Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.8 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ LINH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Luận văn bảo đảm tính chính xác,tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Linh


MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN VỆ SINH
THỰC PHẨM

10

1. Khái niệm vệ sinh an toàn thực phẩm 10
2. Khái niệm thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm
2.1. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

13

13

2.2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

14

3. Các hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm 14
3.1.Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

14

3.2. Thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

15


3.3. Sử dụng pháp luật vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm
3.4. Áp dụng pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

15

Error! Bookmark not defined.

4. Đặc điểm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

Error! Bookmark not

defined.
4.1. Về phạm vi điều chỉnh

Error! Bookmark not defined.

4.2. Về hệ thống pháp luật điều chỉnh
4.3. Về các chủ thể thực hiện

Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.

4.3.1. Đối với chủ thể là cơ quan nhà nước

Error! Bookmark not defined.

4.3.2. Đối với chủ thể là tổ chức Error! Bookmark not defined.
4.3.3. Đối với chủ thể là cá nhân Error! Bookmark not defined.
5. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm Error!



Bookmark not defined.
5.1. Yếu tố kinh tế và lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh

Error! Bookmark not

defined.
5.2.Yếu tố pháp luật

Error! Bookmark not defined.

5.3. Yếu tố ý thức pháp luật và đạo đức của các chủ thể tham giam quan hệ pháp luật an
toàn vệ sinh thực phẩm

Error! Bookmark not defined.

5.4. Yếu tố hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Error!
Bookmark not defined.
5.5. Yếu tố kỹ thuật công nghệ

Error! Bookmark not defined.

5.6. Yếu tố tài chính, kinh phí thực hiện Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM Error!
Bookmark not defined.
2.1. Tình hình thi hành pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội
Error! Bookmark not defined.
2.2.1.Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn hà nội Error! Bookmark not
defined.

2.1.2. Nguyên nhân gây mất an toàn thực phẩm Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội
Error! Bookmark not defined.
2.2. Những quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm

Error! Bookmark

not defined.
2.2.1. Luật An toàn thực phẩm số 55/2010

Error! Bookmark not defined.

2.2.2. Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi 2015 Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Nghị định số 178/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn
thực phẩm
Error! Bookmark not defined.
2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà
Nội

Error! Bookmark not defined.


2.3.1 Những thuận lợi trong quá trình thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn Hà Nội Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Những khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn Hà Nội Error! Bookmark not defined.
2.4. Kết quả đạt được

Error! Bookmark not defined.


CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN VỆ SINH THỰC
PHẨM Error! Bookmark not defined.
3.1. Các quan điểm cơ bản về thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm

Error!

Bookmark not defined.
3.1.1. Đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi chủ thể trong quan hệ pháp luật an toàn vệ
sinh thực phẩm Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng công bằng trong quá trình triển khai và thực hiện
pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Đảm bảo tính công khai trong tổ chức thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực
phẩm Error! Bookmark not defined.
3.2. Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm
Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
defined.

Error! Bookmark not

3.2.2. Xây dựng và nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức trong
lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm
Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Giáo dục pháp luật pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm
defined.

Error! Bookmark not

3.2.4. Yêu cầu các tổ chức sản xuất, kinh doanh ký cam kết an toàn vệ sinh thực phẩm
Error! Bookmark not defined.

3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh, công bằng mọi hành vi
vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
Error! Bookmark not defined.
3.2.6. Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc thực hiện pháp luật
an toàn vệ sinh thực phẩm
Error! Bookmark not defined.


3.2.7. Đảm bảo và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ trong công tác thực hiện
pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm Error! Bookmark not defined.

3.3. Giải pháp đối với Hà Nội
KẾT LUẬN

Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn vệ sinh thực phẩm hay an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là một
môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm
bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra.
Vệ sinh an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế
biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn nghiêm trọng. Hiểu
theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ những việc cần làm liên quan
đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người

tiêu dùng. [27]
Bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe người dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát
triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá
nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực
phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh
tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ
sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị
trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào
Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản
xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong
pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò
chả, ô mai,… Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình
hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng
thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản
lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt
cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định
gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc
bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn
và nấm mốc phát triển đã dẫn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực
phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các
bệnh mạn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào
thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim
mạch và ung thư.
Có thể thấy vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm là một vấn đề hết sức cấp thiết,
có tính thời sự cao đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Điểm mấu chốt của thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm là sự xiết chặt quản



lý của các cơ quan chức năng nhà nước. Muốn làm tốt công tác quản lý vệ sinh an
toàn thực phẩm thì trước tiên phải có các văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ
ràng về vấn đề này. Sau đó là khâu áp dụng và thực hiện. Thực hiện pháp luật tốt,
có những quy định, chế tài nghiêm minh cộng với công tác tuyên truyền và phổ
biến giáo dục pháp luật đến người dân thì mới có thể đảm bảo hiệu quả của an toàn
vệ sinh thực phẩm.
Do nhận thức và trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn
thấp, đôi khi chạy theo lợi nhuận, cố tình sản xuất, kinh doanh thực phẩm không
đảm bảo an toàn, thực phẩm không đảm bảo chất lượng mà người tiêu dùng không
biết hoặc biết không đầy đủ về chất lượng sản phẩm nên đã sử dụng những sản
phẩm đó.
An toàn vệ sinh thực phẩm là một vấn đề quan trọng có tính chất sống còn đối
với sức khỏe của người dân nói riêng và sự phát triển giống nòi của cả dân tộc nói
chung. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong phần
lớn các bộ phận người dân, từ người sản xuất cho đến kinh doanh hàng hóa thực
phẩm và người tiêu dùng còn rất thấp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện nay bắt nguồn từ sự bất cập của
các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Tình trạng một sản phẩm thực phẩm chịu
sự quản lý và giám sát cùng lúc của 3-4 bộ, ngành khác nhau dẫn đến tình trạng “cha
chung không ai khóc”. Tuy có rất nhiều văn bản, nhưng vừa chồng chéo, không
phân định rõ ràng trách nhiệm quản lý giữa các bộ, ngành lại vừa thiếu sót, chưa phủ
hết các lĩnh vực, có khoảng trống giữa các khâu trong trách nhiệm quản lý liên tục
một loại sản phẩm. Một số lĩnh vực mới phát sinh (như thực phẩm chức năng, một
số độc chất và vi chất) chưa được hướng dẫn quản lý cụ thể, chi tiết nên địa phương
rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, có những quy định không phù hợp với thực tế như:
hiện tuyến xã không thể nào có đủ cán bộ chuyên môn để thực hiện việc khám sức
khỏe, thẩm định cơ sở, cấp giấy phép theo quy định; những thử nghiệm cho kết quả
ngay thì không đủ cơ sở pháp lý để xử phạt và xử lý ngay, nhằm tránh ngộ độc thực

phẩm xảy ra, còn chờ kết quả chính thức thì thực phẩm đã được tiêu thụ hết; mức xử
lý vi phạm còn chưa phù hợp với quy mô của cơ sở.
Ngoài tình trạng chồng chéo và thiếu thống nhất, vấn đề quan trọng là hiệu
quả quản lý thấp, không đi vào cuộc sống. Bên cạnh việc xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật sát với thực tiễn cuộc sống thì việc triển khai thực hiện là vấn đề
rất quan trọng cần được đẩy mạnh. Có như vậy thì luật mới có thể đi vào cuộc
sống, tạo sự thay đổi tích cực đối với xã hội.
Mặc dù đã được Quốc hội thông qua Luật An toàn thực phẩm số 55/2010, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2011; Nghị định 38/2012/NĐ-CP, ban hành 25
tháng 04 năm 2012 quy định chi tiết một số điều của Luật An toàn thực phẩm;
Nghị định 91/2012/NĐ-CP, ban hành ngày 08 tháng 11 năm 2012 quy định xử phạt
hành chính về an toàn thực phẩm cùng nhiều văn bản khác đã ghi nhận tương đối


toàn diện về quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân trong lĩnh vực an toàn vệ sinh
thực phẩm song khả năng áp dụng còn hạn chế, nội dung điều chỉnh còn mang tính
nguyên tắc và cứng nhắc. Hơn nữa việc đưa các chế tài mạnh mẽ để xử lý nghiêm
khắc các hành vi vi phạm còn chưa được chú trọng, quản lý vẫn theo nguyên tắc cũ
là giơ cao đánh khẽ do đó chưa tạo ra tính răn đe cao, nhiều hành vi với mức xử
phạt quá nhẹ nên dẫn đến tình trạng vi phạm bị xử phạt rồi lại tái phạm.
Tuy có tầm quan trọng đặc biệt như vậy nhưng vấn đề an toàn vệ sinh thực
phẩm và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này mới chỉ được chú trọng nghiên cứu
trong một vài năm trở lại đây và kết quả nghiên cứu cũng còn rất khiêm tốn. Có thể
kể đến các công trình nghiên cứu có liên quan như: Điều tra ngộ độc thực phẩm –
tiến sĩ Trần Thị Phúc Nguyệt, Đại học Y Hà Nội; Một số bệnh truyền qua thực
phẩm; Điều tra vệ sinh an toàn thực phẩm – PGS.TS. Đỗ Thị Hà – Giảng viên
chính Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng cục an toàn thực phẩm.
Ngộ độc thức ăn – GS.TS.Nguyễn Thị dụ; Pháp luật về Kiểm soát an toàn vệ sinh
thực phẩm trong hoat động thương mại ở Việt Nam” Luận văn thạc sỹ - Đặng
Công Hiển – năm 2010, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Tội vi phạm quy

định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong Luật Hình sự Vệt Nam. Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” Luận văn thạc sỹ Hoàng Trí Ngọc năm 2009, khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Có thể thấy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề an
toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu sâu về vấn đề
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà Nội một vấn đề hết sức nóng và luôn cần thiết, liên quan mật thiết đến hiệu quả của
việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Bởi muốn thực hiện tốt công tác vệ sinh
an toàn thực phẩm thì ngoài ý thức tự giác của mỗi công dân nhà nước cần phải có
chế tài nghiêm khắc được thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật buộc mỗi
công dân phải tuân thủ chấp hành. Chỉ có như vậy thì công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm mới có thể có những bước tiến mới, quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm mới
có thể kiểm soát được từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Vì vậy tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể phân tích và chỉ ra những tồn
tại, hạn chế trong hệ thống pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như việc thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực này. Đề tài không mới nhưng có tính ứng dụng cao. Rất
mong những nghiên cứu, những vấn đề đưa ra và giải quyết trong đề tài sẽ góp phần
chỉ ra những tồn đọng, bất cập trong việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung. Tiến tới để mỗi công dân
đều được hưởng những sản phẩm thực phẩm sạch và an toàn. Những cơ sở lý luận đã
được học, được tiếp cận sẽ giúp tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này. Phần nào
đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn Hà nội đã thực
sự tốt hay chưa?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Hà Nội
trong bối cảnh chung của cả nước. Đánh giá thực trạng chung về việc thực hiện
pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm của Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp
để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của thực tại, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Từ những mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam về an toàn vệ
sinh thực phẩm.
- Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện pháp
luật an toàn vệ sinh thực phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an
toàn vệ sinh thực phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn Hà nội dưới góc độ Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, lý
thuyết về thực hiện pháp luật, thực trạng hệ thống pháp luật về an toàn vệ sinh thực
phẩm, thực trạng thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Khoảng thời gian nghiên cứu: nghiên cứu về hệ thống pháp luật an toàn vệ sinh
thực phẩm và việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm từ Nhà nước ta khi
đổi mới cơ chế bao cấp sang thị trường cho đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương
pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp.
5. Nội dung nghiên cứu


CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM
1. Khái niệm vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số khái niệm liên quan an toàn thực phẩm và Luật An toàn thực phẩm
Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua
sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các

chất sử dụng như dược phẩm. [37]
Vệ sinh thực phẩm (food higyene) là một khái niệm khoa học để nói thực
phẩm không chứa vi sinh vật gây bệnh và không chứa độc tố. Ngoài ra khái niệm
vệ sinh thực phẩm còn bao gồm cả những nội dung khác như tổ chức vệ sinh trong
bảo quản và chế biến thực phẩm. [31, 5-6]
An toàn thực phẩm (food safety) là khái niệm khoa học có nội dung rộng hơn
khái niệm vệ sinh thực phẩm. An toàn thực phẩm được hiểu như khả năng không
gây ngộ độc của thực phẩm đối với con người. Nguyên nhân gây ra ngộ độc thực
phẩm không chỉ ở vi sinh vật mà còn được mở rộng ra do các chất hóa học, các yếu
tố vật lý. Khả năng gây ngộ độc không chỉ ở thực phẩm mà còn xem xét cả một
quá trình sản xuất trước thu hoạch. [31, 5-6]
Theo nghĩa rộng an toàn thực phẩm còn được hiểu là khả năng cung cấp đầy
đủ và kịp thời về số lượng chất lượng thực phẩm một khi quốc gia gặp thiên tai hay
một lý do nào đó. [31, 5-6]
Như vậy an toàn thực vệ sinh phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm
bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng
người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham gia
của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ
sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
Bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát
triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù cho đến nay đã có khá
nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và an toàn vệ sinh thực
phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như ban hành luật, điều lệ và thanh
tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng các bệnh do kém chất lượng về vệ
sinh thực phẩm và thức ăn vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Thực phẩm là nguồn cung cấp
chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng
đồng thời cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có

thực phẩm nào được coi là có giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh. Về
lâu dài thực phẩm không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe mỗi
con người mà còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực
phẩm không đảm bảo vệ sinh trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu


chứng ồ ạt, dễ nhận thấy, nhưng vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các
chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc
có thể gây các dị tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó
phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, người già, người
ốm càng nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ
suy dinh dưỡng và bệnh tật nhiều hơn.
Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm
là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã
hội rất quan trọng. An toàn vệ sinh thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần
được sản xuất, chế biến, bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn
không được chứa các chất hóa học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định
cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người
tiêu dùng. Những thiệt hại khi không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm gây nên
nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính
do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi
sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ
làm,… Đối với nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản
phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin
quảng cáo,… và thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra
còn có các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại,
giải quyết hậu quả, … Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để
phòng các bệnh gây ra từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển,

cũng như nước ta. Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho
người ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực
phẩm phải đảm bảo lành và sạch.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta chuyển sang cơ chế thị
trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào
Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và nhiều chủng loại. Việc sử dụng các
chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học
đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn
sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua
kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất
lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy trình công nghệ
đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn
xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt
cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định
gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm. Việc


bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn
và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm. Các bệnh do thực
phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các
bệnh mãn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào
thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim
mạch và ung thư.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá các chương trình hành động
đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được
nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ em là các bệnh đường ruột, phổ biến là tiêu
chảy. Đồng thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị
nhiễm khuẩn.
Ở Việt Nam, Theo thống kê của của Bộ Y tế, từ năm 2004-2009 đã có 1.058

vụ ngộ độc thực phẩm, trung bình 176,3 vụ/năm, số người bị ngộ độc thực phẩm là
5.302 người/năm, số người chết là 298 người (49,7 người/năm), tính trung bình tỷ
lệ người bị ngộ độc thực phẩm cấp tính là 7,1 người/100 ngàn dân/năm. Năm 2009
có 152 vụ ngộ độc thực phẩm với 5.212 người mắc và 31 người tử vong. So sánh
với năm 2008, số vụ ngộ độc/năm 2009 giảm 53 vụ (25,9%); số người mắc giảm
2.616 người (33,4%); số người đi viện giảm 1.888 người (31,3%); và số người bị
tử vong giảm 26 trường hợp ( 42,6%) . Về nguyên nhân ngộ độc thực phẩm,
29,6% số vụ do thực phẩm bị ô nhiễm vi sinh vật, 5,2% số vụ do hóa chất, 24,7%
do thực phẩm có sẵn độc tố tự nhiên, 40,5% số vụ không xác định được nguyên
nhân.
Riêng trong năm 2010 (tính đến 20/12/2010), cả nước đã xảy ra 175 vụ ngộ
độc (trong đó có 34 vụ ngộ độc trên 30 người) làm 5.664 người mắc và 42 trường
hợp tử vong. So sánh với số liệu trung bình/năm của giai đoạn 2006-2009, số vụ
NĐTP giảm 9,1%, số mắc giảm 17,6% và số người tử vong giảm 19,2%. Đáng chú
ý là trong số 42 người chết, có tới 14 người do uống rượu có Methanol (cồn công
nghiệp) chiếm 33,3%, tiếp theo là do ăn phải nấm (23,8%). Ngộ độc do cá nóc
cũng còn khá cao (16,7%).
Tiến bộ đáng kể trong quản lý ngộ độc thực phẩm trong năm 2009-2010 là hệ
thống thông tin ghi nhận ngộ độc thực phẩm đã thực hiện nhanh chóng, xử lý kịp
thời và các doanh nghiệp để xảy ra ngộ độc tập thể được nhắc nhở, theo dõi, có
cam kết và nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, cải thiện điều kiện an toàn thực phẩm
đối với cơ sở nấu nướng và quy trình chế biến thức ăn. Đã thiết lập được mạng lưới
cảnh bảo nhanh có liên hệ chặt chẽ với WHO, FAO, EU và các nước trên Thế giới;
bước đầu xây dựng hệ thống phân tích nguy cơ phục vụ quản lý.
Bệnh truyền qua thực phẩm là nguy cơ lớn đối với sức khỏe con người và
giống nòi do sử dụng lâu dài thực phẩm không bảo đảm an toàn thực phẩm. Hiện
có tới 400 các bệnh truyền qua thực phẩm, chủ yếu là tả, lỵ trực trùng, lỵ amip, tiêu
chảy, thương hàn, cúm gia cầm...



Tỷ lệ mắc bệnh giun sán ở nước ta còn rất cao. Có tới hơn 60.000.000 người
đang mang giun sán trong người do tập quán ăn uống mất vệ sinh (ăn gỏi cá, ăn rau
sống, ăn tiết canh, nộm...). Nhiều bệnh ký sinh trùng gây tác hại rất lớn cho sức
khỏe: gây thiếu máu, suy dinh dưỡng, viêm và áp xe gan, rối loạn tiêu hóa, thần
kinh và vận động. Bệnh sán lá gan lớn có ở 18 tỉnh, tỷ lệ mắc có nơi tới 37% như
Nam Định, Phú Yên... Bệnh sán lá gan nhỏ có ở 24 tỉnh, tỷ lệ nhiễm rất cao như
Hà Tây (40%), Thanh Hóa (38%), Nam Định (37%), Ninh Bình (30%), Phú Yên
(37%), Bình Định (30%). Ngoài ra, các bệnh ký sinh trùng khác như: giun đũa,
giun xoắn, giun kim, bệnh ấu trùng sán, giun cũng còn phổ biến. Đây là các bệnh
mà nguồn lây truyền chủ yếu qua đường thực phẩm, ăn uống. [3]
Hiện nay chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức mới. Đó là Sự bùng nổ
dân số cùng với đô thị hóa nhanh dẫn đến thay đổi thói quen ăn uống của nhân dân,
thúc đẩy phát triển dịch vụ ăn uống trên hè phố tràn lan, khó có thể đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm. Thực phẩm chế biến ngày càng nhiều, các bếp ăn tập thể
gia tăng … là nguy cơ dẩn đến hàng loạt vụ ngộ độc. Bên cạnh đó, sự gia tăng
nhanh dân số còn làm khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, trong đó nguồn nước sạch
sử dụng cho sinh hoạt và ăn uống thiếu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ô nhiễm môi trường: sự phát triển của các ngành công nghiệp dẩn đến môi
trường ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến vật nuôi và cây trồng. Mức độ thực
phẩm bị nhiễm bẩn tăng lên, đặc biệt là các vật nuôi trong ao hồ có chứa nước thải
công nghiệp, lượng tồn dư một số kim loại nặng ở các vật nuôi cao.
Sự phát triển của khoa học công nghệ: việc ứng dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, chế biến thực phẩm làm cho
nguy cơ thực phẩm bị nhiễm bẩn ngày càng tăng do lượng tồn dư thuốc bảo vệ
thực vật, hóa chất bảo quản trong rau, quả; tồn dư thuốc thú y trong thịt, thực phẩm
sử dụng công nghệ gen, sử dụng nhiều hóa chất độc hại, phụ gia không cho phép,
cũng như nhiều quy trình không đảm bảo vệ sinh gây khó khăn cho công tác quản
lý, kiểm soát.
2. Khái niệm thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm

2.1. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chó tính bắt buộc chung do Nhà nước
đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại
của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát
triển xã hội.[33, 44]
Bám vào khái niệm trên, ta có thể đưa ra một khái niệm về pháp luật vệ sinh
an toàn thực phẩm như sau:
Pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Như vậy, pháp luật vệ


sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ các văn bản luật và dưới luật, các thông tư nghị
định có liên quan điều chỉnh những vấn đề xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn
vệ sinh thực phẩm.
2.2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm là quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật an toàn vệ sinh thực
phẩm đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức.
Sau khi Luật An toàn thực phẩm được thông qua, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số điều
luật. Nhiều giải pháp về an toàn thực phẩm được triển khai trên toàn quốc. Năm
2012 Chính phủ phê duyệt Chiến lược an toàn thực phẩm từ 2011 đến 2020 tầm
nhìn tới 2030 của Bộ y tế. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể
từ trung ương đến các tỉnh thành phố, quận, huyện, xã, phường đã vào cuộc quyết
liệt để triển khai có hiệu quả các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm. Tuy
nhiên việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đôi khi còn chưa kịp thời.
Công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan chức năng còn chưa tốt. Nhiều
chính quyền địa phương coi công tác quản lý an toàn thực phẩm là trách nhiệm của

riêng ngành y tế nên công tác chỉ đạo, huy động sự tham gia của các cơ quan liên
quan chưa quyết liệt. Đầu tư kinh phí từ ngân sách còn thấp, trang thiết bị và nhân
lực còn hạn chế.
3. Các hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã
xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật;
Thứ hai, thi hành pháp luật;
Thứ ba, sử dụng pháp luật;
Thứ tư, áp dụng pháp luật.
Do đó cũng có 4 hình thức thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm:
3.1.Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Là một hình thức thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật vệ sinh
an toàn thực phẩm cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể pháp luật vệ
sinh an toàn thực phẩm thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, dưới dạng không
hành động.
Ví dụ: Điều 5 - Luật An toàn thực phẩm số 55/2010 quy định những hành vi
bị cấm trong an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó một công dân không thực hiện
những hành vi vi phạm được qui định tại điều này, tức là công dân đó tuân thủ
những qui định của luật này.
Những hành vi bị cấm:


- Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế biến thực
phẩm.
- Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc,
xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất, chế biến thực phẩm.
- Sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm đã quá thời hạn sử
dụng, ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc trong danh mục được phép sử dụng

nhưng vượt quá giới hạn cho phép; sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc, hóa chất bị
cấm sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
[37, Điều 5]
3.2. Thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Là một hình thức thực hiện pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình về vệ sinh an toàn thực
phẩm bằng hành động tích cực.
Khác với hình thức tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm, trong hình
thức thi hành pháp luật an toàn vệ sinh thực phẩm đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa
vụ pháp lý về vệ sinh an toàn thực phẩm dưới dạng hành động tích cực.
Ví dụ: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy hiểm
đến tính mạng và người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động tích cự thi
hàng qui định về nghĩa vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói
riêng.
Ví dụ: điểm 7, mục II, Quyết định số 4128/2001/QĐ-BYT ngày 03/10/2001
về việc ban hành quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm tại các nhà ăn,
bếp ăn tập thể và cơ sở kinh doanh chế biến suất ăn sẵn quy đinh về trách nhiệm
của chủ cơ sở, thương nhân có loại thức ăn gây ngộ độc khi có ngộ độc xảy ra phải
hành động một tích cực đó là báo cáo cho cơ quan y tế gần nhất đồng thời phải giữ
lại mẫu thực phẩm, thức ăn thừa gửi cơ quan y tế dự phòng. Tức là chủ cơ sở,
thương nhân bằng hành động tích cực thi hành quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm:
Khi có ngộ độc thực phẩm phải báo cáo ngay cho cơ quan y tế gần nhất và giữ
lại mẫu thực phẩm lưu, thức ăn thừa để gửi cơ quan y tế dự phòng của tỉnh hoặc
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (được gọi chung là huyện) xét nghiệm
tìm nguyên nhân. Chủ cơ sở, thương nhân có loại thức ăn gây ngộ độc sẽ phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm về hành vi sai phạm và phải trả toàn bộ mọi chi phí khám,
chữa bệnh cho bệnh nhân bị ngộ độc và chi phí tìm nguyên nhân gây ngộ độc của
các cơ quan điều tra.
[11, Điểm 7]

3.3. Sử dụng pháp luật vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm
1. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Thủy Anh, “Góp ý về chính sách, pháp luật an toàn thực phẩm”, Báo


Đại Đoàn Kết, truy cập ngày 03 tháng 12 năm 2015.
3. Bộ y tế, Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và
tầm nhìn 2020, tháng 03 năm 2011.
4. Bộ y tế, Quyết định về việc ban hành quy định về các điều kiện vệ sinh
chung đối với cơ sở sản xuất thực phẩm, số 39/2005/QĐ-BYT, ngày 28
tháng 11 năm 2005.
5. Bộ Y tế, Quyết định Bộ Y tế về việc ban hành Quy chế về công bố tiêu chuẩn
sản phẩm thực phẩm, số 42/2005/QĐ-BYT, ngày 08 tháng 12 năm 2005.
6. Bộ Y tế, Quyết định Bộ Y tế về việc ban hành Quy định điều kiện vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh, dịch vụ, phục vụ ăn uống,
số 41/2005/QĐ-BYT, ngày 08 tháng 12 năm 2005.
7. Bộ Y tế, Quyết định Bộ y tế về việc ban hành Quy định yêu cầu kiến thức
về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với người trực tiếp sản xuất, kinh
doanh thực phẩm, số 43/2005/QĐ-BYT, ngày 20 tháng 12 năm 2005.
8. Bộ Y Tế, Quyết định Bộ Y tế về việc ban hành Quy định danh mục các
chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm, số 3742/2001/QĐBYT, ngày 31 tháng 08 năm 2001.
9. Bộ Y tế, Quyết định Bộ Y tế về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Cục an toàn vệ sinh thực phẩm thuộc Bộ y tế,
số 48/2008/QĐ-BYT, ngày 30 tháng 12 năm 2008.
10.Bộ Y tế, Quyết định về việc ban hành quy định về điều kiện bảo đảm an
toàn thực phẩm tại các nhà ăn, bếp ăn tập thể và cơ sở kinh doanh chế
biến suất ăn sẵn, số 4128/2001/QĐ-BYT, ngày 03/10/2001.
11.Bộ Y tế, Quyết định về việc ban hành quy định về điều kiện bảo đảm an
toàn thực phẩm tại các nhà ăn, bếp ăn tập thể và cơ sở kinh doanh chế
biến suất ăn sẵn, số 4128/2001/QĐ-BYT, ngày 03/10/2001.

12.Nguyễn Văn Cảnh, “Sớm khắc phục chồng chéo về quản lý an toàn thực


phẩm”, Báo VietNam Plus, truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015,

13. Chính phủ, Nghị định Chính phủ về việc quy định hệ thống tổ chức quản lý,
thanh tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm, số 79/2008/NĐCP.
14. Chính phủ, Nghị định Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật An
toàn thực phẩm 2010, số 38/2012/NĐ-CP, ngày 25 tháng 04 năm 2012.
15.Chính phủ, Nghị định Chính phủ quy định về thẩm quyền xử phạt của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, số 178/2013/NĐ-CP, ngày 14 tháng 11 năm
2013.
16.Chính phủ, Nghị định Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ y tế, số 188/2007/NĐ-CP, ngày 27
tháng 12 năm 2007.
17.Chính phủ, Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính về An toàn thực phẩm, số 91/NĐ-CP, ngày 08 tháng 11 năm 2012.
18. GS.TS.Nguyễn Thị Dụ, Điều tra vệ sinh an toàn thực phẩm Ngộ độc thức ăn.
19.Trần Đáng (2004), Mối nguy vệ sinh an toàn thực phẩm- Chương trình
kiểm soát GMP, GHP và hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm HACCP, NXB Y học Hà Nội.
20.PGS.TS. Đỗ Thị Hà – Giảng viên chính Viện đào tạo Y học Dự phòng và
Y tế công cộng cục an toàn thực phẩm,Một số bệnh truyền qua thực
phẩm - Yêu cầu đối với các tổ chức trong chuỗi thực phẩm.
21. Xuân Hải, “Vi phạm về an toàn thực phẩm, phải lăn ra chết thì mới xử lý”,
Báo Lao động, , truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.
22.Đặng Công Hiển (năm 2010), “Pháp luật về Kiểm soát an toàn vệ sinh
thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ,
khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.



23.ThS. Phạm Hồng Hiếu, “Bài giảng Vệ sinh an toàn thực phẩm”, Chương
6 - Mô tả tài liệu.
24.Cao Thị Hoa (2015), “Thực trạng và hiệu quả giải pháp can thiệp thực
thi pháp luật an toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn
uống tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội”, Luận án tiến sỹ Y học, Ngành Vệ
sinh xã hội học và Tổ chức Y tế, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
25.“Kết quả thanh tra, kiểm tra An toàn thực phẩm trong dịp Tết năm 2014”,
truy cập ngày 19 tháng 03 năm 2014, .
26.“Kết quả thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm chức năng năm 2014”, VFA, Bộ Y tế, Cục An
toàn thực phẩm, truy cập ngày 07 tháng 07 năm 2014, .
27.Nguyễn Đức Lươ ̣ng và Pha ̣m Minh Tâm

(2002), “Vê ̣ sinh và an toàn

thực phẩm”, NXB ĐH Quố c Gia TPHCM, TPHCM.
28.Nguyễn Đức Lượng, Phạm Minh Tâm (2005),Vệ sinh và an toàn thực
phẩm, Đại học Bách khoa Tp.HCM.
29.Đàm Sao Mai, Trần Thị Mai Anh, Vũ Chí Hải (2010),Vệ sinh và an toàn
thực phẩm, NXB Đại học quốc gia Tp.HCM.
30. TS.Trần Thị Phúc Nguyệt, Điều tra ngộ độc thực phẩm, Đại học Y Hà Nội.
31.Hoàng Trí Ngọc (2009), “Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm trong Luật Hình sự Vệt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Luận văn thạc sỹ, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
32.Lương Đức Phẩm (1980),“Vi sinh vật học và an toàn vệ sinh thực
phẩm”, Đại học Bách khoa Tp.HCM.
33.Quốc hội, “Bộ luật hình sự 1999”, (Số: 15/1999/QH10), ngày 21 tháng
12 năm 1999 (Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật
Số: 37/2009/QH12, ngày 19 tháng 06 năm 2009.

34.Quốc hội, “Luật an toàn thực phẩm 2010”, (Số: 55/2010/QH12), ngày 17


tháng 06 năm 2010.
35.Quốc hội, “Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dung 2010”, (Số: 59/2010QH12), ngày 17 tháng 11 năm 2010.
36.Quốc hội, “Luật Đa dạng sinh học năm 2008”, (Số: 20/2008/QH12), ngày
13 tháng 11 năm 2008.
37.Quốc hội, “Nghị quyết về đẩy mạnh chính sách, pháp luật về quản lý
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm”, số 34/2009/NQ-QH12, ngày 19
tháng 06 năm 2009.
38.GS.TS.Lê Minh Tâm (2009), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật,
NXB Công an nhân dân.
39.Thủ tướng Chính phủ, “Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia An
toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030”, số 20/QĐ-TTg,
ngày 04 tháng 01 năm 2012.
40.Nguyễn Hợp Toàn (2006), Giáo trình Pháp luật Đại cương, NXB Đại
học kinh tế Quốc dân.
41.Trần Linh Thước (1998),Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước,
thực phẩm và mỹ phẩm.
42. Hà Duyên Tư (2006),“Giáo trình môn học vệ sinh an toàn thực
phẩm”,Quản lý chất lượng trong công nghệ thực phẩm, Nhà Xuất Bản
Khoa học và Kỹ thuật, HACCP cho các cơ sở chế biến thực phẩm vừa và
nhỏ, Hà Nội.
43.Lương Bảo Uyên, Bài giảng Quản lý an toàn và chất lượng thực phẩm.
44.“Xử lý vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm: Trăm sự nhờ luật!”, Báo Con
người và thiên nhiên, , truy cập ngày 13 tháng
11 năm 2015.
45.
46.
47.





×