Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của người thái trắng ở huyện mộc châu, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 110 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
------

LƯỜNG VĂN TÀI

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG Ở HUYỆN MỘC CHÂU,
TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
------

LƯỜNG VĂN TÀI

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG Ở HUYỆN MỘC CHÂU,
TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành
Mã số

: Triế t ho ̣c
: 60.22.03.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HƯƠNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Lường Văn Tài


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Lê Thị Hương Người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Đồng thời, em gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Cảm ơn gia đình, cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên,
khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt luận
văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Lường Văn Tài



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn ............................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn ............. Error! Bookmark not defined.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 7
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 8
8. Phương pháp nghiên cứu luận văn ................................................................ 8
9. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8
10. Các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ................................ 8
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG Ở HUYỆN
MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA ...................................................................... 10
1.1. Cơ sở lý luận của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người
Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La .................................................. 10
1.1.1. Quan điểm về văn hóa ........................................................................... 10
1.1.2. Quan điểm về giá trị văn hóa ................................................................ 17
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La ........................................ 21
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu 21
1.2.2. Những giá trị văn hóa đặc sắc của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu,
tỉnh Sơn La.................................................................................................................... 23
1.2.2.1. Điều kiện nảy sinh và tồn tại văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La......................................................................................................... 23
1.2.2.2. Văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La...... 27



1.3. Tính tất yếu của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Thái
Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La............................................................... 43
Tiểu kết chương 1............................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI THÁI TRẮNG Ở HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA HIỆN
NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP..................................................... 51
2.1. Thực trạng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người
Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La .................................................. 51
2.1.1. Thực trạng hoạt động của cơ quan Nhà nước và một số ngành chức
năng đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số,
trong đó có người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu ......................................... 51
2.1.2. Sự biến đổi của các giá trị văn hóa người Thái Trắng ở huyện Mộc
Châu hiện nay .................................................................................................. 54
2.1.3 Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La hiện nay............ 67
2.1.4. Nguyên nhân của thực trạng ................................................................. 70
2.1.4.1. Nguyên nhân khách quan ................................................................... 70
2.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan ....................................................................... 74
2.2. Một số định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La hiện nay ......................... 77
2.2.1. Một số định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La ................................. 77
2.2.1.1. Giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội ở
huyện Mộc Châu với việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc ....... 77
2.2.1.2. Bảo đảm sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa truyền thống và hiện đại
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở
huyện Mộc Châu ............................................................................................. 79


2.2.1.3. Có thái độ khách quan, khoa học, tôn trọng lịch sử khi đề ra và thực hiện

các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa người Thái Trắng ở huyện
Mộc Châu......................................................................................................... 80
2.2.1.4. Luôn coi trọng vai trò điều tiết của Đảng và Nhà nước trong công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu,
tỉnh Sơn La ...................................................................................................... 82
2.2.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La hiện nay…………………………………….....……………………………….. 82

2.2.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, xây dựng cơ sở vật chất
cho văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu hiện nay ................... 82
2.2.2.2. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động
văn hóa ............................................................................................................ 83
2.2.2.3. Nâng cao trình độ dân trí cho người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh
Sơn La .............................................................................................................. 85
2.2.2.4. Tăng cường vai trò quản lý văn hóa của các cơ quan chức năng gắn
liền với xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao làm công tác văn hóa ........ 87
2.2.2.5. Nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong cộng
đồng người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La ............................... 89
Tiểu kết chương 2............................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI
THÁI TRẮNG Ở HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, bất kỳ dân tộc nào cũng có
quá trình lịch sử phát triển riêng của mình, đồng thời sản sinh ra giá trị văn
hóa dân tộc và chính giá trị văn hóa đó đã làm nên diện mạo, cốt cách riêng

của mỗi dân tộc để tạo nên sự phong phú đa dạng nền văn hóa chung của
nhân loại. Muốn giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thì mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời
phải biết bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; sử
dụng những thành quả kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học - công nghệ hiện
đại cho việc đẩy mạnh sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Bởi vì, chỉ có một
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mới đảm bảo cho một quốc gia,
một dân tộc có sự phát triển bền vững. Nhận thức được vai trò quan trọng của
văn hóa. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
nhấn mạnh quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Mộc Châu được coi là huyện cửa ngõ của tỉnh Sơn La nói riêng và của
Tây Bắc nói chung; là nơi nối liền giữa Tây bắc với Hòa Bình và Hà Nội vào
vùng kinh tế - xã hội trọng điểm của Bắc Bộ. Đây là nơi đang bảo tồn nhiều
nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc như: H’Mông, Dao, Khơ mú, Thái, LaHa,
Mường,... Trong đó có giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của người Thái
Trắng.
Văn hóa truyền thống của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu được
hình thành từ lâu đời và đã trở thành bộ phận không thể tách rời của văn hóa
vùng Tây Bắc, được thể hiện ở kiến trúc nhà ở, ẩm thực, trang phục, lễ hội,
phong tục tập quán… Trong quá trình tồn tại và phát triển, trải qua những
biến cố, thăng trầm của lịch sử, văn hóa truyền thống của người Thái Trắng
1


ngày càng được chắt lọc, tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo mang tính
nhân văn sâu sắc. Những giá trị văn hóa ấy đã góp phần phát triển đời sống,
kinh tế - xã hội của huyện.
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của tỉnh Ủy tỉnh Sơn La, vấn đề

phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trên
địa bàn tỉnh có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới thì vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân
tộc trong đó có văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu là vấn đề
đặt ra và cần được giải quyết.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, Mộc Châu không chỉ phát triển về kinh
tế, giáo dục, chính trị mà còn gắn liền với sự phát triển văn hóa của các dân
tộc trong đó có văn hóa của người Thái Trắng. Vì vậy, để Mộc Châu ngày
càng phát triển bền vững thì việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
người Thái Trắng là một vấn đề cần thiết. Với những nghĩa trên, việc nghiên
cứu về Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở
huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về cả phương
diện lý luận và phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Văn hóa đang là một vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Dân tộc học, văn hóa học,
chính trị học, lịch sử, văn hóa. Dưới góc độ triết học bàn về văn hóa có thể
khái quát lại các hướng nghiên cứu sau:
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu về văn hóa dưới góc độ bản sắc văn hóa có các
công trình:
Công trình nghiên cứu “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận” của
Lê Ngọc Trà, Nhà xuất bản Văn hóa thể thao, Hà Nội, 2003, tác phẩm khái quát
các nền văn hóa đặc trưng của từng vùng miền, đã đưa ra nhiều nhận định sâu sắc
2


về vấn đề văn hóa và tầm ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam trong giao lưu, hội nhập, phát triển đất nước.
Công trình nghiên cứu “Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt

Nam” của Ngô Đức Thịnh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1993, tác phẩm
đã nêu những lên những căn cứ phân vùng văn hóa, đặc điểm văn hóa của
các vùng. Ngoài ra công trình nghiên cứu này còn đem lại cái nhìn tổng quát
về bản sắc văn hóa của 54 dân tộc ở Việt Nam, những nét văn hóa đặc trưng
tiêu biểu nhất. Qua đó giúp chúng ta phân biệt một cách rõ ràng về văn hóa
của từng dân tộc.
Công trình nghiên cứu về “Văn hóa và phát triển” của Đỗ Huy, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, đã xác định được vấn đề văn hóa
với tư cách là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Điều này có ý nghĩa rất lớn
với những người có nhu cầu nghiên cứu và tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn
hóa và phát triển kinh tế. Từ những quan điểm của tác giả, ta có thể phân tích
vai trò của văn hóa trong sự phát triển kinh tế chung.
Công trình nghiên cứu “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc,
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tác giả đi vào phân tích và
làm sáng tỏ khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và mối quan hệ
giữa các không gian văn hóa. Từ đó đi đến khẳng định: văn hóa nào cũng cần
phải có sự giao tiếp để phát triển.
Công trình nghiên cứu “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc
Vượng, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1998, đã giới thiệu các quan niệm về văn
hóa và các đặc điểm của văn hóa Việt Nam trong quá trình tiếp biến văn hóa
nhân loại. Qua đó, khẳng định sự giao lưu văn hóa, cần phải có chính sách
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Cuốn“Văn hóa bản sắc văn hóa dân tộc” của Hồ Bá Thâm, Nhà xuất
bảnVăn hóa thông tin. Hà Nội, 2012, đã làm rõ bản chất, đặc trưng của văn
hóa và bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời chỉ ra những thách thức, khó khăn
3


trong điều kiện giữ gìn, phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay trước sự tác
động của kinh tế thị trường.

Ngoài ra, khi nghiên cứu về “Văn hóa Việt Nam trên con đường giải
phóng, đổi mới hội nhập và phát triển” của Đỗ Huy, Nhà xuất bản Thông tin
- Truyền thông, 2013, đã trình bày hành trình của quá trình giải phóng, đổi
mới và dự báo về bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập và đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển văn hóa.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có thể kể
đến:
Tác phẩm “Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số” của Lò Giàng
Páo, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997, đã nêu lên được những
nét văn hóa vùng của dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc H’Mông ở tỉnh
Tuyên Quang.
Công trình nghiên cứu “Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, của
Ngô Văn Lệ, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998, đã tập trung khai thác
những đặc điểm hình thành và những đặc trưng của bản sắc dân tộc thiểu số
từ đó đưa ra cái nhìn mới về bản sắc dân tộc trước những tác động của kinh
tế thị trường.
Ngoài ra có thể kể đến “Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ hiện nay” của Đinh Thị
Hoa. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2006, luận văn đã phân tích sâu sắc về văn hóa dân tộc Mường qua
các giá trị vật chất và giá trị tinh thần dước góc độ triết học.
Thứ ba, nhóm nghiên cứu về văn hóa người Thái có thể kể đến:
Công trình nghiên cứu “Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam” của
Cầm Trọng, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1995, phân tích về lịch sử
hình thành và phát triển văn hóa của người Thái thông qua sự so sánh với văn
hóa các dân tộc khác.
4


Công trình nghiên cứu “Văn hóa Thái ở Việt Nam”, Cầm Trọng - Phan

Hữu Dật, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995, đã đi sâu làm rõ
những phong tục, tập quán của người Thái, những nét văn hóa cơ bản về văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần như tín ngưỡng tôn giáo, quan hệ gia đình,
quan niệm về tình yêu, hôn nhân… từ đó khẳng định những giá trị văn hóa
của người Thái trong quá trình phát triển của văn hóa dân tộc.
Công trình nghiên cứu “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam”,
của Cầm Trọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, đã phân tích
sâu sắc về các khía cạnh trong đời sống văn hóa tinh thần của người Thái ở
Tây Bắc. Chỉ ra vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng
Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
Công trình nghiên cứu “Luật tục Thái ở Việt Nam” của Cầm Trọng Ngô Đức Thịnh, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999, tập trung
phân tích phong tục tập quán, luật lệ của bản mường trong việc thực hiện các
lễ nghi cưới hỏi, tang ma, cúng bái… tác phẩm cũng chỉ ra những tiến bộ và
lạc hậu của các luật tục đó, sự ảnh hưởng của chúng trong đời sống xã hội.
Công trình nghiên cứu “Vài nét về người Thái ở Sơn La”, Vì Trọng
Liên, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002, đã phân tích về phong
cách sinh sống, ăn mặc, giao tiếp, lao động của người Thái ở tỉnh Sơn La.
Chỉ ra những tiếp biến của nó dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường.
Đồng thời cũng chỉ ra các giải pháp để giữ gìn nét văn hóa tiến bộ và độc
đáo.
Ngoài ra còn khá nhiều bài viết về văn hóa của người Thái đăng trên các
báo, tạp chí, báo điện tử.
Thứ tư, nhóm nghiên cứu về các giải pháp nhằm tiếp tục phát triển nền
văn hóa dân tộc:
Công trình nghiên cứu “Luật tục Thái ở Việt Nam” của Cầm Trọng Ngô Đức Thanh, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999, trên cơ sở
5


những hủ tục và tiến bộ, các tác giả đã nêu ra những biện pháp nhằm phát huy
những mặt tiến bộ của luật tục trong đời sống xã hội người Thái.

Công trình nghiên cứu “Sản phẩm du lịch văn hóa và văn hóa quản lý du
lịch ở Việt Nam” của Trịnh Lê Anh, Tạp chí Văn hóa học, số 06, 2016, đã đi sâu
phân tích vai trò của văn hóa đối với du lịch và những giải pháp quản lý, phát
triển văn hóa qua đó phát triển du lịch.
Công trình nghiên cứu “Sức mạnh nội sinh và yêu cầu hoạt động văn
hóa dân tộc thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Chí Bền, Tạp chí Văn hóa học, số
02/2016, đã chỉ ra những giải pháp nhằm phát triển nền văn hóa dân tộc trong
xu thế hội nhập kinh tế - văn hóa xã hội hiện nay.
Công trình nghiên cứu “Văn hóa và chính sách văn hóa góp phần phát
triển nông thôn mới” của Lê Ngọc Thắng, Tạp chí Văn hóa học, số 03/2016,
đã làm rõ giá trị của văn hóa đối với quá trình xây dựng nông thôn mới, qua
đó khẳng định vai trò của chính sách văn hóa cũng như những giải pháp thiết
thực góp phần phát triển nông thôn mới trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Qua việc phân tích các hướng nghiên cứu nêu trên cho thấy, các công
trình nghiên cứu đã tập trung đi vào phân tích và làm rõ các vấn đề: Về khái
niệm văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giá trị văn hóa các dân tộc;
những nét văn hóa của người Thái ở vùng Tây Bắc như ma chay, cưới xin, ẩm
thực, những luật tục văn hóa của người Thái ở vùng Tây Bắc nói chung và ở
tỉnh Sơn La nói riêng. Các tác giả cũng tập trung phân tích những tiếp biến
văn hóa khi có sự tác động của kinh tế thị trường, trong thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Qua đó các tác giả đề ra những giải pháp nhằm không
ngừng phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân trong xu
thế hội nhập quốc tế.
Mặc dù vậy, trong tất cả các công trình nghiên cứu được khái quát nêu
trên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích các giá trị văn hóa
6


của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Cũng chưa có công
trình nghiên cứu nào nêu ra những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị

văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La trong giai
đoạn hiện nay.
Tuy nhiên kết quả của các nhà nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo hết
sức quý báu cho tác giả luận văn kế thừa khi thực hiện đề tài “Bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La”.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, luận văn nếu ra một số
định hướng, giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu
Người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- Đối tượng nghiên cứu
Các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La.
5. Giả thuyết khoa học
Thực hiện được việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người
Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La hiện nay nhằm góp phần làm
phát triển kinh tế - xã hội của huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Một là: Phân tích và làm rõ giá trị văn hóa và tính tất yếu khách quan
của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở
huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
7


Hai là: Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy các giá

trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Ba là: Nêu ra một số định hướng và giải pháp cơ bản, nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh
Sơn La.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, từ năm 2006 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử. Các phương pháp cơ bản: logic
và lịch sử, diễn dịch và quy nạp, phân tích và tổng hợp và các phương pháp
cụ thể, cùng với các phương pháp liên ngành khác.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
10. Các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
* Các luận điểm cơ bản của luận văn:
Giá trị văn hóa của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La là tài sản vô giá cần bảo tồn và phát huy trong quá trình phát triển của
huyện Mộc Châu nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung.
* Đóng góp mới của luận văn:
- Về mặt lí luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, phân tích và hệ thống hóa các giá trị
văn hóa của người Thái Trắng dưới góc độ triết học. Qua đó đưa ra những
giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

8



- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa, Dân tộc học,…
ở các trường, làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và
quản lí văn hóa ở huyện Mộc Châu và tỉnh Sơn La.

9


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGƯỜI THÁI TRẮNG
Ở HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
1.1. Cơ sở lý luận của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của người Thái Trắng ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
1.1.1. Quan điểm về văn hóa
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội và
trên thế giới. Hiện nay, có hàng trăm cách định nghĩa khác nhau về văn hóa
nhưng về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng
tạo, để hình thành nên các giá tri ̣ các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao
động, hoạt động thực tiễn. Các chuẩn mực đó tác động chi phối, điều chỉnh
đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự
hiện diện của con người.
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại (xuất
phát từ gốc chữ Latinh “Cultura” - có nghĩa là trồng trọt, canh tác). Cho đến
nay có rất nhiều cách tiếp cận văn hoá theo những quan điểm khác nhau như
cách tiếp cận sinh thái học, chức năng luận với các lý thuyết vị chủng, tương
đối.
Trong tư tưởng của triết học Mácxít nói tới văn hóa là nói tới con người,
nói tới sự biểu hiện của phương thức tồn tại người. Bản chất của văn hóa
được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của con người và xã

hội.
Trước hết văn hóa là do con người làm nên, thuộc về con người, những
gì không do con người làm nên không thuộc về văn hóa. Từ đó, văn hóa là
đặc trưng cơ bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí
cơ bản để phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hóa xuất
hiện một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hóa
10


cũng là sản phẩm của sự thích nghi ấy. Do vậy, trình độ phát triển của văn
hóa phụ thuộc vào trình độ nhận thức và sức sáng tạo của con người trong quá
trình hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn hóa ra khỏi đời sống của con
người thì văn hóa chẳng còn ý nghĩa gì cả. C.Mác đã từng cho rằng: “con
người sản xuất là một thực thể song trùng thống nhất giữa cái tự nhiên và cái
xã hội. Con người dù là sản phẩm tự nhiên hay là kết quả của quá trình tiến
hóa lâu dài của giới hữu sinh đều phải tuân theo quy luật vốn có của tự
nhiên… Song con người không phải là động vật thuần túy như các động vật
khác mà xét trên khía cạnh xã hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang
bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi
xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định
về mặt xã hội tạo nên con người. Con người chỉ có thể tồn tại được khi tiến
hành lao động sản xuất của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình và
chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức.
Lao động là nguồn gốc duy nhất của văn hóa vật chất và tinh thần”. [6,
tr.196].
Con người là sản phẩm của tự nhiên. Quá trình cải biến tự nhiên, con
người cũng tạo ra lịch sử cho mình. Con người không những là sản phẩ m của
xã hội mà con người còn là chủ thể cải tạo làm cho nó trở thành giới tự nhiên
thứ hai, giới tự nhiên của chính mình, đồng thời qua đó cải biến chính bản
thân mình - Đó chính là văn hóa. C.Mác viết: “Cố nhiên, con vật cũng sản

xuất... Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần
đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách
toàn diện; con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp,
còn con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc, và
chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thì con người mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính;con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, thế còn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [6, tr.137].
11


Văn hóa là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người nhằm cải biến
tự nhiên - xã hội bắt đầu từ lao động. Điều này thể hiện, trong giới tự nhiên
chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với tư cách là chủ thể của bản
thân mình, làm chủ giới tự nhiên, hòa vào giới tự nhiên nguyên sơ, để tạo nên
một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa mãn những nhu cầu, ham muốn chinh
phục tự nhiên, xã hội... của bản thân con người - Đó là văn hóa. C.Mác cho
rằng, xét đến cùng, văn hóa có nguồn gốc từ lao động. Chính lao động đã
sáng tạo ra con người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng
thoát ra khỏi bản năng động vật, tiến dần đến trình độ trưởng thành về nhân
cách, trình độ trưởng thành về văn hóa của mỗi cá nhân. Văn hóa thể hiện sự
thích nghi một cách sáng tạo của con người với tự nhiên, phù hợp với các giá
trị chân - thiện - mỹ.
Như vậy, theo C.Mác, văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở
hình thành và phát triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này
chính là mức độ hình thành và phát triển bản chất người trong quá trình con
người chinh phục và biến đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa người với
cộng đồng, mà bao trùm là quan hệ đời sống tinh thần và không gian sống vật
chất của con người và của xã hội loài người.
Phát triển tư tưởng của C.Mác trong trong điều kiện xã hội mới về lĩnh
vực văn hóa, V.I.Lênin cho rằng: Nền văn hóa vô sản có khả năng phát triển

toàn diện năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có
phê phán các giá tri ̣văn hóa của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm
cao mới, mang đậm chất liệu văn hóa bản chất con người, V.I.Lênin viết:
“Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải do
những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản bi ̣a đặt ra,... văn
hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người
đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, đi ̣a chủ và của xã hội quan liêu”
[53, tr.402].
12


Quan điểm nêu trên đã góp phần khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng
tạo của quần chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách
mạng vô sản - cách mạng văn hóa. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để
con người và xã hội loài người khỏi những áp bức bất công cả trong lao động
cũng như trong mọi hoạt động sáng tạo của họ. Lênin cũng chỉ ra rằng, chỉ có
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thì con người mới
có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trình độ làm chủ của mình
trước tự nhiên, xã hội và ngay cả trước bản thân mình. Từ đó, con người và xã
hội loài người mới có điều kiện xây dựng và phát triển sự công bằng, bình
đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu chí: chân, thiện, mỹ... mới được xác lập và
hoàn thiện, hoạt động sáng tạo của con người mới có đầy đủ điều kiện đạt tới
trình độ nhân văn đích thực. Có thể nói một cách bao quát: Tất cả những gì có
quan hệ với con người (con người với tư cách cá nhân và cộng đồng) với mọi
cách thức tồn tại của nó đều là biểu hiện của văn hóa.
Qua trên cho thấy, triết học Mác - Lênin đã có nhiều kiến giải sâu sắc về
văn hóa, đã khẳng định con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của quá
trình phát triển văn hóa. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã tạo ra
thế giới văn hóa đồng thời tạo ra chính bản thân mình phát triển năng lực tiềm
tàng của bản thân. Văn hóa gắn với năng lực sáng tạo của con người và sự

sáng tạo đó bắt nguồn từ lao động hay chính là sự thăng hoa của sản xuất vật
chất, hành vi trên của con người là văn hóa, các vật phẩm do con người làm ra
đều mang dấu ấn của con người và đến lượt nó có tác động trở lại bồi đắp tính
người.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, phát triển
truyền thống văn hóa dân tộc trong điều kiện mới Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các
13


phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [27, tr.431].
Điều này cho thấy Hồ Chí Minh đã khái quát được nội dung rộng lớn
của phạm trù văn hoá, chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh
thần của con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất.
Người cũng chỉ ra nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hoá, đó chính là nhu
cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã
hội. Cùng đó là nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách là chủ thể hoạt
động của đời sống xã hội - một hoạt động khác hẳn với hoạt động sinh tồn
bầy đàn của các loài động vật.
Văn hóa là quá trình biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu tố
xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người. Nó
bao chứa trong đó nội dung: văn hóa là sự phát triển tự thân và tất yếu, mang
tính xã hội cao, do nhu cầu tồn tại của con người, văn hóa là phương thức
hoạt động và không ngừng nâng cao phương thức theo tiến triển xã hội,… Từ
các mặt đó, vai trò sáng tạo và giá trị nhân văn đã trở thành cốt lõi của văn

hóa. Văn hóa phải gắn với nhân văn, nhân đạo.
Trong quan điểm của Đảng ta, văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời
sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân
tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa dân
tộc và văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Tính dân tộc là nội dung
quan trọng luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu. Quan điểm của Đảng về
văn hóa luôn khẳng định trong suốt quá trình tiến hành cuộc cách mạng tư
tưởng văn hoá, xây dựng và phát triển đất nước. Tại Hội nghị Trung ương 5
khoá VIII quan điểm đó được cụ thể hoá trong nghị quyết “Xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Gần đây tại
14


Đại hội IX, một lần nữa khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã
hội” [12, tr.114].
Giáo sư Federieco Mayor - Cựu Tổng giám đốc Tổ chức giáo dục khoa
học và văn hóa của Liên hợp quốc, đã khẳng định trong lễ phát động “Thập
niên thế giới phát triển văn hóa” tại Pháp (21/10/1998), rằng: “Văn hóa phản
ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của
mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra
trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá
trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc riêng của mình” [50, tr.23]. Theo ông văn hóa là cội nguồn trực
tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội.
Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động
lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa là những gì còn lại sau những chu trình
lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với
nhau. Thông qua mỗi chu kỳ của sự phát triển, các dân tộc đó tương tác với
mình và với những dân tộc khác cái còn lại được gọi là bản sắc. Theo cách

tiếp cận này, văn hóa là cái bản sắc để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của
văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà nghiên
cứu Hoàng Vinh trong cuốn “Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới”
đã cho rằng: “Văn hóa là toàn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong
quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của
cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc
riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và
một hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy” [55,
tr.43].
15


Nghiên cứu về văn hóa, Đinh Quang trong cuốn “Nhận thức và xử lý vẫn
đề văn hóa trên thế giới” cho rằng: “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng
thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ,
là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con
người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình” [32,
tr.13-14].
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch
sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho
con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến
con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi
là văn hóa.
Trong thực tế, văn hóa vật chất và tinh thần luôn gắn bó mật thiết với
nhau và có thể chuyển hóa cho nhau, không phải ngẫu nhiên mà C.Mác nói
rằng “Tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật chất khi nó được quần
chúng hiểu rõ”. Đôi khi, chúng ta không thể phân chia văn hóa một cách rạch
ròi thành “văn hóa vật chất” hay “văn hóa tinh thần”. Bởi vì, cái gọi là “văn

hóa vật chất” thực chất chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, bản thân
các giá trị tinh thần cũng hiếm khi tồn tại dưới dạng tinh thần thuần túy, mà
nó thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại của vật chất. Ngay cả các
giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể nhưng vẫn mang tính vật chất
khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối
sống, phong tục, tập quán... khi tiếp cận vấn đề văn hóa cần phải xét văn hóa
dưới dạng cấu trúc hoàn chỉnh. Dù là văn hoá vật chất hay văn hoá tinh thần
cũng đều là sản phẩ m trực tiếp hay gián tiếp của con người, do con người
sáng tạo ra vì mục đích của cuộc sống [7, tr.302]
Trên cho thấy văn hóa là sản phẩ m của con người, văn hóa được tạo ra
và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song chính văn
hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người và duy trì sự bền vững và trật tự
16


xã hội. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra. Vì vậy,
nói tới văn hóa là nói tới con người, phát huy năng lực bản chất của con
người. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng vươn tới cái “chân”,
“thiện”, “mỹ”. Đó là ba cột trụ vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại.
Có thể nói, văn hóa là sự hóa thân vào đời sống nó thấm vào mọi hoạt động
của con người và trở thành thước đo trình độ phát triển của xã hội, quốc gia
nhân loại.
Kế thừa và khái quát các quan điểm nêu trên, Văn hóa là tổng thể các
giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo ra trong
quá trình hoạt động thực tiễn được tích lũy, bảo tồn và phát triển trong suốt
chiều dài lịch sử, theo đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
1.1.2. Quan điểm về giá trị văn hóa
Giá trị là phạm trù riêng có của loài người, liên quan đến lợi ích vật chất

cũng như tinh thần của con người. Bản chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là
tính nhân văn. Chức năng cơ bản nhất của giá trị là định hướng, đánh giá và
điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Giá trị gắn liền với nhu
cầu con người. Nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính nhu cầu là động cơ thúc đẩy
mạnh mẽ hành động của con người, giúp con người tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần.
Theo C.Mác, “Giá trị văn hóa trước hết là một một phạm trù triết học,
chỉ sự đánh giá những thành quả lao động sáng tạo vật chất và tinh thần của
con người. Nó có tác dụng định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động
của xã hội nhằm vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp, thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội” [7, tr.261].

17


Bản chất đặc trưng của giá trị văn hoá là chiều cạnh trí tuệ, năng lực
sáng tạo, khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của cá nhân, cộng
đồng, dân tộc như: các hoạt động ăn, ở, mặc, đi lại, giao tiếp xã hội, phong
tục tập quán, tín ngưỡng…
Mục đích của giá trị văn hoá là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản,
hướng tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân nói riêng và của cả cộng đồng, dân
tộc nói chung, mặc dù tiêu chuẩn của các giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng,
dân tộc là không như nhau. Tính mục đích đó của giá trị văn hoá được thể
hiện ở ngay trong quá trình sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Có thể nói, giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di
truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó đã
tích luỹ và lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình
hoạt động đó đã hình thành nên bản sắc văn hoá riêng của mỗi cộng đồng, dân
tộc. Vì vậy, các giá tị văn hoá tồn tại và phát triển trong mỗi cộng đồng, dân

tộc nhất định. Cộng đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố
dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hoá.
Giá trị văn hoá còn mang tính khách quan, tức là không phụ thuộc vào
bất cứ cái gì từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành văn hoá của một cộng đồng,
dân tộc. Nếu căn cứ vào nền văn hoá của một cộng đồng, dân tộc nào đó để
xem xét, đánh giá các nền văn hoá của các cộng đồng, dân tộc khác là cao hay
thấp, phát triển hay kém phát triển thì sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, rơi
vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn hoá.
Trong xã hội có giai cấp, giá trị văn hoá cũng mang tính giai cấp. Bởi lẽ,
văn hoá, về thực chất là sản phẩm của một cộng đồng, dân tộc nhất định do
những thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc ấy tạo ra, và họ chịu dưới sự
thống trị của một giai cấp thống trị nhất định - giai cấp lãnh đạo toàn thể xã
hội, cho nên mọi sản phẩm của họ làm ra nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị.

18


×