Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Ngành công nghiệp hỗ trợ tại việt nam – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.49 KB, 26 trang )

Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
I. Những vấn đề cơ bản của ngành CNHT
1. Định nghĩa:
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT - supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những
sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là
những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v..và
cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm
CNHT thường được sản xuất với quy mô không lớn, thực hiện bởi các doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Trong thực tiễn kinh doanh có 2 cách hiểu về CNHT:
- Ở góc độ hẹp, CNHT là các ngành sản xuất phụ tùng, linh kiện phục vụ cho công
đoạn lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh; toàn bộ các ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm
cũng như tạo ra các máy móc, thiết bị hay những yếu tố vật chất khác góp phần tạo thành
sản phẩm. Khái niệm CNHT trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp
có sản phẩm đòi hỏi sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp, tính chính xác cao, dây chuyền
sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. Hai ngành công nghiệp hay sử
dụng khái niệm CNHT là ngành ô tô và điện tử.
- Nếu đặt góc nhìn rộng hơn, CNHT phải được hiểu một cách tổng quát như một hình
dung về toàn bộ quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành
hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có
những đòi hỏi ở các mức độ khác nhau về yếu tố hỗ trợ.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành
Sự phát triển của CNHT phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trước hết phải kể đến quy
mô cầu (hay dung lượng thị trường). Điều này xuất phát từ thực tế rằng ngành CNHT là
ngành đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ hiện đại. Để giảm thiểu chi phí trên một đơn vị sản
phẩm, các doanh nghiệp phải tính đến lợi thế kinh tế theo quy mô. Đó là lý do tại sao các
nhà đầu tư muốn đảm bảo một thị trường có dung lượng lớn, hoặc ít ra là có tiềm năng
dung lượng lớn trong tương lai, trước khi ra quyết định đầu tư. Thứ hai, tình trạng thiếu
thông tin và sự chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng giữa nhà cung cấp linh kiện, phụ kiện
và các doanh nghiệp lắp ráp cũng là các nhân tố cản trở sự phát triển của ngành CNHT.
Thứ ba là yếu tố nguồn nhân lực: hiện nay đa phần cho rằng nguồn nhân lực có trình độ


cao còn quan trọng hơn máy móc hiện đại. Các chuyên gia Nhật Bản cho biết nếu chỉ đơn
thuần dựa vào máy móc dây chuyền thì sẽ không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì
các quốc gia đều có thể sở hữu chúng. Do vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội
ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến
máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc.
Ngoài ra, những chính sách của chính phủ như chính sách thuế (giảm thuế và ưu đãi về
thuế) và các chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ công nghệ, tài chính, đào tạo...) là công cụ
quan trọng trong việc thúc đẩy CNHT phát triển.

Nhóm 6

Trang |1


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
II. Thực trạng ngành CNHT tại Việt Nam
1. Thực trạng chung
Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra toàn diện nào về ngành CNHT
được tiến hành, song để đánh giá thực trạng của ngành, chúng ta có thể dựa trên một số
kết quả khảo sát, điều tra mẫu và nghiên cứu do các cơ quan khác nhau tiến hành (Tổng
cục Thống kê, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Tổ chức Xúc tiến
Thương mại Nhật Bản - JETRO và nhất là Diễn đàn Phát triển Việt Nam – VDF).
Theo Báo cáo tháng 6/2006 của VDF, các nhà sản xuất Nhật Bản cho rằng CNHT
Việt Nam còn chậm phát triển. Tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất Nhật Bản tại Việt
Nam mới chỉ đạt 22,6% vào năm 2003, trong khi ở Malaixia và Thái Lan tỷ lệ này là
45% hoặc cao hơn. Còn theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương (CIEM), khi thực hiện cuộc khảo sát hơn 80 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, có
tới 32 doanh nghiệp cho rằng việc cung ứng nguyên vật liệu và các hoạt động kinh tế hỗ
trợ của Việt Nam rất kém. Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối hợp với các nhà cung
cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng

rất khó có thể tìm được nhà cung cấp thích hợp. Đôi khi, họ phải tìm các nhà cung cấp
tiềm năng thông qua niên giám điện thoại hoặc dựa vào các mối quan hệ cá nhân của
nhân viên, nhưng tiếp cận hàng trăm đơn vị mới tìm được một nhà cung cấp đạt yêu
cầu.
Quy mô sản xuất
Tỷ lệ nội địa hoá
Ngành công nghiệp
(nghìn chiếc)
(%)
Xe máy (2003)
1.290 (Thái Lan: 1.740)
75
Tivi (2002)
1.600 (Thái Lan: 6.500)
20-40
Ôtô (2005)
35 (Thái Lan: 1.000)
5-10
Bảng 2.1: Tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp chế tác Việt Nam
Nguồn: Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF).
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên là do các nhà cung cấp Việt Nam chưa
năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, chưa tự tin và chưa có khái
niệm “xây dựng quan hệ” trong kinh doanh. Ngoài ra, các doanh nghiệp hỗ trợ hiện vẫn
chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng kém
và giá thành cao (do công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém...) nên chỉ tiêu thụ được
trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế luôn tồn tại một khoảng cách quá
lớn giữa yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như thời hạn giao hàng của các
doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Hirotaka Yasuzumi, Giám đốc điều hành văn phòng JETRO tại TP.HCM,
nói: “Năm 2013, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật được cấp phép

tại Việt Nam là 22,4 tỉ USD, chiếm 26% với 500 dự án. Con số này cho thấy, Nhật Bản
vẫn là nhà đầu tư lớn nhất, hoạt động của các công ty Nhật Bản tại Việt Nam vẫn rất sôi
động. Tuy nhiên khó khăn của các doanh nghiệp Nhật là tình trạng thiếu hụt của ngành
CNHT tại thị trường nội địa. Khảo sát của JETRO năm 2013 cho thấy tỷ lệ cung cấp nội
địa cho các công ty Nhật chưa đến 32% tại Việt Nam so với 64% tại Trung Quốc và 53%
Nhóm 6

Trang |2


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
tại Thái Lan. Mười năm qua, JETRO đã nỗ lực nâng cao ngành này thông qua các buổi
trao đổi thương mại và triển lãm về CNHT song vẫn chưa được cải thiện”. Ông Bùi
Quang Hải, đại diện Hội Cơ khí TP.HCM (HAME), chia sẻ: “doanh nghiệp chế tạo Việt
Nam chỉ đáp ứng 11% nhu cầu của các công ty Nhật tại Việt Nam. Trong vài năm gần
đây, các sản phẩm điện tử, máy tính, điện thoại của Việt Nam xuất khẩu đạt kim ngạch
cao và tăng mạnh đến hai con số, nhưng đều là sản phẩm đến từ các doanh nghiệp FDI.
Họ nhập khẩu tới 58% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam, tương đương 40 tỉ USD sản
phẩm công nghệ chế tạo, riêng linh kiện điện thoại gần 20 tỉ USD. Nguồn nhập khẩu
nhiều nhất là Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp thừa nhận đang trong tình trạng “làm
công” vì phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài. “Hiện nay chúng ta đang đứng
trước những cơ hội từ việc hợp tác với Nhật Bản xây dựng chiến lược hợp tác công
nghiệp Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Trong đó, phát triển 6
ngành công nghiệp ưu tiên là điện tử, máy nông nghiệp, chế biến nông thủy sản, môi
trường và tiết kiệm năng lượng, đóng tàu, sản xuất phụ tùng ô tô”, ông Hải sốt ruột.
2. Thực trạng các ngành cụ thể
Dựa vào nghiên cứu số liệu, nhóm phân tích 3 ngành có tác động lớn nhất tới ngành
CNHT tại Việt Nam:
2.1. CNHT ngành điện tử, linh kiện điện tử ,điện máy
Trong hơn 15 năm qua, Việt Nam luôn theo đuổi mục tiêu phát triển công nghiệp sản

xuất linh kiện điện tử. Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp, từ hành chính với những
quy định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa, cho đến khuyến khích thông qua hàng rào bảo hộ
thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, kết quả thu được không đáng kể. Nguyên nhân
chính do những nhà đầu tư đầu tiên vào Việt Nam chủ yếu hướng đến thị trường nội địa,
quy mô còn rất nhỏ. Mỗi nhà sản xuất chỉ có thể mua từ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn
sản phẩm mỗi năm, nên không thể thuyết phục các doanh nghiệp vệ tinh theo đến Việt
Nam.
Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi cách nay năm năm, khi một số tập đoàn điện tử,
viễn thông nước ngoài quyết định chọn Việt Nam làm cứ điểm sản xuất để xuất khẩu ra
toàn thế giới. Khởi đầu cho xu hướng này là các tập đoàn điện tử Nhật Bản, như Nidec,
Canon và Sanyo. Tiếp đến là các tập đoàn đến từ Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan, trong đó
đáng kể nhất là dự án của Intel, Hon Hai Foxconn, mỗi dự án có vốn 1 tỉ đô la Mỹ, và
Samsung Electronics.
Sự thay đổi chiến lược đầu tư của các tập đoàn trên gần như ngay lập tức đã có tác
động tích cực đến lĩnh vực CNHT. Trong vài năm qua, hàng loạt dự án đầu tư sản xuất
linh kiện của nước ngoài đã ra đời với mức đầu tư từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu
đô la Mỹ. Đáng kể nhất là các dự án 300 triệu đô la Mỹ của Meiko (Nhật Bản), chuyên
sản xuất mạch in điện tử và các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh.
Dự án của Hoya cũng đến từ Nhật Bản, đầu tư 100 triệu đô la Mỹ để sản xuất đĩa
quang, linh kiện để chế tạo ổ đĩa cứng máy vi tính và máy nghe nhạc. Bên cạnh đó, còn
hàng chục dự án khác, sản xuất các loại linh kiện như máy biến dòng, biến thế, linh kiện

Nhóm 6

Trang |3


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
chống nhiễm từ, linh kiện cộng hưởng âm thanh, thẻ cảm ứng, bộ nối cáp quang, chíp
điện tử và các loại linh kiện hàng điện tử gia dụng khác...

Đáng chú ý là các cứ điểm sản xuất của những tập đoàn điện tử không dàn trải, mà
chủ yếu tập trung ở hai cụm. Khu vực phía Bắc là các tỉnh Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và thành
phố Hà Nội. Còn phía Nam hầu hết các cơ sở đều đặt tại TPHCM, Bình Dương và Đồng
Nai. Đây là điều kiện rất thuận lợi để các địa phương nêu trên thu hút các doanh nghiệp
vệ tinh, đồng thời cũng là cơ hội cho các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh phát triển,
chẳng hạn như logistics, tài chính và ngân hàng.
Ngoài ra, những trung tâm sản xuất lớn ra đời còn giúp cho một số ngành CNHT
trong nước phát triển mạnh. Ông Nguyễn Văn Đạo, Phó tổng giám đốc Samsung Vina,
cho biết nhà máy của Samsung Electronics Việt Nam ở Bắc Ninh sẽ tiêu thụ một số
lượng lớn bao bì, catalogue... và đây là dư địa cho các nhà cung cấp Việt Nam.
Ngành sản xuất linh kiện phát triển sẽ có tác động không nhỏ tới triển vọng của công
nghiệp điện tử Việt Nam. Trước mắt, đây sẽ là lợi thế quan trọng để Việt Nam cạnh tranh
với các nước khác, nhằm thu hút những dự án đầu tư của các tập đoàn điện tử lớn.
Có tin tập đoàn bán dẫn và vi mạch hàng đầu Nhật Bản là Renesas cùng với những
tập đoàn điện tử NEC (Nhật) và HP (Mỹ), Acer (Đài Loan) sẽ đầu tư phát triển trung tâm
thiết kế vi mạch, lắp ráp máy tính ở Việt Nam.
Tuy vậy sau 30 năm phát triển, ngành điện tử Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp
cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước vẫn gần như chỉ
khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm.
Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI trong ngành điện tử, điện máy đang đứng trước sức
ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất
trong nước. Tuy nhiên, do số doanh nghiệp hỗ trợ rất ít, chất lượng linh phụ kiện chưa
đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước
xung quanh hoặc trực tiếp từ Nhật Bản. Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh
nghiệp điện tử Việt Nam, các doanh nghiệp FDI có "tên tuổi" đều phải nhập khẩu trên
90% linh kiện của nước ngoài, thậm chí có doanh nghiệp nhập khẩu cả 100% như Công
ty Fujitsu Việt Nam. Điều này vừa gây thiệt thòi cho ngành công nghiệp Việt Nam,
khiến chúng ta khó thoát khỏi tình trạng gia công, lắp ráp, vừa giảm sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp hàng điện tử trong nước. Việc thiếu vắng các nhà
cung cấp linh phụ kiện cũng khiến nhiều nhà ĐTNN trong lĩnh vực này có xu hướng

ngại đầu tư vào Việt Nam và đây là điểm yếu căn bản trong thu hút FDI vào lĩnh vực
điện - điện tử.
Bên cạnh đó, CNHT trong ngành điện tử, điện máy còn phải đối mặt với sự thay đổi môi
trường quốc tế. Trong thời gian tới, do việc thực thi AFTA và các cam kết với WTO,
linh phụ kiện nhập khẩu sẽ có thêm cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam, đặc biệt là
linh phụ kiện từ Trung Quốc, Thái Lan.

Nhóm 6

Trang |4


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
2.2. CNHT ngành dệt may

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ từ
năm 1998 ước tính đến năm 2015
Nguyên liệu (SợiDệt vảiHoàn thiện)
May hoàn thiện
Phụ liệu (Cúc, chỉ, khóa,...)
Biểu đồ 2.2: Quan hệ theo chiều dọc của ngành CNHT dệt may và ngành may
Những năm qua, dệt may là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam, nhưng có tới 70-80% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. Chỉ có sợi là
ngành dệt may chủ động được gần như hoàn toàn nhu cầu sản xuất trong nước và xuất
khẩu (xuất khẩu hơn 2 tỷ USD/năm). Xuất khẩu dệt may cả nước đến nay đã đạt mức hơn
20 tỷ USD, song ngành này vẫn phải bỏ ra hơn 10 tỷ USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu
như vải, khóa kéo, phụ kiện thời trang… phục vụ sản xuất. Về năng lực sản xuất nguyên
liệu cung cấp cho ngành dệt may, các loại có nguồn gốc tự nhiên như bông, tơ tằm, gai,
đay, lanh…
Việt Nam hoàn toàn có thể sản xuất được. Nhưng do ảnh hưởng của nhiều yếu tố,

nguồn nguyên liệu này hiện nay vẫn chưa phát huy và chỉ đáp ứng được 3-5% nhu cầu sử
dụng của toàn ngành. Các loại nguyên liệu có nguồn gốc nhân tạo, xơ – sợi nhân tạo hầu
như chưa sản xuất được ở trong nước; xơ sợi tổng hợp đã có nhà máy bắt đầu sản xuất
nhưng sản lượng thấp và chưa đáp ứng được chất lượng sản phẩm. Vì vậy, phần lớn
lượng xơ sợi tổng hợp hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu. Do đó, giá trị thu về của
ngành rất nhỏ so với kim ngạch xuất khẩu đạt được hằng năm.
Sau hơn 20 năm nhưng chúng ta vẫn chỉ là những tay gia công lành nghề mà chưa
thể làm chủ. Chính vì thiếu sự hỗ trợ của CNHT nên ngành dệt may không thể có sự đột
phát trong phát triển và hội nhập. Dệt may Việt Nam hiện chiếm vị trí thứ 5 trong số các
Nhóm 6

Trang |5


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
nước xuất khẩu lớn trên thế giới. Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may có thể nhìn
thấy rõ khi Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm phán các Hiệp định Thương mại
tự do song phương và đa phương, Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên, những lợi ích nêu trên chỉ có được nếu sản phẩm dệt may Việt Nam đáp ứng
quy tắc xuất xứ ‘từ sợi trở đi’ (các khâu sản xuất sợi, vải và may đều phải diễn ra trong
các nước TPP thì sản phẩm may mặc cuối cùng mới được hưởng ưu đãi thuế quan theo
hiệp định). Còn quy tắc xuất xứ trong EVFTA lại dựa trên nền tảng ‘từ vải trở đi’. Vì
vậy, nếu doanh nghiệp (doanh nghiệp) may không chủ động được nguồn vải – sợi tại Việt
Nam hoặc trong khối TPP và EVFTA thì không những khó tận dụng cơ hội, mà còn phải
đối mặt với nhiều thách thức về thị trường…
Phát triển nguyên phụ liệu trong nước đang phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt với
sản phẩm của Trung Quốc do họ có thời gian sản xuất lâu đời, quy mô lớn, mẫu mã đa
dạng, giá rẻ. Ngoài ra, theo Phó chủ tịch Hiệp hội Bông sợi Việt Nam, Phó tổng thư ký
Hiệp hội Dệt may Việt Nam Nguyễn Văn Tuấn, lĩnh vực dệt, nhuộm còn đối mặt với khó
khăn nữa, đó là thiếu nhân lực trầm trọng. Dệt, nhuộm, đòi hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật cao.

Một công nhân may đào tạo 3 tháng, có thể làm được, nhưng kỹ sư nhuộm muốn làm tốt,
học xong, phải thực hành 10 năm. Do đó, chúng ta thiếu trầm trọng nguồn lực.
Đây là những khó khăn, thách thức không mới đối với phát triển CNHT dệt may và đã
được bàn thảo khá nhiều ở các hội nghị, hội thảo nhưng chưa tìm được cách tháo gỡ.

Biểu đồ 2.3: Trị giá hàng dệt may xuất khẩu giai đoạn 2000-2013
CNHT cho ngành dệt may, với vị trí là ngành cung cấp nguyên phụ liệu và máy
móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm dệt may, có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của ngành. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt
với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường dệt may thế giới, đặc biệt là sự tràn ngập của
hàng dệt may Trung Quốc và áp lực từ hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển đồng bộ
CNHT cho ngành dệt may là một bước đi cần thiết để chúng ta có thể vượt qua thử thách
này.

Nhóm 6

Trang |6


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Tính đến đầu năm 2012, số lượng doanh nghiệp CNHT ngành dệt may khoảng
1.280 doanh nghiệp, chiếm 31,26% tổng số doanh nghiệp toàn ngành; trong đó, doanh
nghiệp vải chiếm tỉ trọng cao nhất 52%, doanh nghiệp sợi, chỉ may chiếm 22%, doanh
nghiệp hoàn tất chiếm 14%. (biểu đồ 2)

Biểu đồ 2.4: Số lượng các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may năm 2012
Thực trạng một số ngành CNHT dệt may cụ thể:
2.1.1. Ngành bông
Bông là một trong những nguyên liệu thô chính cần thiết cho sự phát triển của ngành
sợi nói riêng và ngành dệt may nói chung của bất cứ quốc gia nào, và Việt Nam cũng

vậy. Hiện nay ngành sợi Việt Nam có khoảng 4 triệu cọc sợi, trung bình mỗi cọc sợi cần
khoảng 100kg bông xơ/năm. Nếu tính như trên thì ngành sợi cần khoảng 400.000 tấn
nguyên liệu/năm cho sản xuất, với 50% sợi bông và 50% sợi tổng hợp. Như vậy, lượng
bông xơ cần thiết cho ngành sợi là 200.000 tấn/ năm. Xét về điều kiện tự nhiên , Việt
Nam có đủ điều kiện về thổ nhưỡng, khí hậu để phát triển cây bông vải. Tuy nhiên, trong
khoảng 5 năm trở lại đây, diện tích trồng bông ngày càng thu hẹp do cây bông không có
lợi thế so với các cây trồng khác như đỗ tương, lạc. Sản lượng bông vải trong nước chỉ
đạt 3.500-3.700 tấn, tức chỉ đáp ứng được khoảng 2% nhu cầu bông xơ cho ngành sợi,
điều đó buộc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải phụ thuộc vào nguyên liệu bông
nhập khẩu từ nước ngoài.
Hiện nay, diện tích trồng bông tại Việt Nam chủ yếu ở Tây Nguyên (chiếm 42%) và
vùng duyên hải mền Trung (33%), còn miền Bắc chỉ chiếm 20% và còn lại là Đông Nam
Bộ với 5%. Do diện tích canh tác còn thấp nên sản lượng bông xơ không cao, thấp hơn
nhiều so với nhu cầu và kế hoạch chỉ tiêu. Quy mô sản xuất bông ở Việt Nam lại phân
tán, nhỏ lẻ và manh mún trong các hộ nông dân. Vì vậy, mức độ cơ giới hóa còn thấp,
khó có thể áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất cây bôn cũng
như tạo ra lợi thế về quy mô trong canh tác, dẫn tới chi phí cao. Số hộ sản xuất cây bông
tự túc chiếm tới hơn 80%, dân tộc thiểu số chiếm 15-20% tổng số hộ sản xuất bông.
Dự báo trong thời gian tới, nếu không có sự điều chỉnh giá cho phù hợp, cây bông vải
có thể chính thức biến mất khỏi thị trường Việt Nam. Nên cạnh những bất lợi nêu trên,
cây bông vải ở Việt Nam còn phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ hàng nhập khẩu, đặc
biệt là từ Mỹ, Ấn Độ và Thụy Sĩ. Sau khi Việt Nam là thành viên của WTO, nhập khẩu
Nhóm 6

Trang |7


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
bông xơ được tự do và không phải chịu thuế suất hoặc bất kì qui định thương mại nào tác
động. Rõ ràng cây bông vải chỉ có thể tồn tại trên thị trường Việt Nam nếu được sự quan

tâm thích đáng của Chính phủ thong qua các chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
và phát triển khoa học công nghệ để nâng cao năng suất và chất lượng bông, bên cạnh đó
có các biện pháp để bình ổn giá thu mua bông trong nước nhằm bảo đảm lợi ích cho
người trồng bông.
2.1.2. Ngành trồng dâu nuôi tằm
Ở Việt Nam, nghề trồng dâu nuôi tằm đã có từ lâu đời và là một ngành nghề truyền
thống của nhiều vùng, đã từng trở thành những thương hiệu địa phương như tằm tơ Nam
Định, tơ lụa Hà Đông,… Tiềm năng phát triển của dâu – tằm – tơ cũng rất lớn, các tỉnh
đồng bằng sông Hồng với một diện tích rất lớn đất phù sa rất phù hợp để phát triển nghề
dâu tằm; thêm vào đó, vùng đất đỏ bazan thuộc các tỉnh Tây Nguyên cũng cực kỳ thích
hợp với cây dâu tằm, với các vùng đã từng được mệnh danh là thủ đô của dâu tằm những
năm 90 thế kỷ XX như Bảo Lộc, Lâm Đồng. Vào những thời điểm hoàng kim của thị
trường tơ thế giới, diện tích trồng dâu tằm đã tăng lên nhanh chóng, một loạt các tỉnh đã
phát triển dâu tằm như Bắc Ninh, Sơn La, Thanh Hóa, Hưng Yên, Vĩnh Phúc. Có những
thời điểm diện tích trồng dâu tằm cả nước đã lên đến 25.000 ha, riêng Lâm Đồng 14.000
ha (số liệu năm 2004).
Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động trồng dâu nuôi tằm ở Việt Nam phát triển không
tương xứng với tiềm năng hiện có. Diện tích trồng dâu thu hẹp quá nửa so với 25.000 ha
– thời kì phát triển nhất. Chất lượng kén, tơ còn thấp không đáp ứng được yêu cầu của thị
trường. Nguyên nhân là do giá tơ kén quá thấp, cuối năm 2002 và cả năm 2003 tơ rớt giá
thảm hại kéo theo giá kén cũng thấp theo, gây tâm lý hoang mang cho người nông dân.
Hàng loạt bãi dâu bị bỏ hoang hoặc chuyển đổi sang các cây trồng khác. Bên cạnh đó, kĩ
thuật nuôi trồng dâu tằm còn quá thủ công, thô sơ, truyền thống, chưa có điều kiện áp
dụng khoa học tiên tiến, lại phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên. Toàn bộ công việc
trồng dâu, nuôi tằm, kinh doanh được các hộ gia đình nông dân thực hiện. Quy mô sản
xuất trung bình mỗi hộ 3-4 sào dâu. Ở nước ta không có mô hình nuôi tằm tập trung kiểu
các trang trại quy mô lớn. Việc nuôi tằm tập trung chỉ thực hiện đối với tằm con, khi tằm
lớn, phân phát cho các hộ gia đình nông dân nuôi. Công nghệ ươm tơ cũng rất lạc hậu
dẫn đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng tơ tằm là rất thấp. Vì vậy, hiện nay Việt Nam
vẫn phải nhập khẩu tơ của Trung Quốc để phục vụ công tác kéo sợi và dệt vải.

2.1.3. Ngành sợi
Ngành sợi được coi là hoạt động sản xuất đầu nguồn trong công nghiệp dệt may.
Trong thời gian qua, ngành sợi Việt Nam cũng đạt được mức độ tăng trưởng khá. Năm
2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành sợi xấp xỉ 430 triệu USD tăng gần 120% so
với năm 2008. Chỉ trong gần 10 năm, từ năm 2000-2009, số lượng cọc sợi đã tăng lên
gần 4 lần, năng lực sản xuất ngành sợi tăng trên 4 lần. Số lượng các doanh nghiệp tham
gia vào lĩnh vực sản xuất sợi năm 2009 là 145 doanh nghiệp.

Nhóm 6

Trang |8


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Chỉ tiêu
Số lượng cọc sợi
Công suất

Đơn vị

2000
2005
2009
cọc
1.050.000
2.000.000
3.789.000
tấn/năm
85.000
200.000

350.000
Bảng 2.2: Năng lực sản xuất ngành sợi Việt Nam
Mặc dù đạt được những bước phát triển nhất định, ngành sợi Việt Nam vẫn phải
đối mặt với không ít những khó khăn. Những sản phẩm sợi do trong nước sản xuất vẫn
còn nhiều hạn chế và kém sức cạnh tranh so với sản phẩm sợi nhập khẩu từ nước ngoài.
Chất lượng cũng như tính đa dạng về chủng loại sản phẩm còn thấp, không đáp ứng được
nhu cầu của các doanh nghiệp dệt may. Trong số các sản phẩm sợi của Việt Nam, sản
phẩm sợi bông chải thô và sợi OE cho vải dệt kim chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 40%,
sợi Pe/Co (bông pha Polyester) chiếm khoảng 36%, sợi bông chải kỹ chiếm 22%, còn lại
các loại khác chiếm 2%. Đến nay, ngành sợi Việt Nam cẫn chưa sản xuất được các sản
phẩm sợi tổng hợp và sợi từ ngành công nghiệp hóa dầu. Ngành công nghiệp hóa dầu
Việt Nam vẫn đang bước đầu phát triển, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm hóa dầu với
100% nguyên liệu phải nhập khẩu, còn các kế hoạch hóa dầu phục vụ sản phẩm sợi như
PES, PP, PS, LAB, đã được đưa ra nhưng vẫn chưa được thực hiện trong khi nhu cầu tiêu
dùng các sản phẩm sợi dựa trên công nghiệp hóa dầu ngày càng tăng lên. Do đó dẫn đến
tình trạng các doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu sợi từ nước ngoài.
Trong khi ngành sợi thế giới (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan)
đã đi trước Việt Nam tương đối xa thể hiện ở quy mô ngành, quy mô của doanh nghiệp,
sự đa dạng về chủng loại sản phẩm, chất lượng sợi, trình độ quản lý và sự phát triển
tương đối đồng bộ của các ngành sợi – dệt – nhuộm – hoàn tất – may mặc, thì ngành sợi
Việt Nam dù đã đầu tư mới, trnag bị bổ sung và nâng cấp các thiết bị phục vụ ngành sợi
nhưng nhìn chung trang thiết bị vẫn còn lạc hậu. Một nghịch lý xảy ra là nếu đầu tư tập
trung đổi mới trang thiết bị máy móc để sản xuất ra nhiều sản phẩm sợi đáp ứng nhu cầu
thị trường trong nước và xuất khẩu thì giá thành sản phẩm sợi sẽ cao vì nhập khẩu máy
móc là không rẻ, vì vậy sẽ khó cạnh tranh với sản phẩm sợi của các nước khác, đặc biệt
là Trung Quốc.
2.1.4. Ngành dệt
Theo thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, hiện có 401 doanh nghiệp sản xuất
vải dệt thoi cho công suất 1 tỷ m2 vải năm 20009 với 21.800 máy dệt thoi và có 105
doanh nghiệp sản xuất vải dệt kim cho công suất 200.000 tấn vải năm 2009 với 3.800

máy dệt kim. So với mức công suất năm 2000 thì ngành dệt may Việt Nam cũng đã được
đầu tư và phát triển.
Về chủng loại, nhiều mặt hàng mới chưa từng sản xuất đến nay đã trở thành mặt hàng
phổ biến với nhiều doanh nghiệp dệt. Mặt hàng vải denim đã được sản xuất tại công ty
Dệt may Hà Nội và công ty dệt Phong Phú. Mặt hàng sợi bông dày, có xử lý làm bóng,
chống nhàu, phòng co như gabadin, kaki, vải chéo cho may xuất khẩu cũng được sản xuất
với chất lượng khá tốt tại tổng công ty Dệt Việt Thắng, Dệt Nam Định, Dệt Đông Á.
Thực tế là năng lực của các thiết bị dệt thấp hơn so với các thiết bị kéo sợi. Các thiết
bị công nghệ máy móc vẫn chủ yếu là máy dệt kiểu cũ, hiệu suất thấp và chưa được đầu
Nhóm 6

Trang |9


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
tư đồng bộ dẫn đến chất lượng chất lượng vải dệt chưa cao. Vẫn còn khá nhiều máy dệt
thoi khổ hẹp dưới 54 inches – loại máy đã lạc hậu trên thế giới. Nhà máy dệt lâu đời nhất
của Việt Nam là nhà máy dệt Nam Định, khoảng 115 năm, nhưng thực sự ngành dệt hoạt
động mạnh mới chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây, sau khi tăng xuất khẩu vào các thị
trường châu Âu, Nhật, Mỹ. Trước đây, ngành dệt hầu như chỉ phục vụ cho thị trường nội
địa nên về chất lượng, công nghệ, thiết bị chậm hơn so với các nước xung quanh khoảng
20 năm. Hầu hết sản lượng vải sản xuất trong nước đều chưa đáp ứng được nhu cầu xuất
khẩu. Sản lượng vải còn thấp, chủng loại mặt hàng chưa đa dạng, chất lượng thấp và
không ổn định về độ đồng đều màu và độ bền màu của vải nhuộm. Thêm vào đó, giá cả
sản phẩm không cạnh tranh và khâu tiếp thị, lưu thông, phân phối còn yếu kém là những
trở ngịa căn bản khiến vải dệt phần lớn chỉ được tiêu thụ ở thị trường trong nước, thế
nhưng hàng năm nước ta vẫn phải nhập một lượng vải lớn từ nước ngoài để phục vụ cho
hoạt động sản xuất may mặc.
2.1.5. Ngành in, nhuộm, hoàn tất
Trong ngành dệt, cho đến nay, in nhuộm vẫn là những khâu yếu nhất. Khó khăn cho

các doanh nghiệp Việt Nam là giá các thiết bị in, nhuộm thường rất cao, chi phí cho một
dây chuyền hoàn chỉnh lên đến triệu USD. Vì thế chỉ có một số doanh nghiệp lớn, được
nhà nước hỗ trợ bằng nguồn vốn tín dụng ưu đãi mới đủ sức đầu tư cho công đoạn này.
Những năm qua, trong chiến lược tăng tốc, ngành dệt may đã chú trọng đáng kể đầu
tư vào các khâu in, nhuộm. Ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam với tốc độ tăng trưởng
cao đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu về các loại hóa chất cơ bản như axit sulphuric,
axit photphoric, các loại chất tẩy sử dụng trong các công đoạn in, nhuộm, hoàn tất, đưa tỷ
lệ nội địa hóa về các loại hóa chất cơ bản đạt trung bình khoảng 80%. Song song với sự
phát triển củ ngành công nghiệp hóa chất là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị
tương ứng. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư về chiều sâu,
như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở công ty dệt Việt Thắng,
các máy in lưới quay Stock, máy in lưới phẳng Buser ở công ty dệt may Thắng Lợi và
công ty dệt 8-3, máy làm bóng trục mới cửa công ty dệt Nam Định, hệ thống xử lý trước
– xử lý hoàn tất vải pha len của công ty dệt lụa Nam Định và công ty 28 Bộ Quốc Phòng.
Gần đây nhất là dây chuyền thiết bị hiện đại của công ty dệt Yên Mỹ vừa đi vào sản xuất.
Tuy nhiên, nếu đánh giá chung về tổng thể, ngành nhuộm – in hoa – xử lý hoàn tất
của Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém: vẫn phải nhập khẩu gần như toàn bộ thuốc nhuộm
từ nước ngoài chủ yếu là các nước Nhật Bản, Đức, Nga, Séc, Hàn Quốc, Trung Quốc ,
chất trợ chỉ đáp ứng được 5-15% nhu cầu ngành dệt may, và vẫn áp dụng máy móc và
công nghệ truyền thống -> năng suất chưa cao và chất lượng còn thấp. Thêm vào đó, việc
sử dụng nhiều hóa chất và thuốc nhuộm dẫn đến việc tiêu tốn nước và năng lượng -> giá
thành sản phẩm tăng cao, giảm tính cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, còn để lại hậu
quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề khiến doanh nghiệp cũng như các cơ
quan chức năng tốn nhiều chi phí cho việc xử lý chất thải.

Nhóm 6

T r a n g | 10



Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
2.1.6. Ngành cơ khí
Vinatex là đơn vị chủ đạo và là doanh nghiệp lớn nhất trong ngành dệt may cả nước.
Bên cạnh các xưởng cơ khí của các công ty dệt thuộc Vinatex làm nhiệm vụ sửa chữa,
thay thể phụ tùng, cơ kiện thì còn có 4 công ty cơ khí chuyên ngành sản xuất các phụ
tùng, cơ kiện và trang thiết bị phục vụ cho ngành dệt may như: công ty cổ phần cơ khí
may Gia Lâm, Nam Định, Hưng Yên, Thủ Đức.
Các doanh nghiệp này đã có nhiều cố gắng nhưng do năng lực còn hạn chế, thiết bị
lạc hậu nên không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển rất nhanh của các doanh nghiệp dệt
may. Cả 4 công ty cơ khí này trị giá sản xuất mỗi năm chỉ vào khoảng 9 triệu USD,
tương đương gần 4.000 tấn phụ tùng, chủ yếu là cung cấp các phụ tùng, trang thiết bị nhỏ
lẻ như: máy trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy san chỉ, máy hút chỉ, máy dập
cúc, máy cắt vải, hệ thống chiếu sáng, hệ thống làm mát và một số phụ tùng như tủ đựng
hồ sơ, ghế ngồi may, kệ để nguyên liệu, xe vận chuyển nội bộ. Còn phụ tùng, cơ kiện cho
ngành dệt, các doanh nghiệp chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài từ 70-80%.
Tình trạng máy móc trang thiết bị nghèo nàn cũng như trình độ công nghệ sản xuất
trong nước còn lạc hậu là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng sản phẩm vải
và các sản phẩm phụ liệu của Việt Nam có chất lượng thấp so với các sản phẩm cùng loại
của các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc.
Thiết bị phụ tùng
Xơ dệt
Năm
Bông
Sợi dệt
ngành dệt may
(sợi chưa xe)
2006
481,8
221,8
213,8

439,0
2007
641,7
268,0
260,5
578,5
2008
847,8
466,5
276,9
606,7
2009
459,8
394,7
314,0
582,0
2010
565,7
674,2
412,2
763,9
2011
675,4
1150,0
549,5
983,6
2012
685,3
1200,0
509,7

898,3
Bảng 2.2: Tình hình nhập khẩu ngành dệt may giai đoạn 2006-2012
(đơn vị tính: triệu USD)
2.3. CNHT ngành sản xuất ô tô
Công nghiệp ô tô là một ngành thu hút rất nhiều nhân lực bởi nó kéo theo sự phát
triển của công nghiệp phụ trợ và các ngành sản xuất khác như thép, điện tử, hóa chất,
nhựa... Không những vậy đây là ngành sản xuất mang lại giá trị gia tăng cao.
Ngược lại, tại Việt Nam, trong số 18 thành viên của VAMA, có 12 đơn vị là liên
doanh giữa doanh nghiệp trong nước với các hãng Toyota, Ford, Honda, Mercedes-Benz,
Suzuki, Mitsubishi... với tổng vốn đăng ký không đến 1 tỉ đô la Mỹ. Mặc dù nguồn vốn
trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đổ vào ngành công nghiệp ô tô từ những năm 1995 nhưng
đến nay, hầu hết các dự án đầu tư chỉ mới dừng lại ở mức lắp ráp sản phẩm phục vụ tiêu
dùng nội địa. Chưa có nhà sản xuất ô tô nước ngoài nào tỏ ý muốn đầu tư sâu hơn vào
ngành ô tô vì cho rằng CNHT trong nước yếu kém cũng như chính sách và chiến lược
phát triển ngành chưa rõ ràng và không ổn định.
Nhóm 6

T r a n g | 11


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Trước đây, Toyota đã có ý định phát triển mẫu xe Innova tại Việt Nam. Song,
chính sách tại Việt Nam liên tục thay đổi đã làm nhà đầu tư này nản lòng. Hơn 10 năm
trước, Ford cũng coi Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn nhưng nay họ cũng không có kế
hoạch gì ở Việt Nam mà tập trung vào Thái Lan, Philippines... Cùng với đó, sự tham gia
tích cực và rộng rãi của các doanh nghiệp (doanh nghiệp) thuộc các thành phần kinh tế;
trong đó có một số Tập đoàn ô tô lớn trên thế giới như Toyota, Honda, Nissan, Mercedes
- Benz, Ford... đã làm ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam “nóng dần” lên. Hiện đã có
18 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 38 doanh nghiệp trong nước
tham gia sản xuất, lắp ráp ô tô với năng lực khoảng 460.000 xe/năm.

Tuy nhiên, theo tính toán, giá thành sản xuất ô tô tại Việt Nam cao hơn khoảng
20% so với các nước ASEAN do sản lượng thấp, hầu hết các dây chuyền lắp ráp chỉ hoạt
động đến 50% công suất.
Ông Nguyễn Mạnh Quân, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng - Bộ Công Thương
đánh giá, một số mục tiêu quan trọng của quy hoạch như tỷ lệ nội địa hoá, thị trường tiêu
thụ đã không thực hiện được. Nguyên nhân một phần do chúng ta đặt kỳ vọng quá cao và
chưa lường hết khó khăn về phát triển hạ tầng giao thông. Thị trường ô tô nội địa thực tế
quá nhỏ bé với sản lượng xe sản xuất, lắp ráp chỉ ở mức từ 100.000 - 120.000 xe/năm với
hàng trăm mẫu mã, chủng loại xe. Vì vậy việc đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư sản xuất phụ
tùng, linh kiện phục vụ sản xuất, lắp ráp ô tô cũng không hấp dẫn.
Trong khi đó, nhìn sang Thái Lan, hiện quốc gia này đã đạt sản lượng 2,8 triệu xe,
xuất khẩu khoảng 1 triệu chiếc và lọt vào Top 10 nước xuất khẩu xe hàng đầu trên thế
giới, đóng góp khoảng 12% GDP. Thành công này nhờ Chính phủ Thái Lan mở cửa
ngành ô tô cho các nhà đầu tư nước ngoài bằng việc bảo hộ thuế nhập khẩu dành cho sản
xuất và áp dụng các đòi hỏi nhằm thúc đẩy phát triển ngành CNHT; giảm thuế từ 30
xuống 20% cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô, thấp hơn các nước trong khu vực. Bên
cạnh đó, Thái Lan luôn khuyến khích các công ty trong nước sản xuất phụ tùng để tăng
cường khả năng cạnh tranh về giá, riêng xuất khẩu phụ tùng mỗi năm đạt giá trị khoảng 5
tỷ USD, hơn tất cả các nước ASEAN gộp lại
Về ngành sản xuất và lắp ráp ô tô: mỗi chiếc xe hơi đều cần 20.000-30.000 chi
tiết, trong khi đó số doanh nghiệp việt nam sản xuất linh kiện còn quá ít, hơn nữa một số
doanh nghiệp chỉ sản xuất được một số loại sản phẩm đoan giản như bảng điện, dây điện,
phụ tùng nhựa, đệm cao su, săm lốp,…trong khi đó Thái Lan xuất khẩu ô tô với linh kiện,
phụ tùng sản xuất tại chỗ với khoảng 15 nhà máy lắp ráp có trên 1.800 nhà cung ứng sản
phẩm hỗ trợ và hiện có đến 19 ngành CNHT ở 3 cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị- phụ tùnglinh kiện và dịch vụ. Có lẽ câu chuyện thất bại chiến lược nội địa hóa của ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam là một minh chứng rõ nhất cho thấy, ngành CNHT nước ta phát
triển không như mong muốn, dù được kỳ vọng với nhiều chính sách ưu đãi phát triển
nhưng đến nay tỉ lệ nội địa hóa vẫn còn rất thấp, chỉ khoảng trên dưới 10% đối với xe
con, do dung lượng thị trường thấp nên không thu hút được doanh nghiệp sản xuất phụ
tùng tham gia chuỗi cung ứng.


Nhóm 6

T r a n g | 12


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp (VEAM), với sự góp mặt của các
nhà sản xuất ôtô hàng đầu thế giới, sau gần 2 thập niên hoạt động, đến nay tỷ lệ nội địa
hóa mới đạt từ 5- 20%. Số lượng các nhà cung cấp chỉ là con số lẻ so với Thái Lan.
Những phụ tùng và linh kiện đơn giản được nội địa hóa là săm, lốp, dây điện, ghế ngồi,
bàn đạp, chân ga, chân phanh và ăng ten cho radio trong xe. Hầu hết các bộ phận đều
phải nhập khẩu, từ động cơ đến các vật liệu, chi tiết đơn giản khác như vải bạt, da, mút,
ốc vít…
Công nghiệp ô tô được hoạch định và kỳ vọng rất lớn đến năm 2010 đạt tỷ lệ nội
địa hóa cao (40-60%), tự chủ công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước (6080%), hướng tới xuất khẩu ô tô và phụ tùng. Tuy nhiên hầu hết các chỉ tiêu đều không đạt
được, đặc biệt đối với dòng xe con và xe chuyên dùng (tỷ lệ hiện tại dưới 25%). Các chi
tiết linh kiện phụ tùng có hàm lượng kỹ thuật cao như động cơ, hộp số đều chưa thể sản
xuất trong nước. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường ô tô chưa được mở ra như mong
đợi, sản lượng thấp nên khó có thể đầu tư vào ngành CNHT.
Công nghiệp ôtô Việt Nam sẽ đứng trước thử thách nghiệt ngã khi Việt Nam thực
hiện cam kết trong AFTA về lộ trình giảm thuế vào năm 2018. Nếu không có các đột phá
về chính sách thì rất dễ hình dung “hình hài” của ngành công nghiệp ôtô như thế nào sau
giai đoạn này. Trong 11 tháng đầu năm 2012, nhập khẩu nhóm hàng phương tiện vận tải
và phụ tùng các loại lên tới 4,15 tỷ USD, tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước.
CNHT ôtô Việt Nam đang dẫm chân tại chỗ. Sau 20 năm hoạt động, số doanh
nghiệp sản xuất linh kiện không phát triển, tỷ lệ nội địa hoá chỉ đạt tới 5 – 10% và giới
hạn vào các linh kiện kỹ thuật thô sơ như ắc quy, dây điện, các chi tiết nhựa đơn giản,...
Vì sao?
Lý do thứ nhất: công nghiệp lắp ráp đã không giữ được vai trò đầu tầu, số lượng

sản xuất quá thấp và quá phân tán ra nhiều hiệu xe và mẫu xe nên số lượng linh kiện
không đủ quan trọng để xây dựng một cơ sở sản xuất tại chỗ. Lý do thứ hai: CNHT Việt
Nam đã không hội nhập được vào dây chuyền sản xuất ô tô thế giới, hay đúng hơn Việt
Nam chưa có kế hoạch với tầm vóc quy mô để phát triển lãnh vực này. Sơ đồ cấu trúc tổ
chức công nghiệp ôtô dưới đây trình bầy những liên hệ mật thiết giữa các công nghiệp
ôtô và hỗ trợ, do đó hội nhập vào dây chuyền sản xuất của các công ty ôtô quốc tế là điều
cần thiết để phát triển các ngành sản xuất phụ tùng.
Vai trò của các doanh nghiệp tư nhân
Thành phần nòng cốt của CNHT ôtô là các doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và
trung bình nên mức độ cạnh tranh rất cao. Điển hình là trong thời gian qua, một số doanh
nghiệp sản xuất phụ tùng Nhật quy mô nhỏ đầu tư vào Việt Nam và đã phát triển tốt vì
biết tận dụng tối ưu những thuận lợi địa phương và cũng vượt qua được những khó khăn
bởi những giới hận về nguyên vật liệu phụ thuộc vào nhập khẩu. Như vậy, xây dựng
CNHT ôtô cần phải dựa trên những doanh nghiệp linh động như vậy vì hội nhập vào thị
trường quốc tế có nghĩa là phải cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài, phải
chấp nhận tham gia trận đấu mà trọng tài là thị trường và kỹ thuật chơi là tối ưu hóa. Dựa

Nhóm 6

T r a n g | 13


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
trên kinh nghiệm quốc tế, các doanh nghiệp vốn nhà nước không phải là những cầu thủ
xuất sắc.
Cơ hội đến từ ASEAN
Khi hàng rào thuế nhập bị bãi bỏ vào năm 2018, theo hiệp ước AFTA, công
nghiệp ô tô Việt Nam khó có chỗ đứng, nhưng ngành phụ tùng thì có thể còn một cơ hội
phát triển trong khuôn khổ của công nghiệp ô tô ASEAN
Một điều đáng ghi nhận từ sự cố gắng của Công ty CP Ô-tô Trường Hải (Thaco) khi

vượt khó cùng với quyết tâm để có một sản phẩm mang thương hiệu Made in Vietnam thì
cũng mới đạt tỷ lệ nội địa hóa bình quân từ 15 đến 18% đối với xe con và khoảng 33%
đối với xe tải nhẹ. Thực tế ngành CNHT cho ngành công nghiệp ô-tô đã hình thành,
nhưng còn yếu kém. Mục tiêu Quy hoạch đặt ra tỷ lệ sản xuất trong nước đối với động cơ
và hộp số là 50- 90% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay vẫn chưa sản xuất được, mặc dù
số lượng doanh nghiệp tham gia ngành công nghiệp phụ trợ này đến nay khoảng 210
doanh nghiệp. Nhưng những doanh nghiệp này chủ yếu thuộc loại vừa và nhỏ và chỉ sản
xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như
gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, sản phẩm nhựa…, một số doanh nghiệp đầu
tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.
Ngoài ra, chúng ta vẫn chưa tạo được sự hợp tác, liên kết và chuyên môn hoá giữa
các doanh nghiệp trong việc sản xuất, lắp ráp ô-tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Và
cũng chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh
kiện quy mô lớn.
Thực trạng CNHT ngành ô tô
Cũng do linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước khan hiếm nên hầu hết các linh
kiện, phụ tùng Việt Nam đang sử dụng phải nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc, Thái
Lan, Malaysia…Mặc dù nhập khẩu như vậy nhưng không phải điều kiện nhập hàng và
chất lượng lúc nào cũng đồng đều và thuận lợi. Các hãng xe như Toyota, Ford,
Mazda…có nhà máy tại Việt Nam thời gian qua phải nhập khẩu phụ tùng ở nước ngoài
về phục vụ cho lắp ráp cho các nhà máy ô tô của họ. Hãng nào nhập ít cũng phải từ vài
trăm triệu USD mỗi năm. Ví dụ như hãng Toyota, năm 2002 đã nhập khẩu linh kiện trị
giá 150 triệu USD, năm 2005 nhập đến 460 triệu; hãng Mazda cũng nhập gía trị linh kiện
lên tới 280 triệu USD.
Trong khi các doanh nghiệp lắp ráp phải đi nhập linh kiện từ nước ngoài về thì
việc sản xuất linh kiện phụ tùng trong nước lại dậm chân tại chỗ. Doanh thu cả năm chưa
bằng một số lẻ của các hãng nhập về, cụ thể là năm 2005 doanh thu từ sản xuất linh kiện
chỉ đạt tới 2,3 triệu USD
Như vậy, sau khi xem xét thực trạng phát triển chung của các ngành CNHT và đi
sâu vào phân tích hai ngành tiêu biểu, những vấn đề còn tồn tại của nền CNHT Việt Nam

có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, các khó khăn về quy mô cầu: Thị trường Việt Nam cho các nhà lắp ráp,
đặc biệt là các nhà sản xuất ô tô còn khá nhỏ

Nhóm 6

T r a n g | 14


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Thứ hai, khoảng cách chất lượng giữa các công ty cung cấp trong nước và yêu cầu
của các nhà lắp ráp FDI còn khá lớn
Thứ ba, tình trạng thiếu kênh thông tin: sợi dây liên kết giữa các công ty cung cấp
trong nước và các nhà lắp ráp còn khá lỏng lẻo, thiếu một cơ sở dữ liệu về các nhà cung
cấp nội địa để các doanh nghiệp lắp ráp tìm kiếm.
Thứ tư, máy móc của các doanh nghiệp cung cấp nội địa còn lạc hậu, chưa đáp
ứng được những đòi hỏi về tiêu chuẩn công nghệ đối với ngành CNHT
Tuy nhiên, không thể phủ nhận những lợi thế của Việt Nam trong việc phát triển
các ngành CNHT trong tương lai. Có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, giá nhân công rẻ. Đây là một trong những lợi thế để thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đồng thời cũng là một yếu tố để giảm chi phí,
nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này
Thứ hai, lao động có tay nghề khéo. Đây là một nhân tố vô cùng quan trọng để xây
dựng và phát triển ngành CNHT. Như đã phân tích ở trên, nguồn nhân lực có trình độ cao
thậm chí còn được coi có ưu thế hơn so với máy móc hiện đại.

Nhóm 6

T r a n g | 15



Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
III. Bài học quốc tế và giải pháp cho Việt Nam
1. Bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới
1.1. Kinh nghiệm của Malaysia
1.1.1. Các cơ chế khuyến khích, ưu đãi
Quá trình phê duyệt
Tại Malaixia, việc cấp ưu đãi thuế và phi thuế cho các doanh nghiệp tư nhân
dựa trên hai bước: danh sách đã công bố và kết quả đánh giá có tổ chức. Việc đầu tư
xin hưởng ưu đãi phải thuộc danh sách các hoạt động ưu tiên do cơ quan chuyên trách về
cấp giấy phép đầu tư ban hành (MIDA). MIDA thành lập năm 1967, là cơ quan chuyên
trách về cấp giấy phép đầu tư và ưu đãi đầu tư. Ưu đãi không được cấp tự động mà phụ
thuộc vào việc liệu đầu tư đó có đáp ứng được hay không các mục tiêu đã xác định
trong chính sách phát triển quốc gia như đổi mới, kết nối và tạo ra giá trị. Cơ quan cấp
phép có thể từ chối nếu thấy dự án có các yếu tố tiêu cực như gây quan ngại về môi
trường, quá tải thị trường trong nước hay thương mại và môi giới không tạo ra nhiều giá
trị. Giấy phép đầu tư và ưu đãi đều do cơ quan trung ương cấp mà không phân cấp cho
chính quyền địa phương.
Các ưu đãi này được quản lý bằng cách kết hợp danh mục hợp lệ và đánh giá có tổ
chức cho từng trường hợp. Để có được ưu đãi, các hoạt động và sản phẩm phải nằm
trong danh mục hợp lệ, nhưng đây mới là điều kiện cần. Ưu đãi có thực sự được cấp hay
không còn phụ thuộc vào kết quả đánh giá do Ủy ban hành động của MIDA quyết định
tại các buổi họp hàng tuần.
Một điều đáng chú ý là đặc điểm chung của các dự án xúc tiến CNHT là chủ yếu
dành cho các nhà cung cấp của công nghiệp ô tô và công nghiệp điện-điện tử (tương tự ở
Thái Lan). Ở cả hai nước này, thuật ngữ CNHT không bao gồm các ngành công nghiệp
phi cơ khí như dệt may, da giầy và chế biến thực phẩm.
Các chương trình ưu đãi chính của MIDA:
- Ưu đãi thuế dành cho các nhà sản xuất chế tạo gồm giảm một phần hay toàn bộ thuế
thu nhập doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, và miễn thuế nhập khẩu, thuế bán

hàng và thuế tiêu thụ đặc biệt. Các chương trình ưu đãi cơ bản ở Malaixia gồm có tư cách
tiên phong (PS) và trợ cấp thuế đầu tư do MIDA quản lý. Hệ thống ưu đãi dành cho các
nhà sản xuất chế tạo được phân loại thành 18 nhóm và nhiều tiểu nhóm khác nhau, thực
chất là những biến thể hoặc ưu đãi hơn của một trong những chương trình cơ bản này.
Những ưu đãi này được cấp theo Luật Xúc tiến Đầu tư (1986 – văn bản pháp luật chính),
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (1967), Luật Hải quan (1967), Luật Thuế bán hàng
(1972), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (1976), và Luật Khu tự do (1990).
- Tư cách tiên phong (PS): miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong khoảng từ 70%
đến 100% thu nhập hợp pháp trong vòng từ 5 đến 10 năm); Chương trình này được khởi
xướng năm 1958, đây là chương trình ưu đãi lâu đời nhất của Malaixia. Một doanh
nghiệp được công nhận tư cách này sẽ hưởng 5 năm miễn 70% thuế thu nhập doanh
nghiệp (chỉ trả 30%) thường ở mức 25% thu nhập hợp pháp (được định nghĩa là tổng thu
nhập trừ chi phí kinh doanh và trợ cấp vốn). Thời gian hưởng ưu đãi này bắt đầu từ
Nhóm 6

T r a n g | 16


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
“ngày sản xuất” của doanh nghiệp được định nghĩa là ngày mức sản xuất đạt 30% năng
lực sản xuất. Trợ cấp vốn chưa khấu trừ và thua lỗ tích lũy trong thời gian thụ hưởng tư
cách tiên phong có thể được chuyển sang và khấu trừ vào thu nhập sau thời gian
hưởng tư cách tiên phong.
- Trợ cấp thuế đầu tư (ITA): 60% đến 100% chi phí vốn hợp lệ trong vòng 5 đến 10
năm có thể được bù bằng 70% đến 100% thu nhập hợp pháp). Là hình thức ưu đãi
thay thế của tư cách tiên phong, một doanh nghiệp có thể chọn ITA để được nhận trợ cấp
60% chi phí vốn hợp lệ (cơ cấu, máy móc, thiết bị) cho dự án đã được thông qua trong
vòng 5 năm kể từ ngày chi phí vốn hợp lệ đầu tiên được thực hiện. Doanh nghiệp có thể
khấu trừ trợ cấp này vào 70% thu nhập hợp pháp từng năm. Phần trợ cấp chưa sử dụng
có thể được chuyển sang những năm tiếp theo cho đến khi sử dụng hết. 30% còn lại của

thu nhập hợp pháp sẽ chịu thuế tại mức thuế hiện hành.
Nhà đầu tư lần đầu tiên chỉ có thể chọn một trong hai hình thức PS hay ITA. Ngoài
ra, doanh nghiệp cũng được miễn thuế nhập khẩu và thuế bán hàng đối với các
nguyên liệu thô, linh phụ kiện và máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ mục đích sản
xuất, không phải để kinh doanh thương mại.
Đối với cả hai hình thức PS và ITA, miễn hay trợ cấp vốn 100% (hoặc 70%) có thể
cấp cho các dự án, sản phẩm hay khu vực địa lý dưới đây nếu chúng nằm trong danh
mục đầu tư hợp lệ trong các văn bản tương ứng.
- Trợ cấp tái đầu tư (RA): 60% chi phí vốn hợp lệ có thể được bù bằng 70% đến
100% thu nhập hợp pháp).
Ngoài ra còn có các hình thức ưu đãi khác như trợ cấp vốn gia tốc, duy trì chất lượng
nguồn cấp điện, thiết bị đảm bảo an ninh, v.v. với điều kiện các dự án đầu tư phải thuộc
danh mục đầu tư hợp lệ.
1.1.2. Cơ chế tài chính
Bên cạnh các tổ chức tài chính tư nhân, Malaixia có một loạt các chương trình do nhà
nước tài trợ và vận hành nhằm cấp vốn cho SME khởi nghiệp, mở rộng kinh doanh, đầu
tư ra nước ngoài và khôi phục kinh doanh. Giống như các biện pháp hỗ trợ khác, trách
nhiệm cấp vốn cho SME được phân bổ cho các cơ quan và tổ chức tài chính khác nhau.
Các tổ chức tham gia vào cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp CNHT của
Malaysia là Ngân hàng Negara (NHTW), các Tổ chức Tài chính Phát triển, các công ty
đầu tư mạo hiểm. Theo quy định của Chính phủ, các SME có thể sử dụng các nguồn tài
chính khác nhau này và chọn ra những tổ chức phù hợp nhất với nhu cầu của mình.
Bên cạnh đó, chính phủ Malaixia cũng triển khai một số lượng lớn (114) các quỹ
và chương trình dành cho SME, bao gồm trợ cấp, vốn cổ phần, vốn vay ưu đãi, vốn
mạo hiểm và các sáng kiến vốn vay và vốn cổ phần. Các quỹ và chương trình này nhằm
mục đích khuyến khích đổi mới, nâng cấp công nghệ, lập kế hoạch marketing và chiến
lược (mục tiêu kinh tế) cũng như phát triển SME Bumiputra và tạo công ăn việc làm cho
thanh niên và sinh viên mới tốt nghiệp (mục tiêu xã hội).
Ngoài ra còn có Ngân hàng SME cấp vốn và hỗ trợ tư vấn cho SME thuộc ngành
công nghiệp chế tạo, dịch vụ và xây dựng và đặc biệt chú ý đến sự phát triển của

Nhóm 6

T r a n g | 17


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Cộng đồng Thương mại và Công nghiệp Bumiputra (BCIC). Ngân hàng có năm loại hình
vốn vay gồm “khởi nghiệp,” “chuyên môn,” “đặc quyền kinh doanh,” “thu mua” (dành
cho nhà cung cấp) và “toàn cầu” bao trùm cả vốn vay thông thường và vốn vay Hồi giáo,
vốn cổ phần và đầu tư. Ngoài vốn vay, Ngân hàng SME cũng cung cấp các dịch vụ khác
như đánh giá kinh doanh, kết nối kinh doanh. Ngân hàng hợp tác chặt chẽ với các đối tác
chiến lược (các cơ quan nhà nước khác, các hiệp hội kinh doanh, các trường đại học và
các ngân hàng thương mại) để mở rộng dịch vụ mà ngân hàng chưa tự cung cấp được.
Một chương trình đáng quan tâm về mặt chính sách đó là Chương trình Nhà xưởng
Ngân hàng SME - một chương trình cho thuê nhà xưởng chỉ dành cho các doanh nghiệp
Bumiputra với giá cho thuê ưu đãi và gói hỗ trợ toàn diện. Các doanh nghiệp thuê
có thể hưởng dịch vụ bổ sung như hỗ trợ tài chính, đào tạo, kết nối và tư vấn, và hỗ trợ
kỹ thuật. Chương trình Nhà xưởng bắt đầu từ năm 1984, hiện nay trên cả nước có tổng
cộng 422 lô nhà xưởng (diện tích từ 900-7.300 fit vuông) và 94% diện tích đã được lấp
đầy. Các ngành ưu tiên gồm có thực phẩm, hóa chất và cơ khí (bao gồm nhà cung cấp
cho Proton). Một doanh nghiệp có thể thuê 3 lô và thời gian tối đa là 9 năm. Ngân hàng
SME xem đây là một hình thức hỗ trợ tạm thời cho SME phát triển và khuyến khích
doanh nghiệp chuyển ra ngoài sau khi đạt được những thành công ban đầu. Cho đến
nay, đã có 60 doanh nghiệp đã tốt nghiệp (chuyển ra ngoài) chương trình này.
Ngoài ra còn có một số tổ chức khác cần phải kể đến là Công ty Tài chính Phát triển
Công nghiệp Malaysia (MIDF) (là một tổ chức tài chính phát triển khác có tám chương
trình vốn vay) và Tổng Công ty Bảo lãnh Tín dụng (CGC) (đến nay đã bảo lãnh 42 tỉ
RM cho khoảng 390.000 SME không đủ tài sản thế chấp.
1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Ủy ban đầu tư (BOI) chịu trách nhiệm phê duyệt và cấp ưu đãi đầu tư, đưa ra hai

loại ưu đãi: ưu đãi thuế và ưu đãi phi thuế dựa trên hệ thống phân vùng. Ưu đãi thuế bao
gồm miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu máy móc và nguyên liệu thô cũng như miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp. Các ưu đãi phi thuế bao gồm cho phép thuê công nhân nước
ngoài, sở hữu đất và mang hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài (Bảng 2).

Nhóm 6

T r a n g | 18


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Bảng 3.1: Các chính sách ưu đãi chính của Ủy ban Đầu tư Thái Lan
Văn bản

Loại dự án

Quyền và lợi ích

Thông
báo Số
1/2543
của BOI
(hệ
thống
vùng)

Vùng 1:
6 tỉnh trung ương có
thu nhập cao và cơ sở
hạ tầng tốt


- Giảm 50% thuế nhập khẩu máy móc
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm
- Miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô hoặc
nguyên liệu cần thiết sử dụng để sản xuất hàng
xuất khẩu trong 1 năm

Vùng 2:
12 tỉnh

- Giảm 50% thuế nhập khẩu máy móc
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm
(5 năm đối với các dự án nằm trong các đồn điền
công nghiệp hoặc các khu công nghiệp được ưu
tiên)
- Miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô hoặc
nguyên liệu cần thiết sử dụng để sản xuất hàng
xuất khẩu trong 1 năm

Vùng 3:
58 tỉnh có thu nhập
thấp và sở hạ tầng kém
phát triển hơn

- Miễn thuế nhập khẩu máy móc
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm
- Miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô hoặc
nguyên liệu cần thiết sử dụng để sản xuất hàng
xuất khẩu trong 5 năm


Thông
báo Số
4/2549
của BOI

Ngành công nghiệp
điện
tử và thiết bị điện: Sản
xuất tất cả đồ điện tử,
điện tử gia dụng và các
linh phụ kiện do BOI
qui định

- Miễn thuế nhập khẩu máy móc cho tất cả các
vùng
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm
cho các dự án ở Vùng 1; 6 năm ở Vùng 2 và 7 năm
cho các dự án thuộc các đồn điền công nghiệp hoặc
khu công nghiệp được ưu tiên; và 8 năm ở Vùng 3.
- Các dự án khác theo Thông báo số 1/2543 của
BOI

Thông
báo Số
10/2552
của
BOI

Các hoạt động ưu tiên:
Các hoạt động thuộc 7

lĩnh vực do BOI xếp
loại được ưu tiên: nông
nghiệp, khai khoáng,
công nghiệp nhẹ, máy
móc, điện-điện tử, hóa
chất và dịch vụ

- Miễn thuế nhập khẩu máy móc ở bất kể ở
vùng nào
- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm
ở bất kể ở vùng nào
- Những hoạt động khác sẽ được hưởng ưu đãi
theo Thông báo số 1/2543 của BOI

Nhóm 6

T r a n g | 19


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Có tầm quan trọng đặc
biệt và mang lại lợi ích
cho quốc gia: Các hoạt
động được BOI xếp loại
là quan trọng và mang
lại lợi ích cho quốc gia

- Miễn thuế nhập khẩu máy móc ở bất kể ở
vùng
nào

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm
bất kể ở vùng nào, KHÔNG phụ thuộc vào mức
trần
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp
- Những hoạt động khác sẽ được ưu tiên theo
Thông báo số 1/2543 của BOI
Nguồn: Trang web của Ủy ban Đầu tư Thái Lan.

Các lĩnh vực được ưu đãi ở đây được xác định theo Thông báo số 10/2552 của Ủy
ban Đầu tư, theo đó, 2 trong số 7 lĩnh vực trong đó có các hoạt động được ưu tiên. Các
hạng mục được liệt kê là các nhóm lớn, trong đó có thể được quy định các hạng mục
cụ thể hơn.
1.2.1. Quá trình phê duyệt ưu đãi
Cũng như ở Malaixia, phê duyệt dự án không được cấp tự động mà phải do Văn
phòng BOI hoặc đích thân BOI xem xét, cân nhắc tùy theo vốn đầu tư và một số tiêu chí
khác. Điều đáng lưu ý là cấp cao hơn sẽ ra quyết định đối với dự án lớn hướng vào thị
trường trong nước mà không phải là thị trường xuất khẩu. Việc phê duyệt dự án đầu tư
và cấp ưu đãi ở Thái Lan do BOI quản lý tập trung. Quyền phê duyệt các dự án và cấp
các ưu đãi không được trao cho chính quyền địa phương để ngăn chặn việc cạnh tranh
quá mức giữa các địa phương và tổn thất doanh thu từ thuế không đáng có. Việc đối xử
ưu đãi đối với các khu vực kém phát triển hơn cũng được quản lý tập trung thông qua hệ
thống phân vùng.
1.2.2. Cơ chế tài chính
Ở Thái Lan có 4 tổ chức tài chính dành cho SME trong CNHT, bao gồm: Ngân
hàng Phát triển SME Thái Lan (Ngân hàng SME), Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác
xã nông nghiệp (Ngân hàng phát triển nông thôn), Ngân hàng Tiết kiệm Trung ương
(Ngân hàng nhân dân), và Ngân hàng xuất-nhập khẩu Thái Lan (Ngân hàng xuất khẩu).
Hoạt động đào tạo và tư vấn về công nghệ và quản lý do MOI giám sát không liên quan
chặt chẽ với vấn đề tài chính cho SME.
Một trong những sản phẩm mới mang tính sáng tạo của Ngân hàng SME là gói tín

dụng OTOP (mỗi làng một sản phẩm) nhằm hỗ trợ và khuyến khích nhóm cá nhân phát
triển một loại hình kinh doanh tại một làng cụ thể. Tổng ngân sách cho gói tín dụng
OTOP là 5 tỷ Bạt (khoảng 150 triệu USD) với mức tín dụng cá nhân tối đa là 1 triệu Bạt
(khoảng 30.000 USD). Một sản phẩm có tính sáng tạo khác nữa là Chương trình Vốn hóa
tài sản (Asset Capitalization Programs) nhằm xem xét sử dụng tài sản hữu hình hay vô
hình của những người có thu nhập thấp như quyền thuê đất công cộng, phương tiện sản
xuất và quyền sở hữu trí tuệ làm tài sản thế chấp để vay tín dụng. Trong từng trường
hợp cụ thể, các tài sản thế chấp như quyền thuê đất để mở cửa hàng nhỏ, máy móc,
Nhóm 6

T r a n g | 20


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
bằng sáng chế, thương hiệu, quyền tác giả sẽ được đăng ký và lưu giữ. Khoản tín
dụng này có thể sử dụng để khởi sự kinh doanh hay dùng làm vốn luân chuyển.
Tóm lại, mỗi nước kể trên, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế (kể cả các
doanh nghiệp), cơ cấu và năng lực cạnh tranh của các ngành hàng, chiến lược phát triển
ngành và CNHT, và năng lực ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho việc đầu tư vào các
ngành CNHT và các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là những nước
đi trước, nên Việt Nam có thể học hỏi chuyên sâu, cụ thể, tùy thuộc vào thực trạng
kinh tế, CNHT và thể chế chính trị để xây dựng hệ thống các chính sách, nhất là
chính sách tài chính để thúc đẩy CNHT phát triển mạnh hơn trong thời gian tới.
2. Giải pháp thực tiễn cho tình trạng CNHT của nước ta
2.1. Một số định hướng chính sách cho CNHT của Việt Nam
Trước hết, tiếp tục phổ biến, nâng cao nhận thức rằng coi phát triển CNHT là
khâu đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh và các ngành công nghiệp chủ lực,
đóng góp phát triển bền vững trong dài hạn dựa trên : (i) cơ sở chọn lọc, các tiềm năng,
lợi thế so sánh của Việt Nam, (ii) phát huy tối đa năng lực đầu tư của các thành phần kinh
tế, đặc biệt là các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia ; và (iii) định

hướng tập trung theo một số nhóm ngành công nghiệp để phát huy tối đa hiệu quả cạnh
tranh. Cần phải xây dựng lộ trình phát triển CNHT đặt ở tầm chiến lược quốc gia, với
phạm vi phát triển của CNHT phải được giới hạn với những cân nhắc kỹ càng về mạng
lưới sản xuất khu vực Việt Nam có thể tham gia và định vị chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, nghiên cứu xây dựng các cơ chế khuyến khích tài chính hấp dẫn hơn cho
đầu tư vào CNHT đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (nhất là các doanh nghiệp có năng lực vốn lớn để đầu tư CNHT và có mạng
lưới sản xuất toàn cầu cũng như biết rõ đặt nhà máy CNHT ở đâu, lúc nào thì hiệu quả).
Xây dựng các chương trình hỗ trợ thực hiện cụ thể với các ngành hàng, các tổ chức tham
gia và có liên quan trong các chương trình tài chính cho doanh nghiệp CNHT. Xây dựng
chi tiết thủ tục phê duyệt, cách thức phối hợp giữa các ban ngành thực hiện. Đưa các
danh mục sản phẩm CNHT được ưu đãi vào các văn bản pháp luật có liên quan đến
CNHT như Luật Đầu tư, Luật Công nghệ cao, Luật Doanh nghiệp,… để thực thi.
Cần dự báo đánh giá mức cầu trong dài hạn 5-10 năm tới của một số ngành hàng
về khả năng bảo đảm lợi thế kinh tế nhờ quy mô hay không, qua đó, có thể xác định
mức độ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các MNC đầu tư vào CNHT
và cuối cùng có thể điều chỉnh chính sách ưu đãi tài chính đối với một số ngành nói
chung và CNHT nói riêng.
Ba là tăng cường chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đổi mới chính sách thu hút FDI theo hướng
tăng chế tài chuyển giao công nghệ từ các FIE cho các doanh nghiệp trong nước, đặt ra
các yêu cầu đáp ứng các yêu cầu về tiêu hao năng lượng, môi trường và an ninh quốc gia
của các dự án đầu tư.
Nghiên cứu, ban hành các cơ chế hỗ trợ thích hợp từ ngân sách nhà nước để thực
hiện xúc tiến các chương trình chuyển giao công nghệ phù hợp, hiện đại vào Việt Nam
Nhóm 6

T r a n g | 21



Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
theo từng nhóm ngành, công nghệ và giai đoạn phát triển; xây dựng cơ chế, chính sách
về hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động: chuyển giao công nghệ sản xuất sản phẩm CNHT
công nghệ cao, sản xuất thử nghiệm sản phẩm CNHT, đầu tư các phòng thí nghiệm sản
phẩm CNHT, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới để sản xuất sản
phẩm CNHT tại Việt Nam.
Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp bổ sung và liên quan khác, thông qua:
(i) Cần hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các mối liên kết trong nước và quốc
tế, cụ thể:
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về cac doanh nghiệp, nhất là các nhà cung ứng CNHT
thông qua thiết lập một cơ sở dữ liệu về CNHT, thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật,
công nghệ, sản xuất của từng nhóm nước để giúp giảm tình trạng thiếu thông tin và mở
rộng giao dịch giữa nhà lắp ráp nước ngoài và nhà cung cấp trong nước; đồng thời, dần
tạo dựng một cơ sở dữ liệu tốt giúp giảm chi phí giao dịch và thời gian.
- Xây dựng các chương trình kết nối các doanh nghiệp FIE và các doanh nghiệp
trong nước thông qua việc tiếp tục nâng cao hiệu quả các chương trình kết nối như triển
lãm, hội chợ ngược, tổ chức các đoàn doanh nghiệp, hội chợ… ; qua đó, tạo được mạng
lưới, hợp tác và liên kết kinh doanh, nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành nghề, tập
trung hỗ trợ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ.
(ii) Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây dựng và nâng cao hiệu
quả, mức độ lan tỏa của các chương trình đào tạo phối hợp giữa công ty có vốn đầu tư
nước ngoài với các nhà cung cấp. Các chương trình này nhằm mục tiêu chuyển giao kỹ
thuật cho các công ty trong nước và cũng là cơ hội để hai bên hiểu biết, học hỏi lẫn nhau.
Với vai trò lớn hơn trong phát triển CNHT của các doanh nghiệp Nhật Bản, trước mắt,
cần thành lập một hệ thống khuyến khích và chứng nhận lao động kỹ thuật cao.
Cải cách hệ thống giáo dục, dạy nghề ở các trường phổ thông, các trường cao
đẳng công nghiệp và các trường đại học theo hướng giảm nhẹ các học phần nặng tính lý
thuyết, ý thức hệ; cập nhật, kết nối với nhu cầu, các tiêu chuẩn thực tế của các doanh
nghiệp, nhất là các FIE.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả các chương trình đào tạo về kỹ năng đàm phán,

quản trị kinh doanh, cải tiến công nghệ, dịch vụ sau bán hàng, tiếp cận tài chính, quản lý
chất lượng,…để từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất và nâng cao kỹ năng cho nhân
lực của các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Đổi mới hệ thống tuyển dụng lao động, đề bạt và đãi ngộ công chức theo hướng
coi trọng chất lượng lao động (tay nghề, trình độ chuyên môn, thái độ làm việc); giảm
nhẹ các tiêu chí hành chính – chính trị để qua đó thu hút được các cán bộ - công chức,
nhà quản lý, có trình độ cao và nâng cao năng lực quản lý và hoạch định chính sách.
2.2. Giải pháp cho ngành CNHT ở Việt Nam
Một là, đẩy mạnh việc hoàn thiện quy hoạch phát triển CNHT.
Mặc dù Bộ Công Thương đã phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, nhưng có thể nhận thấy rất
nhiều mục tiêu mà quy hoạch đề ra đến năm 2010 đã không thực hiện được. Sở dĩ có
Nhóm 6

T r a n g | 22


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
tình trạng này là vì các mục tiêu được đưa ra nhưng không có đơn vị chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện, không có kế hoạch tài chính đủ mạnh để đảm bảo việc thực hiện
các mục tiêu đó, hay rất nhiều mục tiêu đề ra còn mang tính dàn trải mà chưa tính
toán hết các yếu tố tác động của thị trường... Chính vì vậy, ngành công nghiệp hỗ trợ
ở nước ta trong những năm vừa qua vẫn ở trong tình trạng “dậm chân tại chỗ”.
Khâu đột phá đầu tiên để phát triển ngành này phải được thực hiện trên cơ sở
hoàn thiện lại quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trong đó từng ngành, từng lĩnh
vực phải rà soát và đề ra mục tiêu phát triển các sản phẩm hỗ trợ của ngành theo
phương châm “làm đến đâu chắc đến đó” và đề ra tiến độ cụ thể việc nội địa hóa cho
từng sản phẩm, từng chi tiết chứ không đề ra theo kiểu “phong trào”. Trên cơ sở rà soát
các mục tiêu đã đề ra, Bộ Công thương cùng với các ngành có liên quan cần tiến hành
hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành CNHT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm

2030. Để đảm bảo việc thực hiện được quy hoạch này, Nhà nước cần đầu tư có trọng
điểm về mặt tài chính, công nghệ, nhân lực để tạo điều kiện từng bước hiện đại hóa
các ngành như cơ khí chế tạo, điện tử, nhựa, cao su... đó là những ngành chủ chốt trong
việc phát triển các sản phẩm hỗ trợ.
Hai là, đổi mới các chính sách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư phát triển CNHT.
Muốn ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển nhanh và bền vững, Nhà nước phải
coi đây là một ngành quan trọng, cần được sự quan tâm đúng mức và phải có những
chính sách khuyến khích đủ mạnh để công nghiệp hỗ trợ phát triển. Việc đổi mới các
chính sách ưu đãi dành cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ là hết sức
cần thiết. Trong đó, cần tập trung vào việc đổi mới các chính sách chủ yếu như:
- Về chính sách đất đai, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về quỹ đất cho các
doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ (kể cả những doanh nghiệp được thành lập mới
hay những doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất) được thuê lâu dài và ổn định theo
luật định. Các doanh nghiệp này được thuê đất với mức giá ưu đãi để các chủ doanh
nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.
- Về chính sách tín dụng, Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thương mại
dành sự ưu tiên nhất định về lãi suất và hạn mức tín dụng để tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp hỗ trợ, nhất là trong trường hợp các doanh nghiệp này đầu tư hiện đại hóa
máy móc, thiết bị hay sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu cung cấp cho các
doanh nghiệp khác.
- Về chính sách thuế, cần xếp các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ vào
nhóm các doanh nghiệp được ưu đãi về thuế, để các doanh nghiệp này khi thành lập
được hưởng thời gian miễn giảm thuế như các doanh nghiệp được ưu đãi đầu tư khác.
- Về chính sách đầu tư, để phát triển ngành CNHT một cách hiệu quả thì Nhà
nước cần đầu tư hình thành một số doanh nghiệp chủ chốt ở một số lĩnh vực như cơ
khí chế tạo, nhựa, cao su, sản xuất linh kiện... theo hình thức Nhà nước đầu tư thành
lập mới doanh nghiệp ở lĩnh vực này, sau khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ triển
khai cổ phần hóa; hoặc có thể mua cổ phần ở những doanh nghiệp chủ chốt ở lĩnh vực
này, sau đó đầu tư hiện đại hóa các doanh nghiệp đó, khi các doanh nghiệp này đi vào hoạt
Nhóm 6


T r a n g | 23


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
động ổn định và kinh doanh có hiệu quả thì Nhà nước có thể bán cổ phần của mình
cho các nhà đầu tư khác. Đây là kinh nghiệm khá thành công khi được áp dụng ở
Singapore và một số quốc gia châu Á khác.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành CNHT.
Muốn đặt ra mục tiêu phát triển một ngành công nghiệp hỗ trợ mạnh và hoạt
động có hiệu quả trong tương lai, vấn đề căn bản nhất đặt ra là đó phải là một ngành
công nghiệp có thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại. Muốn vậy, chất lượng nguồn nhân
lực cũng phải được không ngừng nâng cao. Để thực hiện được điều này, ngành giáo
dục và các ngành có liên quan phải đào tạo cho được những kỹ sư có đủ trình độ về
kỹ thuật thực hành và thực tiễn, trang bị cho họ kiến thức cần thiết về công nghệ hiện
đại; mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các
trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở
đào tạo, từ các trường đại học cho đến các trường nghề để từng bước nâng dần chất
lượng của những người lao động trong tương lai. Ngoài ra, Nhà nước cũng dành một
phần ngân sách thỏa đáng để cử người đi đào tạo ở những quốc gia có truyền thống
mạnh về phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
việc phát triển CNHT của nước ta trong những năm tiếp theo.
Bốn là, tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển
CNHT.
Cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm
hỗ trợ. Bộ Công Thương và Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam cần phối
hợp với các doanh nghiệp có nhu cầu về các sản phẩm hỗ trợ cũng như các doanh
nghiệp có khả năng sản xuất những sản phẩm này để tổ chức các buổi hội thảo về
phát triển các sản phẩm hỗ trợ của từng ngành, từng lĩnh vực; tổ chức các hội chợ,

triển lãm về sản phẩm; thông qua đó làm cầu nối cho các doanh nghiệp trong và ngoài
nước liên kết, hợp tác với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc thành lập
liên doanh để cùng nhau sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Đây là cách thức rất hiệu quả
mà các doanh nghiệp trong nước có thể tạo thêm bạn hàng mới, mở rộng thị trường, tiếp
cận được các công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm hỗ trợ của
mình. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể giảm được chi phí nhập khẩu
qua đó giảm được giá thành sản phẩm và cũng giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị
trường bên ngoài.
Năm là, hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển.
Hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những giải pháp hết sức
quan trọng trong việc đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản
xuất các sản phẩm hỗ trợ. Việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ góp phần
giảm bớt chi phí cho các nhà đầu tư, giúp cho hàng hóa của họ (linh kiện, vật tư,
phụ tùng...) thuận lợi hơn trong việc lưu thông cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Do nguồn vốn đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng thường rất lớn nên Nhà
nước cần lựa chọn đầu tư những dự án có thể phát huy được hiệu quả cao ngay sau
Nhóm 6

T r a n g | 24


Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
khi được đưa vào sử dụng như: xây dựng một số tuyến đường cao tốc kết nối giữa các
trung tâm kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm, hiện đại hóa một số bến cảng, sân
bay quan trọng trong khu vực này, hiện đại hóa hệ thống viễn thông và nâng cấp hệ
thống lưới điện... Ngoài ra, cũng nên khuyến khích hình thành một số KCN hợp tác với
nước ngoài ở những vùng kinh tế trọng điểm... như mô hình KCN Việt Nam - Singapore
để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hỗ trợ của các nước này đến đầu tư tại Việt
Nam.
Sáu là, Nhà nước cần tổ chức bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo việc thực

hiện quy hoạch phát triển CNHT.
Cần thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi việc triển khai kế hoạch
phát triển các sản phẩm hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế (có thể
trực thuộc Bộ Công Thương). Để bộ phận này hoạt động có hiệu quả, cần bố trí những
cán bộ chuyên trách có năng lực để kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy hoạch cũng
như các kế hoạch phát triển ngành CNHT. Theo định kỳ, bộ phận này sẽ họp với đại
diện các ngành để nắm chắc được tình hình thực hiện, qua đó, góp phần giải quyết
những vướng mắc cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện; đồng thời, tham
mưu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp cho lãnh đạo Bộ và Chính phủ để việc tổ chức
thực hiện theo đúng lộ trình mà các quy hoạch, kế hoạch phát triển CNHT đã đề ra./.

Nhóm 6

T r a n g | 25


×