Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hoá cho người dân của trung tâm VHTT TT thành phố móng cái, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tuyên truyền là một trong những hoạt động quan trọng của công tác tư
tưởng của Đảng, là động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của Đảng nhằm
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước tới cán bộ, đảng viên, và quần chúng nhân dân,
tạo nên sự thống nhất và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong xã hội,
cổ vũ quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng đề ra.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định công tác tuyên truyền đã và
đang đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, bồi đắp tư tưởng chính trị của cán bộ,
đảng viên trẻ. Đây là một trong những nội dung luôn được Đảng, Nhà nước và các
cơ quan đoàn thể quan tâm, chú trọng. Những năm qua, nhiều nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên trẻ đã được triển khai và đạt được
nhiều kết quả. Công tác tuyên truyền đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội và thông
qua các hoạt động thực tiễn sinh động, để giáo dục tinh thần tự giác học tập, tu
dưỡng, rèn luyện cho đảng viên trẻ phù hợp với lĩnh vực, công việc, chức trách,
nhiệm vụ của từng đảng viên. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, cán bộ, đảng
viên trẻ đã xây dựng tinh thần tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện nhằm nâng cao
phẩm chất, nhất là phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực, trình độ của bản thân
nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu, đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng. Tinh thần tự
giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên trẻ chỉ có kết quả tốt khi chính đội
ngũ này nhận thức đúng đắn những yêu cầu, chuẩn mực về phẩm chất chính trị,
phẩm chất trí tuệ, đạo đức, lối sống, năng lực công tác của người đảng viên và tự
nhận thức đúng về chính bản thân mình.
Kể từ năm 1986 trở lại đây, cùng với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng
cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về vai trò của văn hóa. Văn kiện
đại hội của Đảng thời kỳ đổi mới nhất quán khẳng định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển. Để hiện thực hóa vai
1



trò của văn hóa, một trong những nhiệm vụ được Đảng quan tâm đó là xây dựng
các chính sách văn hóa phù hợp.
Đại hội XI (2011) Đảng nhấn mạnh sự phát triển hài hòa giữa các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội: “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh
tế, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển là thể hiện rõ nhất của chế độ ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới,
lĩnh vực văn hóa đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn hóa góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tham gia tích cực vào sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh, tính tích cức của nhân dân tham gia vào các hoạt
động văn hóa đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” tạo nên sự chuyển biến bước đầu, là tiền đề quan trọng để văn hóa nước nhà
tiếp tục phát triển đúng hướng và chắc chắn. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam
đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt năm 2009. Các hoạt động như giữ gìn
và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, xây dựng, củng cố hệ thống thiết chế văn
hóa, phát triển văn chương nghệ thuật,…không ngừng được đẩy mạnh. Nhiều giá trị
văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành góp phần nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân. giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng, việc quảng
bá hình ảnh dân tộc và văn hóa Việt Nam ra nước ngoài được chú ý. Việc thể chế
hóa nghị quyết của Đảng được coi trọng, tạo hành lang pháp lý phù hợp và thông
thoáng cho nhân dân và đội ngũ tri thức, văn nghệ sĩ.
Cùng với sự phát triến kinh tế, thành phố Móng Cái luôn coi trọng phát
triển văn hóa và công tác tuyên truyền theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) của Đảng. Sau 15 năm triển khai thực hiện, công tác tuyên truyền
chính sách văn hóa tạo được sự chuyến biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được quan tâm đẩy
mạnh với nhiều hình thức đa dạng và từng bước nâng cao chất lượng, thu hút
2



được các tầng lớp nhân dân tham gia, gắn kết với thực hiện Chương trình xây
dựng nông thôn mới, phát huy vai trò là phong trào thi đua yêu nước rộng lớn, tác
động tích cực đến việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh. Mặc dù hoạt động tuyên truyền này đã được chú ý và phát triển
ở Quảng Ninh nói chung và ở thành phố Móng Cái nói riêng, song cần có những
thay đổi nhiều hơn nữa trong công tác quản lý hoạt động này để nâng cao chất
lượng, đi sâu hơn hơn về nội dung, bám sát thực tiễn đời sống nhân dân để mang lại
hiệu quả tuyên truyền cao. Vì vậy, nâng cao năng lực trong việc quản lý, tuyên
truyền chính sách văn hóa cho người dân hiện nay nhằm phát huy chức năng giáo
dục của Trung tâm Văn hóa – Thông tin – Thể thao là vấn đề rất cần thiết để góp
phần xây dựng nhà nước ta thành nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì
dân.
Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức
hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân của Trung tâm văn
hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái - Quảng Ninh”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng hoạt động tuyên truyền
chính sách văn hóa cho người dân Thành phố Móng Cái góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động tuyên truyền nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm
văn hóa - thông tin - thể thao Thành phố Móng Cái.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân
nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao
thành phố Móng Cái - Quảng Ninh.
3.2. Khách thể nghiên cứu
+ 200 người dân sống tại 3 Phường: Hòa Lạc, Ka Long, Trần Phú và 3 xã:
Hải Xuân, Hải Tiến, Hải Sơn - Thành phố Móng Cái.
3



+ 30 cán bộ quản lý văn hóa tại các xã phường thành Phố Móng Cái và cán bộ
quản lý văn hóa các cấp của Trung tâm Văn hóa - Thông tin - Thể thao Thành phố.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy
chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao thành phố Móng
Cái đã được chú trọng và đạt được những hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn
nhiều hạn chế.
Nếu tìm ra các biện pháp tổ chức phù hợp với yêu của hoạt động tuyên truyền
hiện nay sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho
người dân từ đó phát huy tốt được chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về quản lý, văn hóa, tuyên truyền và quản
lý hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa nhằm phát huy chức năng giáo dục
của Trung tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao Thành phố Móng Cái cho người dân
thành phố Móng Cái.
5.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho
người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin –
Thể thao thành phố Móng Cái.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng Hoạt động
tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục
của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lí luận và thực
tiễn về những hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân Thành
phố Móng Cái Tỉnh Quảng Ninh nhắm phát huy chức năng giáo dục của Trung
tâm văn hóa - Thông tin - Thể thao thành phố Móng Cái
- Về không gian và thời gian nghiên cứu:
4



*Không gian: Thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh
*Thời gian: 2016-2017
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích các vấn đề lý luận về quản lý, văn hóa, tuyên truyền và công tác tổ
chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức
năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động tổ chức và hiệu quả của các biện pháp tổ chức hoạt động
tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng cho người dân Thành phố Móng Cái ở
một số xã phường của Thành phố Móng Cái: Phường Hòa Lạc, Ka Long, Trần Phú
và xã Hải Xuân, Hải Tiến, Hải Sơn để giáo dục tới người dân.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng hỏi
Chúng tôi dùng bảng hỏi để tìm hiểu các vấn đề sau:
- Thực trạng hoạt động tổ chức văn hóa của các cán bộ quản lý trong việc
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm
phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm.
- Những biện pháp tổ chức của cán bộ quản lý văn hóa đã tiến hành trong việc
tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân thành phố Móng Cái.
- Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền chính
sách văn hóa cho người dân thành phố Móng Cái nhằm phát huy chức năng giáo
dục của Trung tâm Văn hóa- Thông tin – Thể thao.
Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài này.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Để lượng hóa kết quả nghiên cứu chúng tôi dùng phương pháp thống kê toán
học, sử dụng các công thức toán thống kê như số trung bình, tần xuất, hệ số tương
quan để định lượng kết quả nghiên cứu.

5


8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động tuyên truyền chính sách văn hóa
cho người dân nhằm phát huy chức năng giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông
tin – Thể thao thành phố Móng Cái– Quảng Ninh.
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt
động tuyên truyền chính sách văn hóa cho người dân nhằm phát huy chức năng
giáo dục của Trung tâm văn hóa - Thông tin – Thể thao thành phố Móng Cái Quảng Ninh.

6


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục các chính sách văn hóa, pháp luật cho mọi tầng
lớp nhân dân trong xã hội để đưa các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống xã
hội, giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa cho nhân dân nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước bằng xã hội trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách văn hóa là một bộ phận của công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phải được thường xuyên quan tâm đổi mới phương
thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện.

Để công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách văn hóa đạt hiệu quả cao và
thiết thực, hiện nay, các cấp Ủy đảng đã liên tục củng cố, nâng cao nhận thức và
phát huy sự lãnh đạo về công tác này, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức để xác định rõ trách nhiệm và
huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục chính sách văn hóa; đảm bảo mọi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về các chính sách văn hóa đều được phổ biến kịp
thời, đầy đủ đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích
cực về nhận thức và ý thức tôn trọng, chấp hành chủ chương, chính sách của
Đảng của toàn thể cán bộ và nhân dân, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, đã rất chú trọng xây dựng
chính sách văn hóa theo đúng và thể hiện rõ ràng các chủ trương, chính sách của
Đảng; để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống xã hội, bằng
nhiều hình thức đa dạng và phong phú, đã liên tục tuyên truyền, phổ biến cho mọi
7


tầng lớp nhân dân; và đã phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể và các cơ quan thông
tấn, báo chí cũng nghiệm của các nước khác để từng bước đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả của công tác này.
Về vấn đề “văn hóa” đã có một số công trình nghiên cứu ở trong nước đề
cập tới theo những khía cạnh khác nhau, chẳng hạn: xã hội hóa hoạt động văn
hóa ở tình Bình Thuận của tác giả Nguyễn Minh Đức năm 2009, Phát triển sự
nghiệp văn hóa thông tin ở thành phố Móng Cái của tác giả Vũ Thị Liên Minh
năm 2007…, tuy nhiên cho đến nay vấn đề quản lý nhằm phát huy hoạt động
tuyên truyền chính sách văn hóa của Trung tâm VHTT-TT - một đơn vị sự
nghiệp không phải là trường học thông thường là vấn đề mang tính đắc thù
riêng của Việt Nam, nên trên thế giới cũng như ở trong nước đến nay vẫn còn là
một khoảng trống, ít được quan tâm nghiên cứu. Bởi thế chúng tôi cho rằng

vấn đề này cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Khái niệm quản lý
Một xã hội muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải đảm bảo 3 yếu tố: Tri thức,
lao động và quản lý. Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con
người với xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình xuất
hiện theo. Điều này làm nảy sinh nhu cầu về quản lý. Trải qua tiến trình lịch sử
phát triển từ xã hội lạc hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản xuất, tổ chức,
điều hành xã hội cũng phát triển theo. Đó là tất yếu lịch sử, ngược lại khi
trình độ tổ chức điều hành xã hội phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của trình độ
sản xuất, của nền văn minh xã hội.
Như vậy, quản lý trở thành nhân tố của sự phát triển. Quản lý trở thành một
hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến
con người. Quản lý có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội
tuỳ theo trình độ quản lý cao hay thấp.
8


Theo C. Mác, quản lý (QLXH) là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội
hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội
đều thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý (con người điều
khiển con người). Ông coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch
sử của đời sống xã hội, theo ông: "Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một
sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải có một
chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự
vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí
quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển

lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng " [6, tr.29-30].
Như vậy, quản lý là tất yếu tồn tại ở mọi loại hình tổ chức, mọi xã hội. Khái
niệm quản lý đã được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau:
Theo Harol Koontz: "Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm bảo sự nỗ lực của
các cá nhân nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức" [16, tr.31].
Theo F. W. Taylor: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất" [9, tr.89].
Theo Thomas. J.Robbins - Wayned Morrison: "Quản lý là một nghề nhưng
cũng là một nghệ thuật, một khoa học" [35, tr.19].
Theo M. Follet: "Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc của mình được
thực hiện thông qua người khác".
Theo Aunapu F.F: "Quản lý là khoa học và là một nghệ thuật tác động vào
một hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý con người nhằm đạt được những mục
tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động, vừa ổn định bao gồm nhiều thành phần có
tác động qua lại lẫn nhau" [1, tr.75].
Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo từ điển Tiếng Việt "Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt động theo
9


những yêu cầu nhất định” [37, tr.789].
Theo Mai Hữu Khuê: "Quản lý là tác động có mục đích tới tập thể những
người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục tiêu đã định
trước" [15, tr.19-20].
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: "Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện
chuyển biến của môi trường" [41, tr.43].
Theo tác giả Nguyễn Văn Bình: "Quản lý là một nghệ thuật đạt được

những mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ
huy hoạt động của những người khác" [5, tr.176].
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình có định hướng,
quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng
thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [ 22, tr.17].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động khách thể quản lý nhằm
thực hiện những mục tiêu dự kiến” [ 34, tr.24].
Tóm lại những khái niệm nêu trên dù tiếp cận ở góc độ nào, lĩnh vực nào đi
chăng nữa, ở cấp vĩ mô hay vi mô đều có điểm chung thống nhất là coi quản
lý là hoạt động có tổ chức, có chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản
lý và khách thể quản lý; giữa chúng được quan hệ với nhau bằng những tác
động quản lý, điều này được biểu thị bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ: 1.1 Khái niệm quản lý

Chủ thể

Đối

quản lý

quản lý
10

tượng


Mục tiêu
quản lý


11


Qua sơ đồ khái niệm quản lý, tiếp cận theo quan điểm hệ thống thì
“quản lý” là một quá trình bao gồm các thành tố cấu trúc như: Chủ thể
quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý… Nếu
tiếp cận theo quan điểm hoạt động thì “quản lý” hoạt động có ý thức của chủ
thể quản lý.
Thông qua việc tiếp cận một số quan điểm nêu trên về quản lý, chúng tôi cho
rằng: Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý nhằm điều khiển,
tác động lên đối tượng, khách thể quản lý để đạt được mục tiêu của quản lý.
1.2.2. Tuyên truyền
1.2.2.1. Khái niệm chung về công tác tuyên truyền; vị trí, vai trò, nội dung và
những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng.
* Khái niệm
“Tuyên truyền” theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm
truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những
kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng,
thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể
tuyên truyền đặt ra.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu,
dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”.
* Vị trí, vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng:
Vị trí công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng
-Tuyên truyền là một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng. Khi xem
xét công tác tư tưởng như một quá trình liên tục, V.I. Lênin khẳng định công tác
tư tưởng có ba hình thái: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ
động (có nhiều người gọi là ba bộ phận). Ba hình thái đó tương ứng với các quá
trình tư tưởng gồm: sản xuất ra hệ tư tưởng; phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng; cổ

vũ, động viên quần chúng thực hiện.
- Công tác tuyên truyền là hoạt động tiếp nối công tác lý luận, nhằm phổ
biến, truyền bá các nguyên lý lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách vào quần
12


chúng. Mục đích cao nhất của tuyên truyền là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị
thống trị trong xã hội.
* Vai trò công tác tuyên truyền trong công tác tư tưởng
- Tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của công tác tư
tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Tuyên
truyền gắn liền với cổ động, nên tuyên truyền còn là sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy
quần chúng hăng hái tham gia các phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành
nhiệt huyết của quảng đại quần chúng, thành hành động cách mạng.
- Công tác tuyên truyền uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với
những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần xây dựng con
người mới, cuộc sống mới.
- Tuyên truyền góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, hình
thành và củng cố niềm tin, giáo dục lý luận, đạo đức, lối sống, lẽ sống; bồi dưỡng
phương pháp, kỹ năng hành động cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
* Những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền
Cùng với việc thực hiện các nguyên tắc của công tác tư tưởng, trong công
tác tuyên truyền cần tuân theo các nguyên tắc sau:
- Tính đảng, tính giai cấp: Tuyên truyền vô sản phải phục vụ lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng, tính giai cấp đòi hỏi khi trình bày,
giải thích mọi hiện tượng và sự việc xảy ra trong thực tiễn đều phải đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, trên lợi ích của giai cấp và của dân tộc.
- Tính khoa học và thực tiễn: Tính khoa học, thực tiễn yêu cầu khi tuyên

truyền phải dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích
sự việc, hiện tượng, từ đó mà thuyết phục, cảm hoá đối tượng tuyên truyền- Phản
ánh đúng đắn tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong quá trình thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị những biện pháp bổ sung, sửa
đổi, hoàn chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật.
13


- Tính chiến đấu: Tính chiến đấu là bản chất của công tác tuyên truyền
chính trị, thể hiện sự nhạy bén và bản lĩnh chính trị. Trong mỗi sự việc và hiện
tượng cần phân biệt đúng sai, phải trái, xác định nhanh được cái tốt cần biểu
dương, cái xấu cần kịp thời phê phán
- Tính phổ thông, đại chúng: Nội dung tuyên truyền phải gắn chặt với cuộc
sống thực tiễn phong phú của đại đa số quần chúng nhân dân, giải đáp những vấn
đề nóng hổi mà cuộc sống đang đặt ra và quần chúng nhân dân đang đòi hỏi.
* Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền
- Tuyên truyền chính trị: tuyên truyền chính trị là nội dung chủ yếu của
công tác tuyên truyền. Tuyên truyền chính trị tập trung vào việc phổ biến, truyền
bá hệ tư tưởng của Đảng, bao gồm:
+ Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
+ Tuyên truyền về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, của Đảng qua
các hoạt động kỷ niệm, các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa
phương.
- Tuyên truyền kinh tế: tuyên truyền kinh tế nhằm thực hiện đường lối phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung chủ yếu
của tuyên truyền kinh tế là:
+ Tuyên truyền về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, các chính sách,
kế hoạch, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước.

+ Tuyên truyền về những thành tựu kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của
đất nước, địa phương, những thuận lợi và khó khăn, những bài học kinh nghiệm
trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của địa phương trong từng thời kỳ.
- Tuyên truyền văn hóa: tuyên truyền về văn hóa nhằm xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần của xã
hội, gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng đảng

14


- Tuyên truyền quốc phòng, an ninh: tuyên truyền quốc phòng, an ninh là
trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung chủ yếu là:
+ Tuyên truyền về đường lối, quan điểm xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay.
+ Tuyên truyền về những truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, tự
hào về những chiến công hiển hách trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập.
+ Tuyên truyền về những chủ trương, giải pháp lớn xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước
hiện đại.
+ Tuyên truyền các văn bản pháp luật của Nhà nước về các nghĩa vụ của
công dân tham gia quân đội, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng…
- Tuyên truyền đối ngoại: trong thời đại toàn cầu hóa, thực hiện đường lối
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, tuyên truyền đối ngoại có vai trò quan trọng.
- Đấu tranh chống các quan điểm sai trái: trong điều kiện phong trào cách
mạng thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, tuyên truyền để bảo vệ nền

tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết.
1.2.2.2. Công tuyên truyền miệng, phương châm của hoạt động tuyên
truyền miệng; Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng.
* Khái niệm tuyên truyền miệng
- Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền được tiến hành chủ yếu
bằng lời nói trong giao tiếp trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố
niềm tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe.
Các văn bản của Đảng xác định chức năng của công tác tuyên truyền miệng
gồm:
15


- Chức năng phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng: cùng với các hình thức và
phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền miệng góp phần quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư
tưởng của Đảng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.
- Chức năng thông tin và định hướng thông tin: tuyên truyền miệng là một
kênh thông tin chính thống giữ vai trò chủ yếu trong việc thông báo, quán triệt
các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và
Nhà nước; các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế quan trọng mà dư luận đang
quan tâm, qua đó định hướng thông tin cho người nghe.
- Chức năng giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng đi tới hành
động: tuyên truyền miệng có mục tiêu rất cơ bản là góp phần giáo dục và xây
dựng những chuẩn mực về con người mới, nền văn hoá mới, cổ vũ và động viên
các nhân tố mới trong xã hội. Tuyên truyền miệng có khả năng to lớn và có hiệu
quả trong chức năng cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia các phong trào thi đua.
- Chức năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
+ Tuyên truyền miệng là vũ khí sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, đấu tranh
chính trị của Đảng, đặc biệt là trong đấu tranh chống các âm mưu và thủ đoạn

"diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
+ Tuyên truyền miệng là công cụ hữu hiệu để phê phán các nhận thức tư
tưởng lạc hậu, lệch lạc, các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong xã hội
* Phương châm tiến hành công tác tuyên truyền miệng
Các văn bản của Đảng đã xác định phương châm công tác tuyên truyền
hiện nay là:
- Toàn Đảng phải làm công tác tuyên truyền: Thông báo 71-TB/TW ngày
7-6-1997 của Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII quy
định: "Toàn Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên

16


Trung ương và cấp ủy viên các cấp phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước mà trực tiếp tuyên truyền cho quần chúng...".
- Chủ động và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị:
+ Nội dung tuyên truyền phải gắn với nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn
cách mạng, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
+ Người cán bộ tuyên truyền miệng phải đi trước một bước, dự báo sớm
được tình hình, nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội để nắm được yêu cầu của công
tác tuyên truyền và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phục vụ tốt nhất cho
hoạt động tuyên truyền.
- Thường xuyên, liên tục, nhạy bén, kịp thời, bám sát thời cuộc, bám sát
tình hình thực tiễn:
+ Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động
nhanh chóng và phức tạp, tại các địa phương và cơ sở xuất hiện nhiều vấn đề mới
nảy sinh, được mọi người chú ý theo dõi và quan tâm, thực hiện tuyên truyền
miệng phải được tiến hành thường xuyên và bắt kịp với tình hình thời sự nóng
bỏng của cuộc sống.

+ Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin tuyên truyền miệng
không được chậm trễ, đi sau các sự kiện thời sự chính trị nóng bỏng, nhưng không
được hấp tấp, vội vàng, nông cạn, thậm chí có khi sai lệch, thiếu sự phân tích, bình
luận sâu sắc và trái với sự chỉ đạo, định hướng của các cơ quan có chức năng.
- Tuyên truyền phải hết sức cụ thể, thiết thực:
+ Tuyên truyền miệng luôn xác định trước được đối tượng tuyên truyền, vì
vậy phải cụ thể thiết thực, đáp ứng yêu cầu của người nghe.
+ Nội dung tuyên truyền phải có căn cứ số liệu, tư liệu, sự kiện, dẫn chứng
cụ thể, phong phú, sinh động, lập luận rõ ràng; khắc phục lối tuyên truyền đại
khái, quan liêu, xa rời thực tế.
- Đưa thông tin, nhất là thông tin định hướng, nhanh chóng và kịp thời
xuống cơ sở, phục vụ tốt cơ sở: củng cố và xây dựng cho được đội ngũ báo cáo

17


viên, tuyên truyền viên có hoạt động thực sự từ Trung ương tới địa phương cơ sở,
đặc biệt là đến các vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo.
* Nhiệm vụ của báo cáo viên trong công tác tuyên truyền miệng
Khái niệm báo cáo viên
Báo cáo viên là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của công tác tuyên
truyền miệng, được cấp ủy lựa chọn và công nhận theo những tiêu chuẩn nhất
định do Ban Tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo.
Báo cáo viên là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên truyền
miệng, Báo cáo viên được coi là người phát ngôn, thông tin chính của Đảng và cơ
quan Nhà nước.
Từ quan niệm trên cho thấy:
- Báo cáo viên là bộ phận quan trọng, nòng cốt trong công tác tuyên truyền
miệng.
- Báo cáo viên do cấp ủy lựa chọn và quyết định, được tổ chức cả hệ thống

từ Trung ương đến địa phương cơ sở.
- Báo cáo viên do là người phát ngôn chính thức của Đảng và Nhà nước
nên do Ban tuyên giáo của cấp ủy quản lý và chỉ đạo.
Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên.
Ngày 10.11.2011, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ra quyết định số 518 về
việc ban hành quy chế hoạt động báo cáo viên của Đảng, xác định rõ nhiệm vụ
báo cáo viên:
- Trực tiếp tuyên truyền, phổ biến những quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình thời sự trong nước và
thế giới; những nhân tố mới, những điển hình trong xây dựng, phát triển đất nước
và bảo vệ tổ quốc XHCN đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân; định hướng tư
tưởng và hướng dẫn dư luận xã hội, góp phần xây dựng, củng cố sự thống nhất tư
tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận xã hội.

18


- Đối thoại với người nghe, kịp thời giải đáp những băn khoăn, thắc mắc
của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm
sai trái, thù địch.
- Tuyên truyền các nội dung thông tin theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định
hướng, sự phân công của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của cơ quan chuyên
môn cấp trên.
1.2.2.3. Vai trò của Ban tuyên giáo đối với công tác báo cáo viên, tuyên
truyền miệng.
Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu giúp cấp ủy tổ chức, quản lý và điều
hành hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Nội dung bao gồm:
Tổ chức, xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên tuyền miệng
- Hệ thống báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ Trung ương đến

các tỉnh, thành, huyện, quận, xã, phường và đảng bộ cơ sở; ở tất cả các tổ chức,
ban ngành đoàn thể, các đảng ủy khối, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trong lực
lượng vũ trang (quân đội, công an), trong các hội quần chúng.
- Ban Tuyên giáo các cấp có trách nhiệm giúp cấp ủy lựa chọn những cán
bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và trình độ nhất là có khả
năng truyền đạt tham gia là báo cáo viên.
- Ban Tuyên giáo các cấp đề xuất để cấp uỷ ra quyết định công nhận báo
cáo viên. Báo cáo viên Trung ương do Ban Tuyên giáo Trung ương được Bộ
Chính trị ủy quyền ra quyết định công nhận; báo cáo viên cấp tỉnh, huyện và cơ
sở do cấp ủy cùng cấp ra quyết định công nhận.
- Tham mưu cho cấp ủy xây dựng quy chế hoạt động báo cáo viên, xác
định nội dung, chương trình kế hoạch hoạt động hàng năm, 6 tháng và từng tháng
để báo cáo với cấp ủy.
Quản lý, điều hành, tổ chức hoạt động báo cáo viên
Ban Tuyên giáo các cấp trực tiếp giúp cấp ủy chỉ đạo và quản lý hoạt động
báo cáo viên:

19


- Định kỳ tổ chức các hội nghị để cung cấp thông tin và định hướng tuyên
truyền cho báo cáo viên, chỉ đạo tổ chức và theo dõi, kiểm tra hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên.
- Quản lý và kiểm soát nội dung thông tin của báo cáo viên đảm bảo đúng định
hướng tư tưởng chính trị.
- Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ tuyên tuyền miệng cho Báo cáo viên;
- Tham mưu đề xuất với cấp ủy đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc,
chế độ, chính sách đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên.
- Tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết, đánh giá hoạt động báo cáo viên, tuyên

truyền miệng.
1.2.3. Văn hoá
1.2.3.1. Khái niệm văn hoá
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, có sức lan
toả và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, văn hoá có
rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau, tuỳ theo nghĩa rộng hay hẹp, tuỳ
theo từng ngành, từng lĩnh vực hay từng khu vực.
Tổng giám đốc UNESCO, ngài Fedeico Mayer zaragoza nêu ra một định
nghĩa về văn hoá như sau: "Văn hoá là tổng thể sống động của các hoạt động
sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo
ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [ 47, tr.33].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng
hợp của mọi phư ơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những n hu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
20


sinh tồn" [15, tr.14].
Theo Trần Ngọc Thêm: "Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội"
[38,tr.10].
Với ý nghĩa đó, văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người dù đó là hoạt động sản xuất vật chất hay sản xuất tinh thần, hay trong
quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII

nêu ra quan điểm chỉ đạo cơ bản cũng là một khái niệm "Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội" [15, tr. 9].
Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh
tế. Các nhân tố của văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã
hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp kỷ cương, biến
thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Trước đây chúng ta hiểu văn hoá một cách phiến diện: coi văn hoá như một lĩnh
vực hẹp, thuộc quản lý của một bộ, một ngành. Hoạt động văn hoá thường được hiểu
như một hoạt động có tính thời vụ nhằm tuyên truyền cổ động cho một chủ trương
chính sách, một phong trào. Thực ra văn hoá gắn với tất cả các hoạt động nhằm phát
triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội. Như vậy văn hoá
trước hết là những hoạt động nhằm phát huy những nhu cầu và năng lực tinh thần cơ
bản của con người, tạo ra những chuẩn mực, các giá trị nâng cao khả năng hiểu biết
và sáng tạo của con người.
Theo cách hiểu hẹp hơn và được sử dụng thông thường và khá phổ biến, khi
tách giáo dục khoa học ra thành các lĩnh vực, các ngành có đặc thù riêng: Văn
hoá còn được coi chủ yếu là các loại hình hoạt động cụ thể của ngành văn hoá
thông tin như: Bảo tàng, thư viện, báo chí, xuất bản, đời sống văn hoá cơ sở, lễ
hội... và các loại hình sáng tạo văn hoá, văn nghệ. Văn hoá là một lĩnh vực
21


được coi là nhạy cảm nhất, mang tính sáng tạo, là bước phát triển cao của xã hội
loài người.
- Quan niệm mác xít về văn hoá: Vào cuối thế kỷ XIX và sang thế kỷ
XX, thuật ngữ văn hoá được dùng trong các công trình xã hội học, nhân loại
học, nhân chủng học.... theo bốn nghĩa sau đây:
+ Một trình độ phát triển nhất định về kiến thức và đạo đức của cá nhân,
như nói một người có văn hoá, trình độ văn hoá của một người, nội dung này

có liên quan tới mẫu hình con người lý tưởng, con người hoàn thiện, được bàn
tới nhiều trong thời cổ đại cũng như trong thời kỳ Phục Hưng.
+ Một tình trạng phát triển chung về sản xuất và vật chất, tinh thần và
đạo đức của một xã hội nhất định. Thí dụ trong các câu thường được các nhà
nhân loại học, nhân chủng học phương Tây dùng: Nền văn hoá nguyên thuỷ,
nền văn hoá của các bộ tộc và dân tộc...
+ Một nghĩa hẹp hơn, chỉ toàn bộ các ngành văn hoá, nghệ thuật.
+ Lối sống vật chất, tinh thần của một xã hội, của các lớp người hay xã
hội đó, cho tới lối sống của mỗi cá nhân.
- Trong tâm lý học, văn hoá được hiểu như sau: "Văn hoá là một phức
hợp tâm lý chỉnh thể, được hình thành và phát triển trong hoạt động, phản ánh
dấu ấn về một cộng đồng và luôn là một nhân tố quan trọng bậc nhất của sự
phát triển nhân cách con người"
Như vậy "Văn hoá là tập hợp cả các giá trị mà con người sáng tạo ra được
trong quá trình lao động và sinh hoạt. Văn hoá bao gồm 2 loại: văn hoá vật thể
(các công trình kiến trúc, máy móc…) và văn hoá phi vật thể (tư tưởng, thơ
ca….); Văn hoá là thiên nhiên thứ hai của con người. Văn hoá là thứ mà chỉ có
con người mới có, động vật không thể có được .
1.2.3.2. Chức năng của văn hoá
* Chức năng
Chức năng được hiểu là công việc mà tổ chức cần thực hiện trong hoạt
động của nó, ví dụ, chức năng lập thời khoá biểu dùng để mô tả cho công việc
22


công tác nghiệp vụ của nhóm cán bộ phòng đào tạo. Học viên X, có nhiệm vụ
thu thập thông tin về số lớp học, sĩ số và ngành đào tạo, quỹ hội trường, phân
công nhiệm vụ giảng dạy của từng giáo viên để từ đó sắp xếp, tạo ra một thời
khoá biểu dùng chung cho toàn trường trong một học kỳ.
Như vậy chức năng không chỉ nêu ra rằng nghiệp vụ đó được thực hiện ở

đâu, như thế nào, bởi ai và thời điểm nào. Điều này có nghĩa là khi mô tả chức
năng không cần quan tâm đến các yếu tố vật lý cần thiết để thực hiện công
việc, các khía cạnh vật lý của vấn đề mà chỉ quan tâm đến khía cạnh hình
thức, khía cạnh lô gic của vấn đề.
Các chức năng diễn tả công việc ở nhiều mức độ khác nhau. Chức năng
có thể diễn tả công việc ứng với một lĩnh vực hoạt động như: "quản lý tài
chính", "quản lý đào tạo", hoặc ứng với một hoạt động trong một tổ chức
như "lập kế hoạch mua hàng", "lập thời biểu học kỳ trong một trường học"
hoặc một nhiệm vụ như "tính nhu cầu dự trữ hàng trong kho" "xếp thời khoá
biểu cho một lớp" hoặc cũng có thể chỉ là một hành động như "thu thập đơn
hàng", "in thời khoá biểu cho lớp ". Rõ ràng là để có cái nhìn tổng quan về
hoạt động của hệ thống thì cần mô tả các chức năng của hệ thống ở mức đại
thể. Nhưng để hiểu rõ hơn các chức năng nghiệp vụ của hệ thống thì lại cần
phân rã các chức năng trong một hệ thống từ đại thể đến chi tiết gọi là xây
dựng sơ đồ chức năng nghiệp vụ.
Chức năng là vai trò, lý do tồn tại của một (cái gì đó, một sự vật hiện
tượng nào đó), ví như: văn hoá ra đời để làm gì? văn hoá đóng vai trò gì? v.v.
Như vậy khái niệm "chức năng" là một vấn đề mà hiện nay chưa thể đưa
ra một khái niệm chung nhất. Vì vậy chúng tôi xin nêu cách hiểu về "chức
năng" như trên.
* Chức năng của văn hoá
Văn hóa là tập hợp tất cả các giá trị mà con người sáng tạo ra được trong
quá trình lao động và sinh hoạt, vì vậy văn hóa cũng có nhiều chức năng:
chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ.v.v.
23


- Chức năng nhận thức: Nhận thức là một yếu tố căn bản để phân biệt
giữa con người với loài vật. Loài vật chỉ sống với ý nghĩ muốn tồn tại y như
nó, con người do nhận thức cao hơn nên sống có 2 ý nghĩa là tồn tại y như

nó và muốn cao hơn, tự hoàn thiện theo hướng nhân bản hơn, người hơn.
Nhận thức giúp con người nâng cao sự hiểu biết, hiểu được công việc mình
làm trên cơ sở đó tự hoàn thiện nhân cách.
- Chức năng giáo dục: Giáo dục là để nâng cao nhận thức là phương tiện
để phát huy tiềm năng con người. Giáo dục ở đây không chỉ có nhiệm vụ
cung cấp tri thức cho người mà còn hướng tới những mục tiêu khác: giáo dục
tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục nhân cách.
Một người có văn hóa - nếu hiểu đúng nghĩa của từ có văn hóa, đồng thời
cũng là một người có đạo đức. Một cuốn sách hay, một bộ phim tốt, một vở
kịch có nội dung tư tưởng sâu sắc và diễn xuất tài tình đều có tác dụng lớn
củng cố nền đạo đức xã hội và cá nhân.
- Chức năng thẩm mỹ: Nói đến văn hoá là nói đến cái đẹp, văn là vẻ đẹp,
hoá là làm cho cái đẹp đẹp lên. Thẩm mỹ là một chức năng quan trọng của
văn hoá, con người luôn luôn vươn đến cái đẹp, kể cả cái đẹp hình thức lẫn
cái đẹp nội dung.
Các ngành nghệ thuật cũng xuất phát từ chức năng này để hoạt động.
Hình thành nên các loại chủ nghĩa trong nghệ thuật. Cái đẹp là những hài hoà
hoàn chỉnh. Cái có ích thì đáp ứng nhu cầu thực tiễn, cái đẹp thì đáp ứng nhu
cầu tinh thần. Cái đẹp luôn là bạn đồng hành của cái có ích, con người luôn có
nhu cầu nhào nặn hiện thực thành cái đẹp.
Văn hoá nghệ thuật là sự chưng cất cái đẹp. Quy luật với nghệ thuật là
quy luật tình cảm con người luôn khát vọng vươn tới cái đẹp thông qua cái
đẹp tác động vào tình cảm, tác động lên lý trí (thích hay không thích, cái đúng
cái sai, cái thiện cái ác).
Cụ thể nghệ thuật luôn mang tính phổ quát, nghệ thuật đến với tất cả con
người. Nghệ thuật phải đúng, phải hấp dẫn, nghệ thuật phải như ăng ten thu
24


nhận tín hiệu tình cảm, phải có trái tim nhạy cảm thấm đượm tình người phải

có lý trí sáng suốt thông qua đó đánh thức nhân loại.
Nghệ thuật là sự thể hiện nhu cầu của con người muốn thông qua hình
tượng và biểu tượng để thể hiện và cảm nhận những thời điểm có ý nghĩa
trong đời sống của mình. Nghệ thuật tạo ra cho con người “Hiện thực thứ
hai”, tức là thế giới những cảm xúc đã trải qua trong cuộc đời và được thể
hiện bằng những phương tiện hình tượng, biểu tượng đặc biệt. Việc tiếp xúc
với những thế giới này cũng như việc biểu hiện và nhận thức trong thế giới
này là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của tâm hồn con người khả
năng tác động vào xã hội của nghệ thuật là rất lớn.
Khả năng tác động vào xã hội của nghệ thuật là rất lớn. Một là hướng
tâm; Hai là ly tâm - làm tan rã tâm trạng xã hội, Ba là loạn tâm - là mỗi người
một tâm trạng.
Thưởng thức xong một tác phẩm nghệ thuật, có thể làm thay đổi tính
cách, lối suy nghĩ của con người.
Văn nghệ sỹ là ai, trước hết phải là con người có tâm hồn nhạy cảm, dễ
xúc động và hoạt động trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó. (có người không
phải là nghệ sỹ nhưng cũng rất nhạy cảm, biết thưởng thức nghệ thuật - đây
có thể gọi là những người có tâm hồn nghệ sỹ). Có tâm hồn, có năng khiếu là
những điều kiện tốt để một con người trở thành nghệ sỹ, nhưng để trở thành
nghệ sỹ, phải có học chuyên ngành nghệ thuật mới hiểu được hệ thống biểu
tượng của nghệ thuật (bố cục, màu sắc, biểu tượng, các quy luật sáng tối, viễn
cận trong nghệ thuật hội hoạ, quy luật hoà âm trong âm nhạc, gam trưởng,
gam thứ….).
Nghệ sỹ là một nghề, dễ xúc cảm, hay thay đổi, đôi lúc tính khí bất
thường, không chịu sống gò ép trong khuân khổ, luôn luôn sáng tạo ra cái
mới. Vì vậy quản lý, lãnh đạo văn nghệ sỹ là một việc khó.
Đảng ta phải quan tâm đến cộng đồng nghệ sỹ: Quan tâm đến đời sống
25



×