Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.96 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THÀNH ĐÔ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THÀNH ĐÔ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số


: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NGỌC TRIẾT

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi! Các số liệu trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; những kết luận mới
trong khoa học trong luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào,
nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Cần Thơ, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Đô


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình
tới Tiến sĩ Lê Ngọc Triết, người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá
trình thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Em cũng xin gửi lời chân thành đến Quý thầy cô Phòng Sau Đại học,
Khoa Triết học - Trường Đại học sư phạm Hà Nội và các Quý thầy cô thỉnh
giảng đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, thực
hiện đề tài.
Cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình, tất cả
bạn bè, đồng nghiệp, đã luôn quan tâm, khích lệ và chia sẻ với em trong suốt

thời gian học tập, nghiên cứu.
Cần Thơ, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Đô


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN
THƠ HIỆN NAY

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản

7
7
7

1.1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao

14

1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng

cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay

23

1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để
hội nhập quốc tế

23

1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực
phát triển kinh tế - xã hội

24

1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay
Kết luận chƣơng 1

26
34

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN
THƠ HIỆN NAY

35

2.1. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở
thành phố Cần Thơ hiện nay


35

2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu trong
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành
phố Cần Thơ hiện nay

35


2.1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân trong công tác đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao của Thành phố Cần Thơ

52

2.2. Quan điểm chỉ đạo và những giải pháp phát triển nguồn
nhân lực chất lƣợng cao ở Thành phố Cần Thơ hiện nay

56

2.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Cần Thơ về
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

56

2.2.2. Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở thành phố Cần Thơ

59

Kết luận chƣơng 2


69

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của sự phát triển văn minh văn hóa nhân loại, vấn đề
con người và tương lai của con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, đặc biệt là
khoa học xã hội nhân văn, nhưng chỉ có triết học mới nhận thức con người
một cách toàn diện trong tính chỉnh thể của nó.
Tư tưởng về con người của triết học Mác - Lênin được hình thành trên
cơ sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Từ đó, triết
học Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của
con người. Trong tư tưởng khoa học và cách mạng ấy, con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao cả,
thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển con người.
Trên bình diện thực tiễn, lợi thế so sánh sự phát triển của một quốc gia
đang chuyển nhanh dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ
sang lợi thế về trình độ trí tuệ, chuyên môn cao của người lao động. Nguồn

nhân lực trở thành tài sản quý giá và là yếu tố có vai trò quyết định đến sự
tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này được
minh chứng qua sự thành công của mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật,
Singapore và một số nước khác. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm đến sự phát triển và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở tất cả các cấp,
các ngành và vùng miền của đất nước để phục vụ cho công cuộc phát triển đất
nước trong thời gian tới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và tại các Hội nghị Trung
ương của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững… Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện


2

đời sống nhân dân; phát triển văn hóa, giáo dục. Nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cao và đồng bộ; kết hợp đào tạo kiến thức, kĩ
năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức nhằm hình thành một đội
ngũ lao động giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; có tác phong công nghiệp, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cáo; có ý thức phấn đấu vì sự phồn vinh của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chỉ những con người như vậy mới đáp
ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong xu thế đổi mới đất nước, thành phố Cần Thơ tuy có điều kiện tự
nhiên và con người có nhiều tiềm năng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, song cũng có không ít những khó khăn trên bước đường phát triển. Vấn đề
đặt ra là thành phố phải có chủ trương chính sách phù hợp, nhằm phát huy cao
độ nguồn lực con người để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Cần Thơ phấn đấu trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của nhân tố con người trong
quá trình phát triển đất nước nói chung cũng như ở thành phố Cần Thơ nói

riêng, trên cơ sở nhận thức sâu sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
thành phố Cần Thơ hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu
- Nhóm đề tài nghiên cứu về con người
Con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu đóng
vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội và là chủ thể hoạt động
của quá trình lịch sử. Vấn đề con người được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau như:
N.M.Beredơnôi, “Vấn đề con người trong các tác phẩm của C.Mác”.
D.M.Kakabátde, “Con người với tư cách một vấn đề triết học”.


3

Viện Triết học Việt Nam, (1978), “Về vấn đề con người và xây dựng
con người mới”, Giáo sư Phạm Như Cương chủ biên.
Công trình khoa học cấp nhà nước KX-07, (1991 - 1995), “Con người
Việt Nam- mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội”, GS-TS. Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm.
Phạm Minh Hạc, (2001), "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Trọng Dung (2011), "Khái niệm nguồn lực con người”, Tạp chí
giáo dục lý luận, số 1.
Những công trình nghiên cứu trên tập trung khai thác vấn đề con
người theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin và con người Việt Nam trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội một cách tổng thể ở nhiều góc độ, nhưng
chưa làm rõ vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao và do nguyên nhân khách
quan nên không thể cập nhật những thông tin về nguồn nhân lực hiện nay.



Nhóm đề tài nghiên cứu về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực

chất lượng cao
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.
Nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng l;à
nguồn lực quan trọng nhất và quyết định cho sự thành công của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu sâu về vấn đề này, đã có
nhiều công trình của nhiều tác giả như:
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Huy
động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Văn Khái (1995), Nguồn lực con người, yếu tố quyết định sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Nxb. Giáo dục.
Các tác phẩm của tác giả Phạm Minh Hạc như “Văn hóa và giáo dục Giáo dục và văn hóa”, Nxb Giáo dục, (năm 2001), “Nghiên cứu con người và


4

nguồn nhân lực”, Nxb Chính trị quốc gia (2004), “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực”, Nxb Khoa học xã hội, (2004).
Đường Vinh Sường, (12/4/2012), “Giáo dục đào tạo với phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản.
Những đề tài nghiên cứu trên đã đưa ra những phân tích, luận giải về
vấn đề nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời cũng đưa
ra một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của các
công trình trên là trên phạm vi toàn quốc, mang tính khái quát chung của các
tỉnh, thành trên cả nước.



Nhóm đề tài nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở

thành phố Cần Thơ hiện nay
Nghiên cứu về vấn đề nhân lực ở thành phố Cần Thơ, hai đề tài của
tác giả Nguyễn Tấn Quyên là “Thành phố Cần Thơ trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” và “Xây dựng thành phố Cần Thơ thành thành
phố cấp quốc gia văn minh, hiện đại” đã nêu lên những nguồn lực trong
quá trình phát triển thành phố Cần Thơ trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, trong đó chú trọng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nói chung và của thành phố
Cần Thơ nói riêng. Bên cạnh đó, các báo cáo tổng kết về tình hình lao động
việc làm, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động,… của các ban ngành địa phương
cũng cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề nguồn nhân lực ở
thành phố Cần Thơ hiện nay.
Thông qua việc chọn lọc và kế thừa những kết quả nghiên cứu trên,
luận văn của tôi nghiên cứu, làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay và phân tích những phương hướng
đã được đề ra, từ đó đề xuất một số giải pháp cho vấn đề trên.


5

3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố
Cần Thơ hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
4. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn
hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Đề tài nghiên cứu này nhằm chứng minh những giả thuyết khoa học sau:
- Nguồn nhân lực với 3 yếu tố quan trọng nhất là trí lực, thể lực và
nhân cách giữ vai trò quyết định sự vận động và phát triển của xã hội.
- Các yếu tố tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực như: trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, trình độ phát triển khoa học,
công nghệ, kế hoạch phát triển dân số, trình độ phát triển y tế và dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, chính sách vĩ mô của nhà nước,… có quan hệ chặt chẽ, biện
chứng với nhau, tạo thành động lực và thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích lý luận về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao và yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
- Khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành
phố Cần Thơ hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở thành phố Cần Thơ hiện nay.


6

7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao chủ yếu là ở thành phố Cần Thơ. Trong đó, việc khảo sát thực trạng

để nhận thức những thành tựu, những hạn chế việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ được tập trung giai đoạn 2010 - 2016.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương
pháp: Phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, gắn với lý luận với thực tiễn để
thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 4 tiết.
10. Các luận điểm cơ bản và đóng góp mới
10.1. Các luận điểm cơ bản
- Cần Thơ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao nhưng thực tiễn cho thấy lực lượng này vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố hiện nay.
- Thành phố Cần Thơ cần kết hợp và vận dụng linh hoạt những giải
pháp phù hợp như: Đẩy mạnh phát triển kinh tế; Đổi mới giáo dục; Hoàn
thiện hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực; Nâng cao hiệu
quả công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực thì sẽ đạt được hiệu quả cao
trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Cần Thơ
hiện nay.
10.2. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Về lý luận: Làm sâu sắc thêm lý luận về phát triển nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Về thực tiễn: Làm tài liệu tham khảo, nâng cao hiểu biết về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là ở thành phố Cần Thơ hiện nay.


7


Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƢỢNG CAO Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là một khái niệm được hình
thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là
nguồn lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần có quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng tham gia vào quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội, nhưng mức độ tác
động và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội không giống
nhau. Trong tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người là quan trọng nhất
vì nó tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội. Bởi vì phải thông qua hoạt động của con người thì các
nguồn lực khác mới có thể phát huy được tác dụng, mới có thể biến tiềm năng
thành hiện thực. Chính con người đã phát hiện và sáng tạo ra những nguồn
lực mới, phát triển và phát huy ra nguồn lực tinh thần và sử dụng nó để phục
vụ con người. Hiện nay, khi nói về khái niệm nguồn nhân lực (nguồn lực con
người) thì có nhiều quan niệm khác nhau:
Theo lý luận Mác- Lênin về con người, thì nguồn nhân lực được xem
xét như một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, là phương tiện để
phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được coi như nhu cầu tất yếu cùng
với các nguồn lực khác cho sự phát triển đất nước. Đầu tư cho con người càng
nhiều, càng có hiệu quả và thu hồi vốn khá cao so với đầu tư vào các lĩnh vực
khác, cho nên hầu hết các nước trên thế giới đều chú trọng áp dụng phương
pháp này để phát triển kinh tế - xã hội.


8


Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu khái niệm nguồn lực con người
hay nguồn nhân lực như sau: “Nguồn lực con người là người lao động có trí
tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và
phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với nền khoa học, công nghệ
hiện đại” [34, tr.09].
Theo tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank) cho rằng: “Nguồn nhân
lực được hiểu là toàn bộ tiềm năng về vốn người bao gồm: thể lực, trí lực, tâm
lực mà mỗi cá nhân sở hữu” [47, tr.231].
Tổ chức Liên hiệp quốc (UNESCO) thì cho rằng: “Nguồn nhân lực là tất
cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con
người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và đất nước” [47, tr.08].
Ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng tương đối rộng rãi.
Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ điển Tiếng
Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con người”. Dù vậy, các nhà
khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau khi bàn về
nguồn nhân lực , về nguồn nhân lực.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội quan niệm: Nguồn nhân lực là
tiềm năng về lao động trong một thời kì xác định của một quốc gia, suy rộng
ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng. Đây
là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế- xã hội. Theo quan điểm
này, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận
dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội.
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ
các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định:
“Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với
truyền thống của dân tộc ta” [41, tr.37].



9

Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [42, tr.328].
Giáo sư Tiến sĩ Lê Du Phong cho rằng: “Nguồn lực con người được
hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con
người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động của con người. Tính
thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn
con người” [28, tr.14].
Phó Giáo sư Tiến sĩ Đoàn Văn Khái cho rằng: “Nguồn nhân lực là khái
niệm dùng chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả
các đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [40, tr.62].
Như vậy ta thấy, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã có nhiều
quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cho dù có quan niệm
khác nhau, song giữa các quan niệm này cũng có điểm chung thống nhất đó
là: hầu hết các tác giả đều xem Nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng
và năng lực của con người được huy động vào trong quá trình lao động sản
xuất và phát triển của một quốc gia hay một địa phương.
Khi xem xét cấu trúc nguồn nhân lực trước hết phải tính đến phương
diện cá thể của nó gồm 3 yếu tố: thể lực, trí tuệ và nhân cách. Ba yếu tố này
cấu thành chất lượng cá thể của nguồn nhân lực và nó ảnh hưởng đến chất
lượng phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, trí lực thể hiện ở trình độ dân trí,
trình độ chuyên môn là yếu tố trí tuệ, tinh thần là cái nói lên tiềm lực sáng tạo
ra các giá trị vật chất, văn hóa tinh thần của con người, vì thế, đóng vai trò
quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực.
Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ có sức mạnh cơ
bắp, mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt là sức mạnh niềm
tin và ý chí là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết



10

để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để truyền tải tri thức vào
hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh
trí tuệ chỉ có thể được phát huy được lợi thế khi thể lực con người được phát
triển. Nói cách khác, trí tuệ là tài sản quý nhất trong mọi tài sản nhưng chính
sức khỏe là một tiền đề để làm ra tài sản đó.
Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực không thể không nói đến nhân cách,
thẩm mỹ, quan điểm sống. Đó là sự thể hiện nét văn hóa của người lao động,
được kết tinh từ một loạt các giá trị đạo đức, tác phong, tính tự chủ và năng
động, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc, khả năng hội nhập với
môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc và các tri thức khác về giá trị của cuộc sống.
Trong mối quan hệ với các yếu tố khác cấu thành nguồn nhân lực, trình độ
phát triển nguồn nhân lực, đạo đức đóng vai trò quan trọng vì nó đem lại cho
con người khả năng thực hiện tốt hơn các chức năng xã hội và nâng cao năng
lực sang tạo của họ trong hoạt động thực tiễn. Và như Hồ Chí Minh đã nói:
Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có
đức là người vô dụng. Bởi vì sẽ không đầy đủ khi nói đến nguồn nhân lực mà
không đề cập đến sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: trí lực, thể lực và nhân
cách thẩm mỹ. Vì nó là điều kiện tạo nên sức mạnh trong mỗi con người,
cộng đồng và cũng là hướng để người lao động đến sự phát triển toàn diện.
Đây là nguồn nội lực cực kì quan trọng của mỗi quốc gia để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới đất nước; cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội là đội ngũ những người lao động biết
làm chủ và sáng tạo khoa học - công nghệ. Do đó, việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực chính là tăng cường các yếu tố cấu thành và khả năng của
năng lực thể chất và tinh thần đó trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội, đặc
biệt là năng lực tinh thần, trí tuệ của nguồn nhân lực.
Dựa theo những quan niệm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của

đề tài, có thể hiểu: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của


11

một quốc gia, một địa phương với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ
tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác
phong lao động... đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia.
Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và có thể đưa chất lượng
nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để
sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, hòa nhập với trình độ phát
triển của nhân loại.
- Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao
C.Mác và V.I.Lênin mặc dù không đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực
chất lượng cao nhưng đã nêu ra những quan niệm có liên quan đến nguồn nhân
lực chất lượng cao. Để nhấn mạnh đến tính hiệu quả và năng lực ứng dụng
những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, C.Mác đề cập đến "những
con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh
chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn” [15, tr.474], hay đưa ra quan
niệm nhân tài để chỉ nguồn nhân lực chất lượng cao “nhân tài tuyệt nhiên không
phải chỉ là một số ít, những nhân vật nhân tài, nhân vật vĩ đại mà các nhân tài
chuyên môn và công nhân, nông dân tiên tiến đều là nhân tài” [15, tr.28].
V.I.Lênin quan niệm rằng: Lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất
lượng cao là giai cấp công nhân, đó là “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn
nhân loại” [17, tr.430]. Họ là những người có trình độ lao động cao, có tính
kỷ luật, tinh thần tự giác và mang lại năng suất lao động cao.
Trong Từ điển Tiếng Việt cũng như từ điển Bách khoa Việt Nam hay
các từ điển khác, cho đến nay vẫn chưa thấy đề cập đến thuật ngữ nguồn nhân
lực chất lượng cao, mặc dù trong thực tế thuật ngữ này đã được sử dụng khá

phổ biến, rộng rãi.
Ở Việt Nam, thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao chính thức được
nêu ra trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X: “Thông qua việc đổi mới toàn


12

diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng
nền giáo dục Việt Nam” [37, tr.34], có thể nói đây là lần đầu tiên thuật ngữ
nguồn nhân lực chất lượng cao đã xuất hiện trong Văn kiện của Đảng. Điều
này thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Đảng mới về chiến lược phát
triển con người, đồng thời cũng là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất và những tiêu chí
cơ bản để xác định thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội thì có những
quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đề cập đến nguồn nhân lực chất lượng cao, C.Mác nêu quan niệm nhân
tài. Theo C. Mác: nhân tài tuyệt nhiên không phải chỉ là một số ít, những nhân
vật nhân tài, nhân vật vĩ đại mà các nhân tài chuyên môn và công nhân, nông
dân tiên tiến đều là nhân tài [16, tr.28]. Còn V.I.Lênin cho rằng: Chính giai
cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi,
công nhân là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất [16, tr.43].
Thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao tuy mới được Đảng ta sử
dụng trong Văn kiện từ năm 2006, nhưng các nhà khoa học của Việt Nam
cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao và đã
đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều góc độ khác nhau.
Khi nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, Phó
Giáo sư Tiến sĩ Bùi Thị Ngọc Lan đã có khẳng định: “Nguồn nhân lực chất
lượng cao là bộ phận tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Lực lượng này có

trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; có kỹ năng lao động giỏi và có
khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ sản
xuất; có phẩm chất tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức
những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [45, tr.12].


13

Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn nhân lực chất lượng
cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp
nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào
điều kiện nước ta, là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa hiện đại hóa được mở rộng theo kiểu vết dầu loang bằng cách dẫn dắt những bộ
phận có trình độ và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh” [42, tr.147-148].
Bên cạnh những quan niệm nêu trên, còn có những thuật ngữ khác nói về
nguồn nhân lực chất lượng cao mang nghĩa gần gũi thường hay được sử dụng
như khi nói về người lao động có đào tạo, có trình độ, có chất lượng, trong lĩnh
vực sản xuất có hiệu quả cao. Những thuật ngữ thường gặp như: thuật ngữ
chuyên gia, nghệ nhân, công nhân lành nghề; nhà chuyên môn, bác học, nhà
khoa học, chuyên gia.
Từ những cách tiếp cận trên cho thấy, khi đề cập đến thuật ngữ nguồn
nhân lực chất lượng cao có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ
phận ưu việt của nguồn nhân lực. Đó là nguồn lực lao động có khả năng đáp
ứng nhu cầu cao và có phương pháp tối ưu trong việc giải quyết vấn đề của
thực tiễn. Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có
khả năng nhận thức, tiếp thu nhanh kiến thức mới; biết vận dụng sáng tạo tri
thức, kỹ năng được đào tạo và những thành tựu khoa học - công nghệ vào lao
động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Mặt khác,
đây còn là lực lượng lao động có tác phong nghề nghiệp, tính kỷ luật cao, có
tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, có ý chí tự lập, tự cường và có phẩm chất

đạo đức tốt.
Tóm lại, Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng công nhân kỹ
thuật lành nghề, đội ngũ trí thức, các nhà khoa học kỹ thuật với trình độ
chuyên môn cao và những nông dân giỏi có khả năng ứng dụng những thành
tựu của khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất để đem lại hiệu


14

quả kinh tế cao. Nhìn chung, họ là những người vừa có trình độ học vấn, vừa
có trình độ tay nghề, đặc biệt, lao động có chất lượng và hiệu quả và biết sáng
tạo trong lao động sản xuất.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật có khẳng
định phát triển là phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
V.I. lênin cho rằng: để có tri thức đúng về sự vật, bản thân sự vật phải được
xem xét trong những quan hệ nó và trong sự phát triển của nó. Trên ý nghĩa
đó nguồn nhân lực chất lượng cao cần được xem xét trong sự vận động theo
khuynh hướng đi lên. Tức thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
được xem xét với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng.
Ở Việt Nam hiện nay, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn
đề quan trọng, vừa mang tính cơ bản, vừa có tính cấp bách. Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao được hiểu là những hoạt động đầu tư nhằm tạo ra
nguồn nhân lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá
nhân sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Đề cập đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải nói đến
những nội dung quan trọng đó là phát triển số lượng, phát triển về chất lượng
cũng như việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của nguồn nhân lực.

Phát triển về số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là sự gia tăng về
số lượng và thay đổi cơ cấu của đội ngũ nhân lực theo hướng phù hợp với môi
trường và điều kiện hoạt động mới. Sự thay đổi này diễn ra theo cơ cấu phân
bố nhân lực, cơ cấu độ tuổi, và cơ cấu về nam nữ.
Phát triển về chất lượng của nguồn nhân lực chất lượng cao là sự nâng
cao về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và sức khỏe của các


15

thành viên trong tổ chức, trong xã hội. Chỉ số phát triển con người được xem
thang đo sự phát triển nguồn nhân lực giữa các quốc gia trên thế giới.
Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao còn được xem xét qua
việc người lao động sử dụng tri thức vào trong quá trình lao động để đạt hiệu
quả cao nhất.
Để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thì cần phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, và khi phát triển nguồn nhân lực này cần chú
ý đến những điều kiện như về chủ thể nguồn nhân lực, các yếu tố bên ngoài
chủ thể đang tác động đến chủ thể nguồn nhân lực đó như công tác tổ chức,
đào tạo, yếu tố văn hóa - xã hội và cùng với các chính sách của nhà nước. Về
chủ thể nguồn nhân lực đó là trình độ kiến thức, năng lực, kỹ năng, sự sáng
tạo... của chủ thể nguồn nhân lực. Chủ thể nguồn nhân lực có động lực, có
hứng thú với việc nâng cao trình độ, kỹ năng của mình chắc chắn sẽ ảnh
hưởng tốt tới việc học tập và rèn luyện các kỹ năng cũng như nâng cao trình
độ chuyên môn. Khả năng phát triển của người lao động được thể hiện thông
qua việc người đó có thể được tiếp tục phát triển các kỹ năng, năng lực cũng
như có thể mở rộng tầm kiến thức về công việc của tổ chức hay không. Về
những yếu tố bên ngoài chủ thể nguồn nhân như: công tác đào tạo, về tổ chức
và về văn hóa- xã hội.
Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực chính là việc thực hiện các chức

năng và công cụ quản lý nhằm có được một đội ngũ nhân lực phù hợp về mặt
số lượng và có chất lượng cao, và thông qua hoạt động của nguồn nhân lực đó
để không ngừng nâng cao hiệu quả và sự phát triển bền vững của xã hội. Về
nội dung phát triển nguồn nhân lực bao gồm các chức năng công việc của
quản lý nguồn nhân lực với mục đích phát triển nhân lực, đó là thu hút và
tuyển dụng nhân sự; bổ nhiệm và sử dụng nhân sự; khích lệ, duy trì nhân sự;
đào tạo và phát triển nhân sự.


16

1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay, luôn chăm lo phát triển
nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng ta xác định rất rõ rằng: con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì, mục tiêu của
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước suy cho cùng là phải hướng tới
phục vụ con người, vì con người và giải phóng con người.
Chính vì lẽ đó, trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) Đảng ta
khẳng định: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các
nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội” [33, tr.98].
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, vấn đề phát triển
nguồn nhân lực càng được Đảng ta chú trọng, coi đây là động lực chính tạo
nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững

của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì
thế, muốn phát triển đất nước bền vững không thể không chăm lo phát triển
con người. Đảng ta xác định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển”. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí
tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Đại hội VIII nêu rõ: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa” [34, tr.102].


17

Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, thực hiện chiến
lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Trung ương Đảng đã ban hành
nhiều nghị quyết về các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 khẳng định: “Lấy
việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” [34, tr.203]. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những
thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Nghị quyết xác định: phát triển nguồn nhân lực phải là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội được thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong
đó giáo dục và đào tạo là then chốt, là quốc sách hàng đầu; phát triển giáo dục,
đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công
nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh...Chú trọng phát triển nguồn lực con
người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…Những
quan điểm, chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính
sách, chương trình, dự án nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.

Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng
nêu rõ: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa”, đồng thời
khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn
diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình
phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại;
từng bước phát triển kinh tế tri thức” [36, tr.96].
Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; tập trung đổi mới


18

toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục để phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng cao… với các giải pháp cụ thể: quản lý quá trình phát triển
dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội;
đổi mới phương thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn
nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản
xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) của Đảng đã
xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó khẳng định: “Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Đại hội xác định:
“gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ”. Để thực hiện chiến lược này, Đảng ta đưa ra nhiều giải
pháp: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt”; “xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm

vóc con người Việt Nam” [38, tr.201].
Đảng ta nêu rõ 4 định hướng chiến lược về phát triển nguồn nhân lực
trong thời kỳ hội nhập: gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội; gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình
dân chủ hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị
văn hóa truyền thống và hiện đại; nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ
khoa học, công nghệ; có chiến lược phát triển con người trên cơ sở một hệ
thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề này sẽ tạo được yếu tố nội sinh
của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập. Trong đó,
một trong vấn đề then chốt được Đảng nêu ra là: “Đổi mới chính sách đào tạo,
sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt


19

Nam ở nước ngoài” [36, tr.98]. Nghị quyết khẳng định: Việt Nam chỉ có thể
đi tắt đón đầu sự phát triển trên thế giới trong thời kỳ hội nhập bằng cách đầu
tư vào yếu tố con người.
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân
lực từ các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [38, tr.122]. Để đạt
được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó
“Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai” [38, tr.141]. Đây được xem là
khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay
khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học,
công nghệ.
Vì thế, Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời cũng xác
định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và

ứng dụng khoa học, công nghệ” [38, tr.89]. Đây chính là nội dung quan trọng
thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta
trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI cũng nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược
phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách
con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về
nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam” [38, tr.92].
Thông qua các Đại hội, Đảng ta đã đưa định hướng chiến lược về phát
triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con


×