Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN TẤN RẠNG

N¢NG CAO N¡NG LùC QU¶N Lý CHO C¸N Bé CHñ
CHèT ë

TØNH AN GIANG HIÖN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Cư


2

Bản đồ hành chính tỉnh An Giang


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thứ nhất, những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế
toàn cầu hóa đang diễn ra một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt
Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh
tế thị trường là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm
tòi, sáng tạo của cá nhân luôn được khuyến khích. Chính điều này đòi hỏi mỗi


người phải học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản thân. Kinh tế thị trường cũng
rất nghiêm khắc đào thải những trì trệ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và các sản
phẩm yếu kém về nội dung cũng như hình thức. Về phương diện đạo đức, lối sống,
sự ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường từng bước hình thành nhân cách tự
chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng
động, thích nghi, sáng tạo. Và những phẩm chất đạo đức về ý chí, lòng dũng cảm,
nghĩa vụ, tính nguyên tắc và tự trọng ở mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Mặt
khác, trong kinh tế thị trường phải đề phòng khuynh hướng, lối sống chạy theo
đồng tiền. Kinh tế thị trường có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị
trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng
đồng, có khuynh hướng làm cho người ta coi giá trị thị trường là giá trị chân thực
duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Do đó, kinh tế thị trường với những ưu điểm
và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần, đến
việc nâng cao năng lực quản lý của người cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ chủ
chốt tỉnh An Giang nói riêng.
Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới nhằm mục tiêu sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền
tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Muốn thực hiện được mục tiêu này, cần huy động và sử dụng hiệu quả
mọi nguồn lực của đất nước. Trong đó, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến


4

vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ chủ chốt
tỉnh An Giang nói riêng. Đảng ta nhận định: Chúng ta phải coi trọng công tác xây
dựng và nâng cao năng lực cán bộ, đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng cán bộ
lãnh đạo cấp cao.
Thứ ba, quản lý nhà nước là một hoạt động phức tạp, Nhà nước là cơ quan
quyền lực của quốc gia. Quản lý nhà nước chính là quyền được ra các quyết định về

quản lý xã hội và quyền quyết định những vấn đề phát triển đất nước, phát triển xã
hội, phát triển con người. Vì vậy, đòi hỏi nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ
chốt ở tỉnh An Giang vừa mang tính khách quan tất yếu cũng là yêu cầu của thời
đại. Ngày nay, đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự
do, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đòi hỏi cán bộ chủ chốt phải nỗ lực
phấn đấu đem hết tài năng, sức lực phục vụ Tổ quốc. Bộ máy nhà nước trong sạch
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Muốn vậy phải có một đội ngũ cán bộ công
chức có trình độ cao, có phẩm chất chính trị vững vàng, năng động sáng tạo, có khả
năng hội nhập cao. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là yêu cầu sống
còn của mọi cơ quan, tổ chức nhà nước và là mối quan tâm hàng đầu của Đảng,
Nhà nước ta. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, hiện nay có một số
cán bộ chủ chốt nói chung, cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang nói riêng chưa đáp ứng
được yêu cầu của xã hội, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy,
nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang là một vấn đề hết
sức quan trọng và cấp thiết.
Thứ tư, An Giang thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long với diện tích
3536.7 km², Phía Đông và Phía Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp gần 107,628 km², đứng
thứ 4 trong khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long về diện tích (sau tỉnh Kiên
Giang, Cà Mau và Long An), phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới
dài gần 100 km, Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang với đường biên giới
khoảng 69,789 km về phía Đông Nam, giáp thành phố Cần Thơ với chiều dài


5

đường biên giới gần 44,734 km. Với vị trí đó, An Giang nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt, gồm mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ
trung bình hàng năm khoảng 27 độ C, lượng mưa trung bình năm khoảng
1.130 mm. Độ ẩm trung bình 75 - 80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp. Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh là 2.151.000 người, mật độ

dân số 608 người/km². Đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long. Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm
5,17% tổng dân số toàn tỉnh. Đứng trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập, Đảng bộ và
nhân dân tỉnh An Giang đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao năng lực tổ chức
quản lý cho cán bộ chủ chốt. Nhưng trong các chủ trương, chính sách của Đảng và
chính quyền địa phương cũng gặp nhiều thuận lợi và thách thức trong việc nâng cao
năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt. Điều này thôi thúc tôi đi sâu nghiên cứu vấn
đề trên.
Với những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao năng lực quản
lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, những đề tài nghiên cứu về năng lực, năng lực quản lý của cán
bộ và cán bộ chủ chốt
Trong những năm gần đây, đã có nhiều những công trình nghiên cứu về
công tác của cán bộ, năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt. Các nghiên cứu đề cập
về vấn đề này ở cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, các không gian và thời gian
khác nhau. Trong đó, có nhiều công trình những đóng góp, kiến giải sâu sắc, giá trị
thực tiễn cao. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Phú Trọng,


6

Trần Xuân Sầm (chủ biên), đã nghiên cứu và đưa ra những kết luận tổng hợp thành
công trình. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề về lý luận và phương
pháp cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đồng thời, nhóm tác giả còn có
sự công phu trong việc phân tích và nhìn lại những kinh nghiệm về xây dựng đội
ngũ cán bộ của nước ta và các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề nâng cao

năng lực quản lý cho cán bộ lại chưa được đề cập một cách sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay của Bùi Khắc
Hằng, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị (2004). Trong bài viết, tác giả đã làm rõ
vai trò, vị trí, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ đối với việc
nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay. Đồng thời, trên cơ sở đó, luận văn cũng đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ này.
Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ của Phạm Thị Thu Vinh, luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước, 2003, Hà
Nội. Công trình đã khái quát thực trạng và chỉ ra tầm quan trọng việc nâng cao năng
lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở
chỉ ra thực trạng và tìm ra nguyên nhân, tác giả luận văn cũng đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay của Nguyễn Thị Hậu, luận văn thạc sĩ luật (2004), Hà Nội. Tác giả
công trình đã nghiên cứu và chỉ ra khái quát, khách quan thực trạng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Phú Thọ hiện nay. Trên cơ sở đó, người viết làm rõ tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp
xã và đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm làm tốt công tác này.
Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ CNHHĐH đất nước của Phạm Minh Hạc, Tạp chí Lao động - Xã hội, số 215, năm 2003.


7

Tác giả đã làm rõ hiện trạng của nguồn nhân lực nước ta và sự cần thiết của việc
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.
Kết hợp giáo dục lý luận với giáo dục lý tưởng đạo đức cho sinh viên hiện
nay của Nguyễn Ngọc Thu, Tạp chí Cộng sản số 92 năm 2005. Tác giả bài viết đã

đánh giá một cách khách quan những giá trị và hạn chế của nền kinh tế thị trường.
Đồng thời, chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho sinh viên.
Trên cơ sở đó, người viết đề xuất những giải pháp quan trọng nhằm thực hiện công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên bằng việc kết hợp lý luận và giáo dục.
Xây dựng lối sống văn hoá cho thanh niên hiện nay của Nguyễn Thị Mỹ
Trang, Tạp chí Cộng sản số 06 năm 2006. Bài viết đã chỉ ra một cách khách quan,
trung thực thực trạng lối sống của thanh niên hiện nay. Trên cơ sở đó, để xây dựng
nếp sống có văn hóa cho thanh niên, người viết đã đề xuất những giải pháp cụ thể,
thiết thực và có ý nghĩa.
Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, của
Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3 năm 2007. Bài viết đã chỉ rõ tính quy
luật, tính tất yếu của sự cần thiết phải xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới cho con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu thời đại mới. Thông qua việc phân
tích, người viết khẳng định cần xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới cho
con người mới - con người xã hội xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con
người Việt Nam của tác giả Cao Thị Hằng, luận án tiến sĩ năm 2001. Luận án góp
phần làm sáng tỏ vai trò của đạo đức truyền thống trong sự hình thành và phát triển
nhân cách. Đồng thời, cũng làm rõ những thực trạng kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp để kế thừa các giá trị đạo đức trong xây dựng nhân cách
con người Việt Nam được tốt hơn.


8

Quan hệ biện chứng giữa thống nhất và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Việt Nam hiện nay của Lê Thị Hoài Thanh, luận án tiến sĩ, 2003, Hà
Nội. Luận án đã làm rõ mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát
triển đạo đức, vận động mối quan hệ này vào hoạt động giáo dục đạo đức cho thanh

niên, trên cơ sở đó, đề xuất một số hướng và giải pháp chủ yếu kết hợp truyền thống
và hiện đại nhằm xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam của
Lê Thị Ngân, luận án tiến sĩ kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004. Nghiên cứu đã khái quát lý luận về nguồn nhân
lực, các yếu tố cấu thành nguồn nhân lực và vai trò của nó trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn, tiếp cận kinh
kinh tế tri thức để hệ thống hóa thành hệ thống lý luận.
Thứ hai, những nghiên cứu về nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ
chốt ở tỉnh An Giang
Trong những năm qua, tỉnh An Giang rất quan tâm tới vấn đề nâng cao năng
lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nhiều chỉ thị, quy định được ban hành và
nhiều kỳ cuộc được tổ chức hiệu quả nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ
chủ chốt. Ngày 28-9-2016, huyện Phú Tân phối hợp với Trường Chính trị Tôn Đức
Thắng tổ chức Hội thảo khoa học đóng góp đề tài Xây dựng phong cách làm việc
cho đội ngũ cán bộ ở cấp xã, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang giai đoạn hiện nay. Đề
tài đã làm rõ tính cấp thiết của việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán
bộ cấp xã ở huyện Phú Tân, phương hướng và các giải pháp thực hiện nhằm đem
lại hiệu quả công tác này.
Ngày 05-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg
về Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang đăng toàn văn Chỉ thị, đồng thời nghiêm túc
hướng dẫn cán bộ cấp cơ sở nội dung của chỉ thị này.


9

Huyện Tân Châu phát động Hưởng ứng tuần lễ học tập suốt đời. Trong đó,
có các hoạt động cụ thể, các cơ sở giáo dục thu thập nguồn tài nguyên điện tử, sách,
báo... làm tư liệu cho việc dạy và học. Sáng ngày 30/9/2016, Thủ tướng Chính Phủ

Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về triển khai chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Dự điểm cầu An
Giang có Bí thư Tỉnh ủy Võ Thị Ánh Xuân; Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
Lâm Quang Thi, cùng thành viên Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới tỉnh, các huyện, thị, thành phố, xã, phường…
Những tài liệu trên đã nghiên cứu về năng lực, năng lực quản lý và nâng cao
năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở nhiều góc độ, đối tượng khác nhau. Đây là
nguồn tư liệu quý báu để tác giả có cơ sở nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào
nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang
trong bối cảnh toàn cầu hóa một cách hệ thống, chuyên sâu, độc lập và đưa ra giải
pháp thiết thực. Đây thực sự là một vấn đề cấp thiết và có giá trị lý luận cũng như
giá trị thực tiễn, đòi hỏi phải nghiên cứu và làm rõ trên cơ sở triết học.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực
quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, cần đề xuất
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt đáp ứng yêu
cầu thực tiễn ở tỉnh An Giang.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt ở tỉnh An
Giang.
Đối tượng nghiên cứu là nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở
tỉnh An Giang hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu


10

- Làm rõ một số khái niệm công cụ, như: cán bộ, cán bộ chủ chốt, năng lực,
năng lực quản lý...
- Đánh giá tầm quan trọng và mục tiêu cụ thể của việc nâng cao năng lực

quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng của việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ
chốt tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
- Nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán
bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay một cách hiệu quả.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ
chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay (tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI,
năm 1986 cho đến nay).
7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản, như:
phương pháp phân tích, tổng hợp; lôgic, lịch sử; khái quát hoá; thống kê... để thực
hiện mục đích và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương 6 tiết.
9. Đóng góp mới của tác giả
- Luận văn đã phân tích làm rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực
quản lý cho cán bộ chủ chốt tỉnh An Giang.


11

- Luận văn đánh giá trung thực, khách quan thực trạng năng lực quản lý và
việc nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang hiện nay với
hai góc nhìn: thành tựu và hạn chế.
- Luận văn mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng
lực quản lý cho cán bộ chủ chốt ở tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay một cách

hiệu quả.
- Luận văn là tài liệu phục vụ cho những người nghiên cứu về phát triển năng
lực cho cán bộ, về Nhân học, về lịch sử tư tưởng...


12

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
NĂNG LỰC QUẢN LÝ CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở
TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt
Khái niệm cán bộ
Từ “cán bộ” được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong từng giai đoạn lịch
sử.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, từ “cán bộ” được dùng nhiều trong quân
đội để phân biệt giữa chiến sĩ với cán bộ. Nó dùng để chỉ một lớp những người là
chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hi sinh, gắn bó với
Nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Lúc này,
từ “cán bộ” được dùng để chỉ những người chỉ huy từ cấp phó trở lên. Dần dần, từ
cán bộ được dùng để chỉ những người hoạt động kháng chiến thoát li để phân biệt
với nhân dân.
Ngày nay, khái niệm cán bộ có thể hiểu theo:
Thứ nhất, trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ “cán bộ” được dùng với hai
nghĩa: một là, những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến
trung ương để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên và hội viên; hai là, những
người làm công tác chuyên trách, có biên chế và được hưởng lương trong các tổ
chức đảng, đoàn thể.
Thứ hai, trong quân đội, để chỉ những người chỉ huy từ tiểu đội trở lên và sĩ

quan từ cấp úy trở lên.
Thứ ba, trong hệ thống nhà nước, từ “cán bộ” được hiểu cơ bản giống như
công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước, thuộc ngành hành


13

chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa - xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là
những người có chức vụ chỉ huy, lãnh đạo.
Ngày 13-01-2008, tại kỳ họp Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ,
công chức, có hiệu lực từ ngày 01-01-2010. Tại khoản 1 điều 4 quy định: Cán bộ là
những người công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, thành phố trực thuộc Trung ương, ở tỉnh,
huyện, quận, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Như vậy, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về từ cán bộ, tuy nhiên, về cơ bản,
ta có thể có quan niệm như sau: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ,
vai trò, cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần
định hướng sự phát triển của tổ chức. Họ là những người trong biên chế nhà nước,
làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước, các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương
và cơ sở.
Khái niệm cán bộ chủ chốt
Khái niệm “cán bộ chủ chốt” là những người có chức vụ, nắm giữ các vị trí
quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc bộ máy của một cấp
nhất định, người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản
lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm
trước cấp trên về lĩnh vực công tác được giao.

Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định
trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác đề ra những


14

quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp trên và cấp nơi công tác.
Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, bổ sung,
điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết, đúc kết kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn là những
người tạo dựng và duy trì sự đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng
Nhân dân, thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững
mạnh. Có thể nói, đây là lực lượng nòng cốt nhất trong đội ngũ cán bộ, là nhân tố
quan trọng nhất ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Hai là, khi xác định cán bộ chủ chốt cần đặt cán bộ trong một tổ chức nhất
định, dựa vào các chức trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong toàn bộ hệ thống tổ
chức cụ thể. Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu, quan trọng nhất
trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội, có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nơi họ phụ trách.
Ba là, đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay bao gồm: Bí thư cấp ủy, Chủ tịch hội
đồng nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân, Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân
sự, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội nông dân,
Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh các cấp.
1.1.1.2. Vai trò, vị trí của cán bộ chủ chốt
Vai trò của cán bộ chủ chốt
Luận bàn về vai trò của cán bộ lãnh đạo, C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu
tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ. Hai ông đưa ra quan điểm muốn thực

hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn.
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho phong trào
cách mạng, có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết vận dụng lý luận cách mạng


15

với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng, lãnh đạo quần
chúng thực hiện cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải là những người tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động, có trách
nhiệm cao, có sự tin tưởng của quần chúng Nhân dân và được quần chúng Nhân
dân noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của các nhà mácxít về Đảng của giai
cấp công nhân, V.I.Lênin đã đưa ra quan điểm quan trọng về cán bộ. Theo ông, vai
trò của quan trọng của đội ngũ cán bộ, trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thắng lợi
đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì, họ vừa là người xây dựng đường lối chính,
vừa tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá
trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Do vậy, Lênin cũng rất đề
cao vai trò rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn đề bạt cán bộ vào các cương vị
công tác, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò của người cán bộ chủ chốt được thể hiện
trong bốn mối quan hệ: cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức, cán bộ
với công việc và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của người, cán bộ không
chỉ là người vạch ra đường lối mà còn có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực
hiện đường lối. Người nói: “Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của
đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể
thực hiện được” [54, tr.54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng, nắm bắt
kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của Nhân dân với
Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân.

Người chỉ rõ: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ quần
chúng mà ra và phải trở lại nơi quần chúng [54, tr.290]. Người kết luận: “Muôn
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [54, tr.273]. Như vậy cán
bộ chủ chốt là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, là nhân tố quyết định


16

đến sự thành bại của cách mạng. Người yêu cầu mỗi cán bộ phải là người lãnh đạo,
dẫn dắt quần chúng Nhân dân thực hiện tốt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là người
tận tụy phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong di chúc, Người còn căn dặn Đảng ta rằng: mỗi đảng viên, cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành
của nhân dân.
Cán bộ chủ chốt là người giữ vị trí hết sức quan trọng đối với cơ quan tổ
chức. Cán bộ là thành viên, phần tử cấu thành tổ chức bộ máy. Cán bộ có quan hệ
mật thiết với tổ chức và quyết định mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu quả hoạt
động trong tổ chức bộ máy phụ thuộc vào cán bộ. Cán bộ tốt sẽ làm cho bộ máy
hoạt động nhịp nhàng, cán bộ kém sẽ làm cho bộ máy tê liệt, “cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu có dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” [54,Tr.54].
Vị trí của cán bộ chủ chốt:
Cán bộ chủ chốt vừa là người đại diện Nhà nước, vừa là người đại diện cộng
đồng, vừa là người dân, vừa là người gần gũi dân, sát dân nhất, cho nên họ là người
trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng Nhân dân để phản
ánh lên các cấp chính quyền nhằm điều chỉnh và đưa ra những chính sách đúng.
Trên thực tế, ở đâu mà cán bộ chủ chốt gần dân, hiểu dân, nắm bắt kịp thời tâm tư
nguyện vọng của Nhân dân thì ở đó các cấp chính quyền sẽ đề ra những chính sách
đúng đắn và hợp lý. Ngược lại, ở đâu mà cán bộ quan liêu xa dân, hách dịch, cửa

quyền thì sẽ đề ra những chính sách không hợp lý, thậm chí là sai lầm gây ảnh
hưởng nghiêm trọng.
Cán bộ chủ chốt còn là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho Nhân dân. Đồng thời vận động
nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách pháp luật đó trong cuộc sống. Cán bộ


17

chủ chốt còn là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu, những thắc mắc về lợi ích
chính đáng của Nhân dân, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong cộng đồng dân cư.
Hơn thế nữa, đây là đội ngũ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển, phồn thịnh của địa phương, từ đó, mở rộng ảnh hưởng đến toàn đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn chú trọng và đặc biệt quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng thời kỳ cách mạng, đó
chính là mọi nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam, của sự phát
triển và thịnh vượng của đất nước. Đảng ta xác định: “Phải có một đội ngũ cán bộ
đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, đó là vấn đề cốt
tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [11, tr.27]. Trong công cuộc
đổi mới, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh vai
trò của cán bộ trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Một địa
phương và mở rộng ra là đất nước có được phát triển, phồn thịnh hay không, một
phần quan trọng không thể thiếu được đó là cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt. Do
vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của
việc giáo dục đạo đức nói chung và đạo đức mới nói riêng cho cán bộ chủ chốt.
Như vậy, cán bộ chủ chốt là bộ phận quan trọng nhất trong bộ máy lãnh đạo,
giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của các cấp.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà
nước ta đã xác định nông nghiệp là lĩnh vực hàng đầu, là khâu đột phá, vì vậy, đội
ngũ cán bộ chủ chốt lại càng có vai trò quan trọng. Bởi vì, đây là đội ngũ giữ vai trò
là lực lượng chủ yếu nhất điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức ở các cấp, đồng
thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt có tầm quan trọng đặc biệt ở nhiều mặt và là một trong


18

những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của công cuộc đổi
mới và phát triển nông thôn mới ở các địa phương. Để có được thành công thì một
trong những yếu tố không thể thiếu, đó năng lực quản lý của người cán bộ. Do vậy,
việc nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt là một việc là thiết thực
và cần thiết hiện nay.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của cán bộ
chủ chốt.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc với cán bộ Tỉnh An Giang

1.1.2.1. Khái niệm năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt
Khái niệm năng lực
Năng lực được con người sử dụng ở nhiều phương diện, như: năng lực công
tác, năng lực sản xuất, năng lực quản lý điều hành...
Theo cuốn “Gốc và nghĩa của từ tiếng việt thông dụng” thì năng lực được
chia làm hai vế: Năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh. Năng lực được hiểu là sức
mạnh có thể làm nổi việc.


19


Theo từ điển Tiếng việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành thì năng
lực được hiểu là “khả năng làm việc tốt” [74].
Theo Đại từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin: năng lực hiểu
theo hai nghĩa: 1. Năng lực là những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì,
ví dụ: năng lực tư duy của con người; 2. Năng lực là khả năng để thực hiện tốt một
công việc, ví dụ: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức...
Tóm lại, có thể hiểu năng lực là khả năng của con người để thực hiện tốt
công việc hay làm việc có hiệu quả cao.
Khái niệm quản lý
Các Mác đã viết: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản sinh
từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [38,tr29,30]. Nhấn mạnh nội dung trên
ông chỉ rõ: “tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung... Một người độc
tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng [45,tr.480].
Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
một quá trình, căn cứ vào những quy định, định luật hay nguyên tắc tương ứng để
cho hệ thống, quy trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được
những mục đích đã định trước.
Quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều hành mang tính quyền lực
của Nhà nước. Điều chỉnh mang tính đại diện quyền lực Nhà nước, thông qua hoạt
động của bộ máy chính quyền bằng phương tiện, công cụ, cách thức tác động của
các cấp chính quyền đối với các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội theo đường lối, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.


20


Đặc điểm của quản lý:
+ Luôn mang tính quyền lực Nhà nước, tính tổ chức cao.
+ Là hoạt động có mục tiêu rõ ràng có chiến lược và kế hoạch để thực hiện
mục tiêu.
+ Là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều
hành.
+ Có tính liên tục và ổn định trong tổ chức và hoạt động trong quản lý hành
chính nhà nước.
+ Có tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao.
+ Có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là hệ thống thông suốt từ trên xuống
dưới.
+ Không có sự cách biệt về mặt xã hội giữa chủ thể và khách thể quản lý.
+ Phương thức thực hiện chủ yếu là hành chính, tuyên truyền, vận động,
thuyết phục.
+ Không vụ lợi.
+ Mang tính nhân đạo.
Khái niệm quản lý của cán bộ chủ chốt
Khái niệm năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt là khả năng của cán bộ chủ
chốt tiến hành quá trình tổ chức, điều hành chính quyền cấp cơ sở thực hiện chức
năng nhiệm vụ quản lý trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng ở cơ sở nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý cao.
Các nội dung quản lý của cán bộ chủ chốt
+ Quản lý hành chính nhà nước.
+ Quản lý về kinh tế - hành chính.
+ Quản lý về văn hóa - xã hội.


21


+ Quản lý về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội.
+ Quản lý về tư pháp - hộ tịch.
+ Quản lý về đất đai, địa giới hành chính.
+ Quản lý về dân tộc tôn giáo.
+ Quản lý về xây dựng, giao thông vận tải và môi trường.
Theo mục đích và tính chất công việc có thể phân loại năng lực quản lý nhà
nước của cán bộ chủ chốt như sau:
- Năng lực lãnh đạo quản lý.
- Năng lực quản lý kinh tế.
- Năng lực quản lý ngân sách tài chính.
- Năng lực quản lý địa chính.
- Năng lực quản lý tư pháp - hộ tịch.
- Năng lực quản lý văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục.
- Năng lực quản lý an ninh, quốc phòng.
1.1.2.2. Đặc điểm năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt
Xuất phát từ chức trách nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt, năng
lực quản lý của cán bộ chủ chốt được thể hiện ở từng đối tượng cụ thể:
Năng lực của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thể hiện:
+ Năng lực triệu tập chủ tọa các kỳ họp, năng lực chủ trì tham gia xây dựng
nghị quyết, năng lực giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của
hội đồng nhân dân.
+ Năng lực tiếp xúc cử tri, lấy ý kiến cử tri, tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm
tra giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân.


22

+ Năng lực quan hệ với đại biểu hội đồng nhân dân và phối hợp công tác
với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, năng lực báo cáo công tác với
các cơ quan hữu quan.

+ Năng lực chủ trì và phối hợp với ủy ban nhân dân trong việc quyết định
đưa ra bãi nhiệm đại biểu hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp.
Năng lực của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thể hiện:
+ Năng lực triệu tập, chủ tọa các phiên họp ủy ban nhân dân, năng lực
quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của chủ tịch, phó chủ tịch, tham gia quyết
định các vấn đề thuộc về thẩm quyền của ủy ban nhân dân, năng lực tổ chức chỉ
đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên, nghị quyết của hội đồng nhân dân và các quyết đinh của ủy ban nhân dân.
+ Năng lực tiếp dân, xét và giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của
công dân, năng lực giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể.
+ Năng lực áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều
hành bộ máy hành chính các cấp; năng lực trực tiếp quản lý, chỉ đạo thực hiện một
số nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Năng lực báo cáo công tác trước hội đồng
nhân dân cùng cấp và ủy ban nhân dân cấp trên.
+ Năng lực tổ chức quản lý điều hành hoạt động của trưởng, phó thôn, tổ
dân phố theo quy định của pháp luật.
Năng lực của cán bộ tài chính - kế toán
+ Năng lực xây dựng, thực hiện dự toán thu, chi ngân sách; quyết toán ngân
sách.
+ Năng lực thực hiện việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, tài sản
công tại cơ sở.


23

+ Năng lực tham mưu cho ủy ban nhân dân trong khai thác nguồn thu, thực
hiện các hoạt động tài chính ngân sách đúng quy định của pháp luật.
+ Năng lực kiểm tra các hoat động tài chính, ngân sách, năng lực thực hiện

chi tiền theo lệnh chi: thực hiện theo quy định về quản lý quỹ tiền mặt và giao dịch
với Kho bạc Nhà nước.
+ Năng lực báo cáo tài chính, ngân sách.
Năng lực của cán bộ tư pháp - hộ tịch
+ Năng lực giúp ủy ban nhân dân các cấp soạn thảo ban hành văn bản quản
lý; lấy ý kiến Nhân dân đối với dự án nợ, pháp lệnh; năng lực phổ biến, giáo dục
pháp luật trong Nhân dân.
+ Năng lực giúp ủy ban nhân dân chỉ đạo cộng đồng dân cư tự quản xây
dựng quê hương giàu mạnh.
+ Năng lực quản lý tủ sách pháp luật tổ chức phục vụ Nhân dân nghiên cứu
pháp luật, phối hợp hướng dẫn đối với tổ hòa giải.
+ Năng lực thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chứng thực
và thực hiện một số công việc về quốc tịch theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực quản lý lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp, thi hành biện pháp
giáo dục tại cơ quan làm việc theo sự phân công.
+ Năng lực giúp ủy ban nhân dân về công tác thi hành án theo nhiệm vụ cụ
thể được phân cấp.
+ Năng lực giúp ủy ban nhân dân thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về
quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực quản lý hồ sơ tài liệu, chế độ báo cáo công tác theo quy định.
Năng lực thực hiện các nhiệm vụ tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Năng lực của cán bộ địa chính xây dựng


24

+ Năng lực lập và quản lý hồ sơ địa chính ở các cấp phụ trách.
+ Năng lực giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai theo quy
định của pháp luật.
+ Năng lực tham gia xây dựng và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất; tiến hành kiểm kê thống kê đất đai. Năng lực tuyên truyền phổ
biến về chính sách pháp luật, đất đai cho Nhân dân.
+ Năng lực hòa giải tranh chấp đất đai, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo
của dân về đất đai để giúp ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết; năng lực
lãnh đạo phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai để kiến nghị uỷ ban
nhân dân cấp cơ sở xử lý.
+ Năng lực phối hợp với các cơ quan chuyên môn cấp trên trong việc đo
đạc, thiết lập bản đồ địa chính, bản đồ địa giới hành chính, giải quyết mặt bằng.
+ Năng lực tham mưu cho ủy ban nhân dân quản lý công tác xây dựng,
giám sát về kỹ thuật trong việc xây dựng các công trình phúc lợi ở địa phương.
Năng lực của cán bộ văn phòng - thống kế
+ Năng lực giúp cho ủy ban nhân dân xây dựng chương trình công tác, lịch
làm việc và theo dõi việc thực hiện chương trình, lịch làm việc đó; năng lực tổng
hợp báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, tham mưu giúp ủy ban nhân dân trong chỉ
đạo thực hiện.
+ Năng lực soạn thảo văn bản, năng lực quản lý văn bản lập hồ sơ lưu trữ,
lập biểu báo cáo thống kê, theo dõi biến động số lượng, chất lượng cán bộ chủ chốt.
+ Năng lực giúp cho hội đồng nhân dân tổ chúc kỳ họp, giúp cho ủy ban
nhân dân tổ chúc tiếp dân, tiếp khách, nhận đơn từ của nhân dân chuyển đến hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân hoặc lên cấp có thẩm quyền cao hơn.
+ Năng lực nhận và trả lời kết quả trong giao dịch công việc giữa ủy ban
nhân dân với cơ quan, tổ chức và công dân theo cơ chế “một cửa”.


25

Năng lực của công chức văn hóa - xã hội
+ Năng lực lập chương trình, kế hoạch công tác văn hóa, nghệ thuật, thông
tin tuyên truyền, thể dục thể thao, công tác lao động - thương binh - xã hội và năng
lực tổ chức chương trình kế hoạch đó.

+ Năng lực tuyên truyền giáo dục đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội tại nơi làm việc và đấu tranh chống âm
mưu tuyên truyền phá hoại của địch, báo cáo thông tin về dư luận quần chúng và
tình hình môi trường văn hóa ở địa phương lên chủ tịch ủy ban nhân dân.
+ Năng lực tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật, xây
dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa.
+ Năng lực thông tin dân số, lao động, tình hình việc làm, ngành nghề trên
địa bàn, số lượng người hưởng chính sách lao động - thương binh - xã hội.
+ Năng lực theo dõi và đôn đốc việc chi trả trợ cấp cho người hưởng chính
sách lao động - thương binh - xã hội.
+ Năng lực theo dõi thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.
+ Năng lực báo cáo công tác văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền, thể
dục thể thao, công tác lao động - thương binh - xã hội ở cơ sở.
Năng lực của cán bộ trưởng công an cấp cơ sở
+ Năng lực tổ chức lực lượng công an cơ sở, nắm chắc tình hình an ninh
trật tự trên địa bàn; tham mưu đề xuất về chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo đảm
an ninh trật tự trên địa bàn và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
+ Năng lực phối hợp với cơ quan, đoàn thể, tuyên truyền, phổ biến pháp
luật liên quan đến an ninh trật tự cho Nhân dân, hướng dẫn tổ chức quần chúng làm
công tác an ninh trật tự trên địa bàn quản lý.


×