi tồn quốc, Bộ VHTTDL triển khai mơ hình phịng chống bạo lực gia
đình, lấy việc thành lập Câu lạc bộ Xây dựng gia đình phát triển bền vững và Nhóm
PCBLGĐ để triển khai các nội dung về xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc và phát hiện, ngăn chặn các vụ BLGĐ [6]; Bộ LĐTBXH triển khai mơ
hình ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại của bạo lực trên cơ sở giới tại 63 xã của 63
tỉnh, thành phố, trong đó tập trung vào các hoạt động của câu lạc bộ, Tổ phòng,
chống bạo lực giới, ĐCTC, nhà tạm lánh tại cộng đồng... [4]. Một số mơ hình can
thiệp do các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ triển khai trong thời gian qua
như: Gói can thiệp tối thiểu phịng, chống bạo lực gia đình do UNFPA hỗ trợ Bộ
VHTTDL, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam triển khai thí
điểm tại Bến Tre và Hải Dương. Tuy nhiên, các can thiệp này mới chỉ ở cấp độ nhỏ
và mang tính chất thử nghiệm.
Như vậy, với các kết quả nghiên cứu, tài liệu liên quan ở cả trong nước và
quốc tế cho thấy, bạo lực giới (BLG), BLGĐ và đặc biệt là bạo lực với phụ nữ được
xem là vấn đề toàn cầu, vi phạm nghiêm trọng quyền con người của phụ nữ. Việc

7


tiếp cận tới các dịch vụ can thiệp và hỗ trợ của phụ nữ bị bạo lực còn bị tác động
bởi nhiều yếu tố, từ định kiến xã hội tới điều kiện cơ sở vật chất của đơn vị cung
cấp dịch vụ cũng như kỹ năng của đội ngũ nhân viên. Đây là những nội dung mà đề
tài nghiên cứu này cần đi sâu phân tích để làm sáng tỏ ở chương 2 của Luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị

bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới việc cung
cấp dịch vụ CTXH cho nhóm đối tượng này.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu, đưa ra những phát hiện có tính thực tiễn
sát với nhu cầu tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTXH của nhóm đối tượng này, làm
căn cứ để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH
cho phụ nữ bị bạo lực.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
3.2.1. Rà sốt khung chính sách, pháp luật liên quan tới việc cung cấp dịch vụ
trợ giúp nạn nhân bị bạo lực.
3.2.2. Tìm hiểu những đánh giá, nhận định của nạn nhân và nhân viên CTXH
về thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH cho nhóm phụ nữ bị bạo lực.
3.2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hiệu quả dịch vụ CTXH đối với
nhóm phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn nghiên cứu.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực tại thành phố Hà Nội
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Phụ nữ bị bạo lực có nhu cầu tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CTXH tại địa
bàn thành phố Hà Nội.
- Cán bộ, nhân viên của Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội (TT
CTXH) Hà Nội, Ngơi nhà Bình n (NNBY) thuộc Trung tâm Phụ nữ và Phát triển
(Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) và Hagar International Việt Nam (Hagar).
- Cán bộ quản lý nhà nước lĩnh vực CTXH.

8


4.3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đi vào tìm hiểu việc cung cấp dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị

bạo lực tại Hà Nội. Trên thực tế có thể có nhiều dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực và
đơn vị cung cấp dịch vụ cho phụ nữ bị bạo lực. Tuy nhiên, đề tài giới hạn về phạm
vi đối tượng và phạm vi khách thể như sau:
4.3.1. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về đối tượng: đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng dịch
vụ CTXH đối với phụ nữ bị bạo lực, cụ thể là các dịch vụ về: tạm lánh an tồn; hỗ
trợ y tế, chăm sóc sức khỏe; tư vấn, tham vấn tâm lý; tư vấn pháp lý; dạy nghề, giới
thiệu việc làm và tái hòa nhập cộng đồng.
- Phạm vi về khách thể: phụ nữ bị bạo lực đã đến TT CTXH Hà Nội, NNBY
và Hagar để được hỗ trợ dịch vụ.
- Phạm vi về thời gian: Từ tháng 9/2016 – 03/2017.
4.3.2. Giới hạn nghiên cứu:
Nghiên cứu việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho phụ nữ bị bạo lực là
một phạm vi rộng. Do thời gian và điều kiện có hạn, nên tác giả tập trung vào các
khía cạnh sau:
- Tìm hiểu về mạng lưới cung cấp dịch vụ CTXH trên địa bàn thành phố Hà
Nội trên cơ sở nghiên cứu hoạt động tại 03 đơn vị (TT CTXH Hà Nội, NNBY và
Hagar) và những dịch vụ hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực. Mặc dù trên địa
bàn thành phố Hà Nội có nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực,
song lại chưa gắn với dịch vụ CTXH. Do đó, việc lựa chọn ba cơ sở nêu trên để
nghiên cứu bởi tính đại diện cho sự đa dạng về cơ cấu, loại hình tổ chức và được
ghi nhận trong lĩnh vực hỗ trợ dịch vụ CTXH cho phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội.
- Tìm hiểu và phân tích những nhận định của phụ nữ bị bạo lực khi có nhu cầu
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CTXH tại địa bàn nghiên cứu.
- Tìm hiểu và phân tích nhận định của NVCTXH về nhu cầu của phụ nữ bị bạo
lực và khả năng/năng lực đáp ứng dịch vụ của NVCTXH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

9



- Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng và lịch sử: từ những đánh giá về
thực trạng phụ nữ bị bạo lực, thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH đối với phụ nữ bị
bạo lực tại Hà Nội rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện
pháp để nâng cao hiệu quả CTXH đối với nhóm phụ nữ bị bạo lực tại Hà Nội.
- Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống chính sách hỗ trợ đối với phụ nữ bị
bạo lực trong nước và quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu: sử dụng các thông tin, số liệu, tài liệu
từ các nguồn tài liệu đã được công bố để phục vụ cho q trình nghiên cứu. Những
thơng tin tác giả thu thập được xử lý một cách khoa học, mang tính chất định tính và
định lượng để đảm bảo tính khách quan cho thơng tin nhưng vẫn chứa đựng được
nội hàm của Luận văn.
5.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: là phương pháp dựa trên hình
thức hỏi đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước, điều tra viên
tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách trả lời các câu hỏi, người được
hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi và ghi cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi
gửi lại cho các điều tra viên.
Với phương pháp này, tác giả sẽ tiến hành khảo sát 100 phụ nữ bị bạo lực đã
tiếp cận dịch vụ hỗ trợ của TT CTXH Hà Nội (20 phiếu), NNBY (50 phiếu) và
Hagar (30 phiếu); 20 người là lãnh đạo và NVCTXH của 03 đơn vị khách thể
nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về các nhu cầu tiếp cận dịch vụ CTXH của phụ
nữ bị bạo lực và thực trạng việc cung cấp dịch vụ cũng như mức độ đáp ứng về chất
lượng, hiệu quả dịch vụ từ phía các cơ sở cung cấp dịch vụ.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Thông tin được thu thập qua phỏng vấn 15 phụ nữ bị bạo lực, 07 nhân viên xã
hội, 02 cán bộ quản lý nhà nước về CTXH. Mục đích sử dụng phương pháp này để
xem xét nghiên cứu một cách sâu sắc, có căn cứ và cũng là hiểu rõ bản chất nguồn

gốc của vấn đề đang nghiên cứu. Phương pháp này phục vụ cho việc khai thác sâu
các thơng tin định tính đối với bản thân phụ nữ bị bạo lực, những thông tin cần thu
thập nhằm trả lời các câu hỏi liên quan đến nhu cầu cần được hỗ trợ của nạn nhân;

10


những khó khăn, hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nạn
nhân.
5.2.4. Phương pháp quan sát: là phương pháp thu thập thông tin thông qua các
tri giác như: nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng các
mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ sung và
thu thập các thông tin còn thiếu để kiểm tra, đối chiếu, so sánh các thông tin thông
qua việc quan sát để đánh giá độ tin cậy của các thông tin qua việc quan sát bối
cảnh, tình trạng, thái độ, ứng xử, giao tiếp… của người được điều tra.
5.2.5. Phương xử lý dữ liệu nghiên cứu: Các số liệu định lượng thu thập được
xử lý, phân tích qua phần mềm bảng tính Excell và phần mềm chuyên dụng SPSS
20.0. Các dữ liệu định tính được phân loại theo các nhóm chủ đề, các tiểu chủ đề và
được tổng hợp, phân tích bổ sung cho số liệu định lượng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài sử dụng kiến thức trong lĩnh vực an sinh xã hội, chính sách xã hội,
CTXH với phụ nữ bị bạo lực, đóng góp vào việc xây dựng cơ sở lý luận cho những
nghiên cứu mang tính tồn diện hơn ở giai đoạn sau. Hơn nữa đề tài góp phần bù
đắp những thiếu hụt kiến thức trong lĩnh vực CTXH với phụ nữ bị bạo lực, đặc biệt
là tại Việt Nam.
Đề tài sử dụng và góp phần kiểm chứng một số quan điểm lý thuyết nổi bật
trong CTXH như: quan điểm về hệ thống sinh thái, lý thuyết về nhu cầu và lý thuyết
thân chủ trọng tâm để lý giải một số vấn đề thực tiễn trong quá trình nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đối với các chính sách hỗ trợ dịch vụ dành cho phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn
nghiên cứu: Trên cơ sở rà soát, đánh giá hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH dành cho
phụ nữ bị bạo lực trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề tài hướng tới việc chỉ ra một số
khía cạnh để hiểu về thực trạng cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực. Từ
việc đánh giá thực trạng, đề tài góp phần đưa ra một số khuyến nghị nâng cao hiệu
quả cung cấp dịch vụ nói chung và dịch vụ CTXH nói riêng dành cho phụ nữ bị bạo
lực tại địa phương.

11


Đối với ngành CTXH: từ việc đánh giá thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH
dành cho phụ nữ bị bạo lực tại TT CTXH Hà Nội, NNBY và Hagar, đề tài cũng
nhằm bổ sung thêm một số thông tin, nghiên cứu thực tiễn về lĩnh vực này. Bên
cạnh việc phát hiện, chỉ ra những tồn tại trong quá trình cung cấp dịch vụ dành cho
phụ nữ bị bạo lực, đề tài nhằm góp phần làm rõ hơn vai trị cụ thể của NVCTXH
trong quá trình trợ giúp một cách hiệu quả nhất cho phụ nữ bị bạo lực.
Đối với các nhà hoạch định chính sách: các chính sách trợ giúp luôn nằm
trong mối quan hệ biện chứng với thực tế xã hội và luôn biến đổi. Đề tài hướng đến
việc đề xuất một số khuyến nghị làm cơ sở cho q trình hoạch định, bổ sung chính
sách của nhà nước trong vấn đề cung cấp dịch vụ CTXH đối với nạn nhân bị bạo lực.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
Chương 2: Thực trạng cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo
lực trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc cung cấp dịch vụ công
tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực từ thực tiễn thành phố Hà Nội


12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC

1.1. Lý luận về bạo lực với phụ nữ
1.1.1. Một số khái niệm
Khái niệm bạo lực: Tài liệu Hướng dẫn làm việc với nam giới gây bạo lực của
Bộ LĐTBXH (2016) đã đưa ra khái niệm về bạo lực như sau: “Bạo lực được hiểu là
việc sử dụng sức mạnh thể chất hoặc sự chi phối về quyền lực nhằm đe dọa hoặc
trực tiếp xâm phạm đến một cá nhân, một nhóm hoặc cộng đồng, dẫn tới sự thương
tật thể chất, thiệt mạng, tổn thương tâm lý, hạn chế hoặc tước đoạt các cơ hội trong
phát triển bản thân của nạn nhân” [3].
Khái niệm bạo lực gia đình: Theo Luật Phịng, chống bạo lực gia đình (2006),
BLGĐ được xác định là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong
gia đình [29].
Khái niệm bạo lực trên cơ sở giới: Trong Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ
nữ, Liên hợp quốc (1993) đã nêu rõ bạo lực trên cơ sở giới là “bất kỳ hành động nào
dựa trên cơ sở giới mà gây tổn hại hoặc đau đớn cho phụ nữ về mặt thân thể, tình
dục hoặc tâm lý, kể cả việc đe dọa thực hiện những hành động như vậy, sự ép buộc
hay tước đoạt tự do, cho dù xảy ra ở nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư” [57].
Khái niệm bạo lực đối với phụ nữ: Tài liệu hướng dẫn Huy động sự tham gia
của cộng đồng trong phòng ngừa bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái của UNWomen
(2016) đã đề cập khái niệm bạo lực đối với phụ nữ là “bất cứ một hành động, lời nói
hay tác động thể chất, ép buộc hoặc đe dọa trực tiếp đến phụ nữ, dẫn đến những ảnh
hưởng nguy hiểm về tâm lý, thể chất, làm nhục, tước quyền tự do hoặc kéo dài sự lệ
thuộc của phụ nữ cho dù xảy ra trong đời sống riêng tư và/hoặc nơi cơng cộng” [36].

1.1.2. Các hình thức của bạo lực đối với phụ nữ
Bạo lực đối với phụ nữ là một khái niệm rộng, vì vậy ở nghiên cứu này phân
loại bạo lực với phụ nữ theo 4 hình thức sau [31]:

13


Bạo lực thể chất: bao gồm tất cả những hành động gây thương tích đối với cơ
thể của phụ nữ hoặc trẻ em gái. Dạng bạo lực này có thể nhận biết rõ ràng qua các
hành vi như: tát, đánh đập, đấm, đá, hành hung bằng hung khí và có thể làm nguy
hại đến tính mạng của nạn nhân. Đây là hình thức dễ nhận biết nhất của bạo lực nên
nó có thể che giấu các hình thức bạo lực khác xảy ra cùng thời điểm (như bạo lực
tình dục, kinh tế hoặc tinh thần).
Bạo lực tinh thần: bao gồm sự ngược đãi về tinh thần, lời nói như là quát
mắng, lạm dụng, coi thường, nhục mạ, cô lập. Thông thường, bạo lực tinh thần hạn
chế khả năng tự đánh giá bản thân của phụ nữ, dẫn đến sự tự hạ thấp bản thân mình,
trầm cảm, giảm cơ hội/khả năng kêu gọi sự giúp đỡ của bạn bè và gia đình. Mọi
hình thức bạo lực đều gây ra những hậu quả về tinh thần cho phụ nữ.
Bạo lực tình dục: là hành vi quấy rối tình dục hoặc cưỡng ép quan hệ tình dục
ngồi ý muốn của nạn nhân, sử dụng những lời lẽ hoặc hành động cưỡng ép nạn
nhân thực hiện những hành vi tình dục. Hành vi bạo lực tình dục gồm: các biểu hiện
cưỡng ép quan hệ tình dục trái ý muốn, tấn cơng/quấy rối tình dục, bắt mang thai,
nạo phá thai, ép xem các ấn phẩm đồi trụy, chứng kiến các hành vi tình dục của
người khác... Hành vi này có thể diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng, bạn tình.
Bạo lực kinh tế: là hành vi nhằm xóa bỏ sự độc lập kinh tế của nạn nhân, bao
gồm các hành vi đập phá tài sản của nạn nhân, phá hủy/ngăn cản công ăn việc làm;
bắt đóng góp kinh tế q khả năng; kiểm sốt tiền bạc hoặc chi tiêu của nạn nhân;
ép buộc các nạn nhân lao động quá sức hoặc đóng góp vượt quá khả năng thu nhập
của họ, kiểm soát thu nhập và từ đó gây ra sự phụ thuộc về tài chính.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực

Một số đặc điểm tâm lý thường gặp ở phụ nữ bị bạo lực [61]
Nhìn chung, phụ nữ bị bạo lực thường có những đặc điểm tâm lý nổi bật sau:
Thứ nhất, cảm thấy xấu hổ, sợ hãi, hoảng loạn, bất lực, bế tắc, tuyệt vọng,
trầm cảm, mất niềm tin.
Thứ hai, dễ bị phân tán tư tưởng và mất tập trung.
Thứ ba, khó khăn, yếu ớt trong việc thể hiện tình cảm, suy nghĩ, sự tự tin và
thường muốn lẩn tránh đám đông.

14


Thứ tư, đáp ứng mọi yêu cầu, cố gắng làm vừa lịng người gây bạo lực (kể cả
đáp ứng tình dục) để tránh xung đột xảy ra và duy trì mối quan hệ.
Thứ năm, khơng làm gì để ngăn chặn bạo lực xảy ra, tự nhận lỗi, bao biện cho
hành động của người gây bạo lực hoặc giảm nhẹ tình trạng bạo lực của mình với
niềm tin/mong muốn cha mẹ, người thân, bạn bè khơng phải đau lịng về tình trạng
bạo lực của mình.
Thứ sáu, dễ bị trầm cảm, có ý định tự tử và có thể có những rối nhiễu về tâm
thần.
Nhu cầu của phụ nữ bị bạo lực
Như những người bình khác, phụ nữ bị bạo lực cũng có những nhu cầu được
sống, được làm việc, được vui chơi, tham gia vào các hoạt động xã hội. Tuy nhiên,
với nhóm đối tượng này, họ cịn có một số những nhu cầu riêng rất đặc trưng.
Trước hết, phụ nữ bị bạo lực có nhu cầu được đảm bảo an tồn về tính mạng
cả trước mắt và lâu dài cho bản thân họ, con cái của họ và những người thân họ yêu
thương. Đây là nhu cầu cơ bản, cấp thiết cần được đáp ứng kịp thời cho phụ nữ bị
bạo lực [62].
Thứ hai, nhu cầu được chăm sóc y tế, chữa trị vết thương kịp thời để giúp phụ
nữ bị bạo lực ổn định sức khỏe và phục hồi thể chất [61, 65].
Thứ ba, nhu cầu được hỗ trợ tư vấn/tham vấn tâm lý để giúp họ vượt qua

khủng hoảng, đồng thời trang bị thêm cho họ kiến thức, kỹ năng để họ có thể tự bảo
vệ bản thân mình tốt hơn khi bị căng thẳng, đau buồn do bị bạo lực. Việc tư vấn,
tham vấn tâm lý cho nhóm đối tượng này cần tạo được tin tưởng, thấu hiểu, đồng
cảm, chia sẻ, không đổ lỗi, lên án hay kỳ thị, phân biệt đối xử về nguyên nhân gây
bạo lực hay sự phản kháng lại hành vi bạo lực của người gây bạo lực [61, 62].
Thư tư, nhu cầu được hỗ trợ tư vấn pháp lý, đại diện ngoài tố tụng, thực hiện
kiến nghị, hòa giải, đặc biệt trong các trường hợp phụ nữ ly hôn, bị xâm hại tình dục
hay bị lừa bán làm mại dâm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ
cũng như xét xử công minh những kẻ vi phạm pháp luật [61, 62].
Thứ năm, nhu cầu được học nghề, tạo việc làm hoặc những giải pháp hỗ trợ
sinh kế bền vững để giúp phụ nữ bị bạo lực tự tin, độc lập, tự chủ đối với cuộc sống
của mình [62].

15


Thứ sáu, nhu cầu tái hịa nhập cộng đồng, khơng bị kỳ thị, phân biệt đối xử,
đặc biệt với nhóm phụ nữ bị buôn bán, phụ nữ làm mại dâm [62].
1.1.4.Các lý thuyết tiếp cận đối với phụ nữ bị bạo lực
1.1.4.1. Thuyết Nhu cầu của Abraham Maslow:
Maslow (1908-1970), là nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông là người
phát triển lý thuyết về nhu cầu của con người. Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của
con người theo 5 cấp bậc: nhu cầu cơ bản (ăn, uống, hít thở khơng khí...); nhu cầu
về an tồn (tình u thương, nhà ở, việc làm); nhu cầu xã hội (được hòa nhập); nhu
cầu được q trọng (có vị trí trong một nhóm người, cộng đồng, xã hội); nhu cầu
được thể hiện mình (được hồn thiện, phát triển trí tuệ, được thể hiện khả năng và
tiềm lực của mình).
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tháp nhu cầu của Maslow

(Nguồn )


Hệ thống nhu cầu của Maslow được thể hiện dưới hình kim tự tháp. Nhu cầu ở
bậc thấp thì xếp ở phía dưới. Các nhu cầu trên luôn tồn tại và đan xen lẫn nhau. Khi
nhu cầu cơ bản, nhu cầu được an toàn được thỏa mãn thì mới nảy sinh các nhu cầu
xã hội, tơn trọng và được thể hiện mình. Vận dụng lý thuyết này trong cung cấp
dịch vụ xã hội cho phụ nữ bị bạo lực, nhân viên xã hội sẽ xác định được nhu cầu
nào là quan trọng và cần đáp ứng trước tiên cho thân chủ, trên cơ sở đó thiết lập kế
hoạch và huy động các nguồn lực liên quan.
1.1.4.2. Lý thuyết hệ thống

16


Thuyết hệ thống được ứng dụng trong thực hành công tác xã hội bao gồm
thuyết hệ thống tổng quát và thuyết hệ thống sinh thái. Thuyết hệ thống được nhà
Sinh vật học Ludwig von Bertalanffy (1901-1972) đề xuất vào năm 1928. Lý thuyết
này cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ
thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Do đó, con người là một
bộ phận của xã hội và được tạo nên từ các phân tử, mà được tạo dựng từ các nguyên
tử nhỏ hơn [26].
Lý thuyết hệ thống sinh thái được nhà tâm lý học phát triển Urie
Bronfenbrenner (1917-2005) phát triển. Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của
con người trong bối cảnh hệ thống các mối quan hệ hình thành nên môi trường của
họ. Lý thuyết này chỉ ra “các lớp” phức tạp của mơi trường và mỗi một lớp đó lại có
những tác động cụ thể đến thân chủ [48].
Lý thuyết hệ thống được đánh giá là một trong những lý thuyết quan trọng
được sử dụng trong CTXH, đặc biệt khi tìm hiểu đánh giá về hệ thống xung quanh
thân chủ. Bởi nó cho nhân viên CTXH thấy được thân chủ đang thiếu những gì và
hệ thống mà họ có thể tham gia và tiếp cận bởi trọng tâm của hệ thống là hướng đến
những cái tổng thể và mang tính hịa nhập.

Việc ứng dụng lý thuyết này trong q trình thực hành CTXH có quan hệ và
cần thiết nhất trong suốt quá trình bắt đầu của tiến trình trợ giúp, khi các vấn đề của
thân chủ bắt đầu được định rõ và lượng giá. Lý thuyết này cũng hướng nhân viên
CTXH có thể nhận biết những điểm khả thi và các mức độ can thiệp với vấn đề của
thân chủ, sau đó lựa chọn một hay nhiều cách tiếp cận phù hợp và hiệu quả nhất.
Áp dụng lý thuyết này trong trường hợp hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực, nhân viên
CTXH sẽ rà soát, đánh giá các mối quan hệ xã hội, các nguồn lực hỗ trợ bên trong
và bên ngoài cho thân chủ nhằm lý giải và đánh giá đúng mức độ tác động để tìm ra
nguyên nhân từ đó giải quyết vấn đề bằng cách kết nối các nguồn lực. Song song
với quá trình can thiệp từng vấn đề cụ thể, nhân viên CTXH có thể kết hợp, huy
động các nguồn lực sẵn có, những dịch vụ cịn ẩn hoặc thân chủ chưa có điều kiện
tiếp cận để giúp cho quá trình can thiệp được hiệu quả [63].
1.1.4.3. Lý thuyết thân chủ trọng tâm

17


Thuyết thân chủ trọng tâm do nhà tâm lý học Carl Rogers (1902-1987) phát
triển. Lý thuyết nhấn mạnh vào việc lấy con người làm trung tâm, thuyết tập trung
vào làm rõ cái tơi, tìm kiếm sự thể hiện cho chính bản thân mình. Mục đích của
thuyết này là khuyến khích thân chủ tự hiện thực hóa tiềm năng của bản thân, tạo
điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý của thân chủ [23].
Lý thuyết này được áp dụng nhiều trong quá trình tham vấn cho thân chủ là
những nạn nhân bị bạo hành bởi những định kiến giới. Trong nhiều trường hợp,
nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) khơng chỉ đơn thuần là người tìm kiếm và
liên kết các nguồn lực mà cịn đóng vai trị là nhà tham vấn và hỗ trợ tham vấn cho
thân chủ. Thuyết này giúp cho NVCTXH ln có niềm tin vào thân chủ, vào sự
thay đổi của thân chủ. Do đó, trong quá trình thực hành CTXH, nhân viên xã hội
phải thể hiện sao cho thân chủ thấy yên tâm, đáng tin cậy, biết lắng nghe, thấu hiểu
và đồng cảm với hoàn cảnh của thân chủ.

1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
1.2.1. Một số khái niệm
Khái niệm Công tác xã hội
Theo Hiệp hội Nhân viên công tác xã hội quốc tế (IFSW) và Hiệp hội các
trường đào tạo công tác xã hội quốc tế (2014) định nghĩa, "CTXH là một nghề thực
hành và là một ngành khoa học nhằm thúc đẩy sự thay đổi và phát triển xã hội, gắn
kết xã hội, tăng cường năng lực và giải phóng con người. Các nguyên tắc chủ đạo
của CTXH bao gồm công bằng xã hội, các quyền con người, trách nhiệm hợp tác và
tôn trọng sự đa dạng. CTXH sử dụng các lý thuyết của công tác xã hội, các khoa
học xã hội, kiến thức nhân văn và bản địa, công tác xã hội gắn kết con người và các
hệ thống để giải quyết những thách thức trong cuộc sống và tăng cường an sinh" [51].
Theo Từ điển Xã hội học, công tác xã hội là "một dịch vụ đã chun mơn hố"
[17, tr.94]
Khái niệm dịch vụ
Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học định nghĩa “Dịch vụ là
công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đơng, có tổ chức và
được trả cơng” [39, tr.412].

18


Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng
các nhu cầu của cuộc sống và mang lại lợi nhuận.
Như vậy, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ
khác nhau, song tựu chung thì: “dịch vụ là hoạt động có chủ đích của một cá nhân
hay tổ chức nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch
vụ là khơng tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hóa nhưng nó phục
vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội” [20].
Khái niệm dịch vụ công tác xã hội:
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2013), dịch vụ cơng tác xã hội có thể được

coi là một loại hình dịch vụ xã hội do các nhân viên công tác xã hội cung cấp [25].
Dịch vụ công tác xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế được tác giả Hà Thị
Thư (2016) định nghĩa là "việc cung cấp các hoạt động mang tính chất phịng ngừa khắc phục rủi ro và hoà nhập cộng đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên
các nhu cầu cơ bản của họ nhằm đảm bảo các giá trị và chuẩn mực xã hội" [38,
tr.195].
Theo tác giả, dịch vụ CTXH là các hoạt động, chương trình can thiệp, hỗ trợ ở
cả 3 cấp độ vi mô, trung mô và vĩ mơ nhằm giúp các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng
đồng và xã hội giải quyết vấn đề, tồn tại. Như vậy, dịch vụ CTXH bao gồm các dịch
vụ như tham vấn, quản lý ca, triển khai các chương trình hỗ trợ, các hoạt động
nhóm, các hoạt động phát triển cộng đồng, các hoạt động xây dựng và đánh giá
chính sách, ...
Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, dịch vụ CTXH đối với phụ nữ bị bạo lực
được hiểu là một số hoạt động mang tính chuyên nghiệp nhằm phòng ngừa, hạn chế,
khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cơ bản cho phụ nữ bị bạo lực như dịch
vụ tạm lánh, chăm sóc sức khỏe, tư vấn/tham vấn tâm lý, pháp lý, hỗ trợ học nghề,
giới thiệu việc làm ....

19


1.2.2. Các dịch vụ công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực
1.2.2.1. Dịch vụ tạm lánh (hỗ trợ nơi ăn, ở an toàn)
Dịch vụ tạm lánh hỗ trợ cho người bị bạo lực nơi ăn, ở an toàn tạm thời, khẩn
cấp khi bạo lực xảy ra. Đây là dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng, giúp người bị bạo
lực được bảo đảm an toàn, được cách ly khỏi người gây bạo lực.
Người bị bạo lực có thể tạm lánh trong vài giờ đến một vài ngày hoặc một vài
tháng. Ở nơi tạm lánh, họ sẽ được hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khỏe, được hỗ trợ một
số vật dụng cá nhân cần thiết để duy trì sinh hoạt hàng ngày, được tư vấn tâm lý và
có thể được hỗ trợ một số dịch vụ khác tùy thuộc vào nhu cầu của người bị bạo lực

cũng như điều kiện, quy mô của mỗi cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực.
Khi tiếp nhận phụ nữ bị bạo lực tới tạm lánh, nhân viên xã hội sẽ tiến hành thu
thập thông tin cá nhân, nhu cầu hỗ trợ để từ đó xây dựng kế hoạch hỗ trợ phù hợp
với từng đối tượng [14, 62].
1.2.2.2. Dịch vụ hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khỏe
Trong cuốn tài liệu về Chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ bị bạo lực, Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) đã nhấn mạnh: Dịch vụ hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ
bị bạo lực nhằm giúp phụ nữ bị bạo lực được kịp thời sơ cứu ban đầu, chữa và điều
trị những tổn thương về thể chất nhằm giúp họ hồi phục sức khỏe, bảo vệ tính mạng.
Khi nạn nhân bị bạo lực đến cơ sở cung cấp dịch vụ, nhà tạm lánh hay cơ sở y
tế, họ sẽ được nhân viên xã hội, bác sỹ, y tá thăm khám vết thương để hỗ trợ điều trị
kịp thời ngay tại cơ sở hoặc chuyển gửi đến các bệnh viện, trạm y tế tuyến trên [62,
65].
1.2.2.3. Dịch vụ tư vấn/tham vấn tâm lý
Dịch vụ tư vấn/tham vấn tâm lý nhằm hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực nói ra được câu
chuyện của mình, từ đó giúp họ giải tỏa căng thẳng mệt mỏi và bình tĩnh để tìm giải
pháp cho chính bản thân mình một cách tốt nhất [62]. Trong cuốn tài liệu tập huấn
Làm việc với nạn nhân bị bạo lực giới của Cơ quan cứu trợ người tị nạn Palestin
của Liên Hợp quốc (2012) khẳng định việc tư vấn, tham vấn tâm lý có ý nghĩa rất
quan trọng, cần được tiến hành sớm để giúp nạn nhân bình ổn về tâm lý trước khi
tiến hành các hỗ trợ tiếp theo [61].

20


Bằng kiến thức, kỹ năng của mình, cán bộ tham vấn, nhân viên xã hội tiến
hành việc trao đổi trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại, email, mạng xã hội…) để
cùng trao đổi thông tin, cung cấp kiến thức, kỹ năng phòng tránh bạo lực, kỹ năng
sống cho thân chủ của mình.
1.2.2.4. Dịch vụ trợ giúp pháp lý

Trong cuốn tài liệu hướng dẫn về Gói dịch vụ cần thiết hỗ trợ phụ nữ bị bạo
lực, các cơ quan của Liên hợp quốc nêu rõ dịch vụ trợ giúp pháp lý có vai trị đặc
biệt quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ bị bạo lực, đặc biệt
trong trường hợp nạn nhân quyết định chọn li hôn, nạn nhân bị lừa bán hoặc bị xâm
hại tình dục [62].
Cán bộ tham vấn và nhân viên xã hội thực hiện việc tham vấn, cung cấp thông
tin về luật pháp, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ
hoặc phối hợp với cơ quan TGPL, các luật sư để tư vấn, hỗ trợ giải quyết các vấn đề
liên quan trong quá trình tố tụng tại Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan Công an hoặc
được luật sự bảo vệ, bào chữa tại Tòa án.
1.2.2.5. Dịch vụ hỗ trợ đào tạo nghề, giới thiệu việc làm
Dịch vụ hỗ trợ đào tạo nghề, giới thiệu việc làm nhằm giúp nạn nhân bị bạo
lực có cơ hội học tập, nâng cao tay nghề và việc làm, từ đó có thu nhập ổn định để
đảm bảo cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng bền vững.
Nhân viên xã hội sẽ đánh giá nhu cầu và khả năng thực tế của người bị bạo
lực,trên cơ sở đó giới thiệu những ngành nghề phù hợp để học hoặc giới thiệu việc
làm cho thân chủ [62].
Cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực có thể trực tiếp tổ chức
đào tạo nghề cho phụ nữ bị bạo lực hoặc chuyển gửi tới các cơ sở đào tạo nghề,
giới thiệu việc làm để hỗ trợ những phụ nữ bị bạo lực có nhu cầu học nghề và
tìm việc làm.
1.2.2.6. Dịch vụ chuyển gửi
Dịch vụ chuyển gửi nạn nhân được thực hiện khi cơ sở cung cấp dịch vụ cho
nạn nhân bị bạo lực không đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ dịch vụ của nạn nhân [62].
Dịch vụ chuyển gửi được thực hiện giữa cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn
nhân bị bạo lực với nhau, giữa các cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân bị bạo

21



×