Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác dân vận của các đơn vị QUÂN đội TRÊN địa bàn TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.63 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

Trang
3

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC
ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐỒNG NAI
1.1. Công tác dân vận và những vấn đề cơ bản chất lượng

11

công tác dân vận của các đơn vị quân đội trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai
1.2. Thực trạng chất lượng và kinh nghiệm nâng cao chất

11

lượng công tác dân vận của các đơn vị quân đội trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai
Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG

25

TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY
2.1. Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng

50



cao chất lượng công tác dân vận của các đơn vị quân
đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của các

50
63

đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

88
90
94


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân từ nhân dân mà ra, mang
bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Tiến hành
CTDV, củng cố mối quan hệ máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất
cách mạng, truyền thống quý báu và nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội
kiểu mới của Đảng. Trải qua hơn bảy thập kỷ xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành, quân đội ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ CTDV trong chiến tranh
giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Chính nhờ
đó, quân đội ta luôn nhận được sự thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ quý báu
của nhân dân và thực sự là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung
thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong các thời kỳ cách mạng.

CTDV đã trực tiếp góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt quân dân, tạo nên
nguồn sức mạnh vô địch để quân đội ta trưởng thành và chiến thắng vẻ vang.
Đồng Nai là một tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 7, nơi có nhiều đơn vị
BĐCL, BĐĐP đóng quân nơi có nhiều đơn vị BĐCL, BĐĐP đóng quân, đồng
thời là địa phương thuộc khu phát triển kinh tế động lực, năng động nhất ở
phía Nam và cả nước, một trong những địa phương có đóng góp quan trọng
vào quá trình CNH, HĐH đất nước. CĐVQĐ trên địa bàn Tỉnh đã và đang
đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển mọi mặt của địa phương bằng
những hoạt động thiết thực cụ thể, mà tiến hành CTDV là một trong những
hoạt động tiêu biểu. Trong những năm qua, CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn
Tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả đáng tự hào, góp phần quan trọng
vào xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an
ninh, đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch;
củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, phát huy bản chất cách mạng,
truyền thống quý báu của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành ưu điểm, thành tích đã đạt được,
CTDV của CĐVQĐ vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục như:
nhận thực của một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị, CB, CS chưa đầy đủ; tư duy
3


“đường mòn, lối cũ” vẫn tồn tại, nội dung, hình thức tiến hành ít được đổi
mới; việc quán triệt, triển khai thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”
và xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” chưa đều; việc phối hợp với ban, ngành,
đoàn thể địa phương để tiến hành CTDV chưa chặt chẽ...
Trong thời gian tới, yêu cầu nhiệm vụ CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai có sự phát triển mới, nặng nề, phức tạp hơn; trong khi đó điều
kiện tiến hành có những khó khăn mới nảy sinh. Sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng gia tăng, sự phân hóa giai tầng và biến đổi của các thành phần dân cư
ngày càng đa dạng, phức tạp theo nhịp độ CNH, HĐH của Tỉnh và đất nước.

Mặt trái của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh những tiêu cực tác động đến
mối quan hệ quân dân và CTDV của quân đội. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước
và chế độ XHCN của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa thật vững chắc và có biểu hiện mai một. Sự suy thoái về đạo đức xã hội,
sự phát triển của lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền đang làm xói mòn
mối quan hệ quân dân. Cùng với đó là sự gia tăng chống phá của các thế lực
thù địch trên địa bàn tỉnh Đồng Nai bằng âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết, thống nhất
dân tộc, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân. Tình hình khiếu kiện tranh
chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, ô nhiểm môi trường; đình công, lãng
công ở các khu công nghiệp vẫn còn xảy ra; một số phần tử lợi dụng vấn đề tôn
giáo, dân tôc đưa ra yêu sách đòi lại đất đai, truyền đạo trái pháp luật. Có thể
khẳng định, điều kiện, hoàn cảnh mới đang đặt ra những vấn đề mới đối với
CTDV trên địa bàn Tỉnh nói chung, chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Chất lượng công tác
dân vận của các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác dân vận của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo
4


và được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Liên
quan đến đề tài luận án có các luận văn, luận án, đề tài khoa học, bài viết đăng
tải trên các tạp chí, thông tin dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung, các
công trình tiếp cận khai thác theo ba nhóm vấn đề:
* Nhóm công trình nghiên cứu về CTDV của Quân đội và đổi mới
CTDV của QĐND Việt Nam:

Công tác dân vận của Quân đội trong tham gia giải quyết “điểm nóng”
ở địa phương - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Hà Nội, 2006; Đổi mới
CTDV của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh - Vũ Đình Tấn, Luận án tiến sĩ xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quân sự, 2001; Đổi mới CTDV của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong tình hình mới - Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Hà Nội, 1996;
CTDV của Trường Sĩ quan Lục quân 2 ở vùng đồng bào Công giáo tỉnh Đồng
Nai, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, 2006;
Chất lượng CTDV của các trung, lữ đoàn trực thuộc Quân khu 7 hiện nay Nguyễn Đăng Diễn, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà
nước, Học viện Chính trị, 2012…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, luận giải một cách toàn diện
về tầm quan trọng, thực trạng, giải pháp CTDV dưới những phạm vi, góc độ
và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Trong đó, ở những đối tượng cụ thể và
các mức độ khác nhau, vấn đề đổi mới CTDV đã được tập trung nghiên cứu
trên một số nội dung chủ yếu là:
Khẳng định vai trò của CTDV đã góp phần giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ
quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc; củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn
kết gắn bó máu thịt quân - dân và xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho
CB, CS...
Các tác giả cũng khẳng định thành tựu đạt được, hạn chế khuyết điểm
trong CTDV của toàn quân. Cùng với thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm
thường xuyên là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, CTDV của LLVT đã nghiêm
túc quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm công tác vận động
5


quần chúng của Đảng, Nhà nước vào hoạt động thực tiễn, có sự đổi mới cơ
bản, toàn diện cả về nhận thức, trách nhiệm, yêu cầu, nội dung, hình thức...
CTDV của Quân đội đã có sự đổi mới, tiến bộ rõ rệt, đạt được kết quả quan

trọng. Đó là tiền đề để tăng cường CTDV của Quân đội nói chung, CĐVQĐ
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng trong thời gian tới.
* Nhóm công trình nghiên cứu về công tác vận động quần chúng, vận
động đồng bào tôn giáo:
Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số của các đơn quân đội
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay - Vũ Tiến Thanh, Luận văn thạc sĩ Xây
dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện Chính trị, 2013; Công tác vận
động đồng bào Công giáo xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh của bộ đội
tỉnh Ninh Bình hiện nay - Phạm Anh Linh, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quân sự, 2008; Công tác vận động đồng bào dân tộc
Khmer của Đoàn B30 Quân khu 9 trong giai đoạn hiện nay - Luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, 2005; Công tác vận động quần
chúng tham gia quản lý đường biên, cột mốc của Bộ đội Biên phòng các tỉnh
biên giới phía bắc trong giai đoạn hiện nay - Bùi Duy Lợi, Luận văn thạc sĩ
xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, 2004...
Các công trình trên đều khẳng định CTDV nói chung và công tác vận
động đồng bào tôn giáo nói riêng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp
thiết nhằm tăng cường đoàn kết quân - dân, đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của đồng bào trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch. Tác giả Phạm Anh Linh chỉ rõ:
Công tác vận động đồng bào Công giáo xây dựng cơ sở địa phương vững
mạnh của bộ đội tỉnh Ninh Bình là nhằm vận động, hướng dẫn, tập hợp, tổ
chức cho đồng bào Công giáo tích cực, hăng hái tham gia xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh, ổn định về chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá - xã
6



hội, quốc phòng - an ninh, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và xây dựng
nếp sống văn minh lành mạnh cho giáo dân.
Các tác giả cũng đã làm rõ những vấn đề cơ bản về hình thức, phương
pháp vận động đồng bào tôn giáo như: vận động thông qua hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội; qua các phương tiện thông tin đại chúng; xây dựng
môi trường dân chủ XHCN; phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao
đời sống của nhân dân; thông qua hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân trong sản xuất
và đời sống; thông qua vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên…; đồng thời,
cũng rút ra kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng công tác vận động đồng bào Công giáo hiện nay.
* Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của Quân đội trong
thực hiện chính sách tôn giáo và tham gia xây dựng hệ thống
chính trị ở vùng đồng bào tôn giáo:
Vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện quan điểm,
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay - Phạm Văn
Nghĩa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quân sự, 2006; Vai trò
của Quân đội nhân dân Việt Nam trong công tác vận động đồng bào có tôn
giáo ở Tây Nguyên hiện nay - Nguyễn Như Trúc, Luận án tiến sĩ Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Học viện Chính trị quân sự, 2006; Quân đội tham gia xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên
trong điều kiện mới - Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 2005…
Các giả đều khẳng định Quân đội tham gia thực hiện quan điểm, chính
sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước và tham gia xây dựng hệ thống chính trị
là tất yếu khách quan nhằm tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tập hợp, tổ
chức đối với đồng bào tôn giáo, góp phần tăng cường đoàn kết đồng bào các
tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, phát huy vai trò tích cực, sáng tạo của đồng bào trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, chỉ rõ vai trò quan trọng của Quân
đội tham gia thực hiện quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
Tác giả Phạm Văn Nghĩa khẳng định: Quân đội góp phần nâng cao nhận

thức và tự giác chấp hành quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng
7


và Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào theo đạo; thực
hiện quan điểm, chính sách tôn giáo góp phần tăng cường đoàn kết quân dân và đoàn kết dân tộc; tham gia xây dựng cơ sở địa phương vùng giáo; đấu
tranh bảo vệ quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Các tác giả cũng khẳng định tiến hành công tác vận động đồng bào tôn
giáo là trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng, của cả hệ thống chính trị,
trong đó Quân đội giữ vai trò là lực lượng nòng cốt và có ý nghĩa quan trọng.
Trên cơ sở phân tích những nhân tố tác động, đánh giá thực trạng Quân
đội thực hiện quan điểm, chính sách tôn giáo, các tác giả đã rút ra một số bài học
kinh nghiệm và đề xuất yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò của Quân đội trong
thực hiện quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Như vậy, từ nhiều góc độ nghiên cứu và tiếp cận khác nhau, các công
trình khoa học, các bài viết trong và ngoài nước đã nghiên cứu khá sâu sắc,
toàn diện những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của CTDV, công tác
vận động quần chúng của quân đội. Nhiều công trình đã làm rõ vai trò quan
trọng của Quân đội trong CTDV, đánh giá khá toàn diện thực trạng CTDV,
công tác vận động quần chúng và đề xuất nhiều giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng CTDV của Quân đội trong thời gian qua. Qua đó, đã cung cấp
nhiều luận cứ có giá trị để tác giả nghiên cứu nâng cao chất lượng CTDV của
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về Chất lượng công tác dân vận
của các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn về CTDV và chất lượng
CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; đề xuất giải pháp nâng cao
chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn về CTDV và
chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
8


- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh
nghiệm nâng cao chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng CTDV của
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động CTDV của các của CĐVQĐ trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay. Phạm vi đơn vị nghiên cứu, khảo sát gồm các
đơn vị BĐCL, BĐĐP trên địa bàn Tỉnh, cụ thể là: các cơ quan, đơn vị của
BĐĐP tỉnh Đồng Nai, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Hạ sĩ quan Xe
tăng I, Sư đoàn 309 Quân đoàn 4, Sư đoàn 302 Quân khu 7, Lữ đoàn Pháo
binh 96, Bệnh viện 7B Quân khu 7. Các số liệu, tư liệu phục vụ cho nghiên
cứu được giới hạn chủ yếu từ 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng nhân dân và
CTDV; các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội, Quân uỷ Trung ương, Bộ
Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về CTDV của LLVT.
* Cơ sở thực tiễn
Toàn bộ hiện trạng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; các
báo cáo tổng kết CTĐ, CTCT và CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh; các tư

liệu, tài liệu đánh giá, sơ tổng kết của cấp uỷ, chính quyền địa phương và kết
quả điều tra khảo sát thực tiễn của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và

9


liên ngành; chú trọng các phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích, tổng hợp,
so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp
lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chính trị, cơ quan chức năng các cấp thuộc CĐVQĐ
đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nghiên cứu, vận dụng để xác định chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện CTDV ở đơn vị có chất
lượng, hiệu quả. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập các nội dung liên quan trong các nhà
trường quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục và các công trình khoa học của tác giả đã được công bố.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

1.1. Công tác dân vận và những vấn đề cơ bản chất lượng công tác
dân vận của các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
1.1.1. Các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và công tác
dân vận của các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
* Khái quát về tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh nằm ở cực bắc miền Đông Nam Bộ, nối liền giữa
Nam Bộ, cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên; phía Đông giáp tỉnh Bình
Thuận; phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình
Dương, Bình Phước; phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; phía Bắc giáp
tỉnh Lâm Đồng Đồng. Đồng Nai có diện tích 5.862,37 km2, bằng 1,76% diện
tích tự nhiên của cả nước và 25,5% diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ,
giữ vị trí quan trọng trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam của
đất nước.
Tỉnh Đồng Nai gồm 01 thành phố - thành phố Biên Hòa, 01 thị xã, 09
huyện, với 171 xã, phường, thị trấn; trong đó có 136 xã nông thôn, dân số gần
3 triệu người, số người lao động từ các tỉnh nhập cư vào rất lớn, có 37 thành
phần dân tộc sinh sống với trên 189.098 người (chiếm hơn 7,1% dân số) và 10
tôn giáo với hơn 1,7 triệu tín đồ (chiếm 65% dân số). Trong khi đó, tốc độ đô
thị hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng nhanh, với 31 khu công
nghiệp và gần 40 cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh, do
đó sự chênh lệch ngày càng lớn về cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội giữa thành
thị và nông thôn. Trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh
phát triển khá ổn định, Quốc phòng - An ninh được giữ vững đời sống nhân
dân và LLVT được cải thiện.
Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía đông thành phố
Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế lớn của cả phía Nam, nối Nam Trung
11


Bộ, Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ bởi các tuyến giao

thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ 51 và tuyến đường sắt Thống
Nhất… Vì thế, Đồng Nai được coi như là “bản lề chiến lược” giữa bốn vùng
của các tỉnh phía Nam. Nó không chỉ có vai trò trọng yếu trong phát triển
kinh tế, mà còn có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế kết hợp an ninh quốc phòng và
môi trường của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Thời gian qua, cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo tăng cường CTDV trong tình hình mới, đây là điều kiện thuận lợi để
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và các đoàn thể chính trị - xã hội, hội chữ
thập đỏ.., phối hợp thực hiện tốt CTDV.
* Khái quát các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Đứng chân và thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai gồm
nhiều đơn vị quân đội của Bộ, Quân khu 7 và Quân đoàn 4, đó là các đơn vị
thuộc BĐĐP và BĐCL. Cụ thể là:
Các đơn vị BĐĐP: BCHQS tỉnh và các đơn vị trực thuộc gồm: Trung
đoàn Đồng Nai (Khung KTT), Trường quân sự tỉnh, các đại đội trực thuộc
BCHQS tỉnh và các ban chỉ huy quân sự cấp huyện, Thành phố. Chức năng,
nhiệm vụ chung của các đơn vị BĐĐP: Các đơn vị BĐĐP tỉnh Đồng Nai thực
hiện ba chức năng nói chung của Quân đội nhân dân Việt Nam; ngoài ra còn
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương những nội dung liên quan đến
công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Nhiệm vụ thường xuyên là huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, lao động sản xuất; tham gia
phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn….
Tổ chức đảng: Đảng bộ Quân sự tỉnh là tổ chức đảng cấp trên cơ sở,
trực thuộc Đảng bộ tỉnh Đồng Nai; các đảng bộ cơ sở ở cơ quan quân sự cấp
huyện, trực thuộc đảng bộ cấp huyện; các đảng bộ, chi bộ ở Trung đoàn Đồng
Nai (Khung KTT), Trường quân sự tỉnh, các đại đội trực thuộc BCHQS tỉnh.
Về tổ chức quần chúng có các tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Công đoàn, Hội phụ nữ ở cơ sở. Hội đồng quân nhân được tổ chức theo
đúng quy định của Tổng Cục Chính trị.
12



Các đơn vị bộ đội chủ lực: Sư đoàn 309 Quân đoàn 4; Sư đoàn 302; Lữ
đoàn pháo binh 75; Lữ đoàn công binh 25; Lữ đoàn Pháo binh 96 thuộc Bộ
Tư lệnh Pháo Binh. Chức năng, nhiệm vụ chung nhất của các đơn vị BĐCL:
Thực hiện ba chức năng chung của quân đội. Nhiệm vụ chính trị trung tâm
của các đơn vị là huấn luyện, sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ khu vực
miền đông và miền tây nam bộ, xây dựng chính quy, thực hiện nhiệm vụ lao
động sản xuất, dân vận; sẵn sàng nhận nhiệm vụ khác Quân khu, Quân đoàn;
Binh chủng giao cho: tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn, phòng, chống thiên tai; đối
với Sư đoàn 302 Quân khu 7 ngoài việc thực hiện chức năng nhiệm vụ chung
theo quy định của quân đội hàng năm còn thực hiện nhiệm vụ huấn luyện cho
đối tượng dự bị động viên.
Bệnh viện 7B trực thuộc Quân khu 7: Thực hiện các chức năng chung
của quân đội. Nhiệm vụ cụ thể là: Lập kế hoạch sẵn sẵn sàng chiến đấu nhóm
A, chuẩn bị các tổ quân y và các đội phẫu thuật cứu chữa bước đầu sẵn sàng
nhận nhiệm vụ khi có lệnh; cấp cứu, khám chữa bệnh cho bộ đội, đối tượng
chính sách quân đội, người bệnh bảo hiểm y tế, nhân dân và các đối tượng khác
thuộc tuyến và khu vực theo quy định, sẵn sàng thu dung, cấp cứu hàng loạt,
điều trị cho thương binh, bệnh binh và phân đội quân y cơ động đi làm nhiệm
vụ cấp cứu khi có yêu cầu; Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến
cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác khám chữa bệnh và
chăm sóc sức khỏe người bệnh, kết hợp với bệnh viện tuyến trên và các bệnh
viện khác để phát triển kỹ thuật của bệnh viện; Lập kế hoạch chỉ đạo tuyến
dưới theo phân công, sẵn sàng chi viện chuyên môn kỹ thuật cho cơ sở quân y
tuyến dưới; Phối hợp với các cơ sở y tế dự phòng, thường xuyên thực hiện
nhiệm vụ phòng bệnh, phòng dịch, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, tham gia
phòng chống dịch bệnh cho các đơn vị thuộc tuyến và khu vực.
Trường Sĩ quan Lục quân 2; Trường Hạ sĩ quan Xe tăng I: Thực hiện chức
năng chung của quân đội; ngoài ra còn có chức năng giáo dục, đào tạo cán bộ, sĩ

quan; hạ sỹ quan xe tăng cho quân đội. Theo đó, các trường có trách nhiệm thực
hiện Luật Giáo dục, Điều lệ công tác Nhà trường QĐNDVN.
13


Nhiệm vụ cụ thể là: Tổ chức các hoạt động đào tạo theo nhiệm vụ của
cấp trên giao cho trường; đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn cán bộ, nhân viên
chuyên môn, kỹ thuật trong QĐNDVN; bồi dưỡng kiến thức và năng lực thực
hành cho cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật theo yêu cầu phát triển của
Quân đội. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý ngoài quân đội; đào tạo sĩ quan dự bị; đào tạo nghề cho bộ đội
xuất ngũ; tham gia đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo
chỉ tiêu do Nhà nước và Bộ Quốc phòng giao; thực hiện hợp tác quốc tế về
đào tạo. Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển Khoa học Quân sự, Khoa học Xã
hội nhân văn, Khoa học kỹ thuật Quân sự, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
và hoàn thiện quá trình đào tạo tại các trường Quân đội, phục vụ yêu cầu xây
dựng Quân đội, củng cố Quốc phòng và tham gia giải quyết các vấn đề kinh
tế - xã hội của đất nước. Xây dựng Nhà trường cách mạng, chính quy, từng
bước hiện đại, có môi trường văn hóa lành mạnh. Thực hiện nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác..
* CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Quan niệm CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác vận
động quần chúng của Đảng Cộng sản, trong bài báo “dân vận” (10 năm 1949),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán
bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt
Minh,v.v…) đều phải phụ trách dân vận” [28, tr.699]. Đối với cán bộ chính
quyền và cán bộ các đoàn thể địa phương, Người chỉ rõ phải cùng nhau bàn
tính kỹ càng rồi cùng đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế
hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm khuyến khích đôn đốc, theo dõi

giúp đỡ dân giải quyết những khó khăn. Cán bộ canh nông thì hợp tác mật
thiết với cán bộ địa phương, đi sát dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng
trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân, làm cỏ. Những hội viên các đoàn thể
thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm. Như
vậy, ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, tất cả cán bộ và
14


tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân đều phải làm CTDV theo
phương thức riêng phù hợp với từng tổ chức và chức trách, nhiệm vụ của mỗi
cán bộ, đảng viên.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo giáo dục, rèn luyện là quân đội từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu. Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình xây
dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác
định, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức năng là đội quân chiến đấu, công
tác và lao động sản xuất. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác của
quân đội. Người luôn nhắc nhở CB, CS phải có trách nhiệm phụng sự nhân
dân. Phụng sự nhân dân theo Hồ Chí Minh không chỉ có đánh giặc cứu dân
mà còn bằng các “hoạt động giúp đỡ dân, mỗi quân nhân phải là một cán bộ
tuyên truyền bằng việc làm của quân đội... có như thế thì dân mới tin, mới
phục, mới yêu” [28, tr.655]. Do đó, bất kể khó khăn gì cũng vượt qua và nhất
định thắng lợi. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta xác định tiến hành
CTDV, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa quân đội và nhân dân là một
vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam; là
một nhiệm vụ, nội dung của công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội
nhân dân Việt Nam cả ở trong thời bình và thời chiến.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận
CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một nội dung của công tác đảng, công

tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm vận động cách mạng
đối với nhân dân, xây dựng, củng cố tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân
dân; là chức năng, nhiệm vụ, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam,
có tầm quan trọng chiến lược đối với xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân
đội, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. CTDV của Quân đội nhân dân Việt Nam
đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, điều hành của người chỉ huy, chỉ đạo
hướng dẫn của cơ quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên và sự tham gia của
mọi CB, CS, công nhân viên quốc phòng. Khi đóng quân ở địa phương nào,
15


cấp uỷ, cán bộ chủ trì quân sự, chính trị, cơ quan chính trị chủ động liên hệ,
phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ CTDV.
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: Công tác dân vận của các
ĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là tổng thể các chủ trương, nội dung, biện
pháp tiến hành các hoạt động dân vận dưới sự lãnh đạo, điều hành trực tiếp
của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các đơn vị; sự lãnh đạo, điều hành
của cấp uỷ, chính quyền địa phương, nhằm tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; chủ trương, kế hoạch phát triển các mặt của địa phương; tích cực tham
gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng cơ sở chính trị địa phương
vững mạnh, củng cố quốc phòng - an ninh; tăng cường mối quan hệ máu thịt
với quân dân, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Từ quan niệm trên, có thể chỉ ra một số vấn đề sau:
Mục đích: Cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương, các tổ chức chính
trị - xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật Nhà nước; tham gia xây dựng cơ sở địa phương phát

triển về mọi mặt; xây dựng củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân
dân, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện quân với dân một ý chí
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ thể: Chủ thể lãnh đạo, điều hành là cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ
chủ trì của CĐVQĐ. Bên cạnh đó, CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai khi tiến hành ở địa phương nào còn phải đặt dưới sự lãnh đạo, điều
hành của cấp ủy, chính quyền ở địa phương đó.
Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo của cán bộ chủ trì CĐVQĐ,
các cơ quan, trước hết là cơ quan chính trị và cán bộ chính trị giúp cấp ủy, cán
bộ chủ trì trong công tác tham mưu và hướng dẫn tổ chức thực hiện.
Lực lượng tiến hành là mọi tổ chức, mọi CB, CS, công nhân viên chức
quốc phòng của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
16


Đối tượng: Các tầng lớp nhân dân ở các địa phương, nơi CĐVQĐ đóng
quân và đến công tác.
Nội dung: Tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chủ trương, kế hoạch
phát triển các mặt của địa phương; giúp đỡ và bảo vệ nhân dân trong sản xuất,
đời sống; bảo vệ nhân dân trong các hoàn cảnh, nhất là thiên tai, thảm họa;
giáo dục, quản lý bộ đội chấp hành nghiêm kỷ luật nhất là kỷ luật dân vận,
củng cố lòng tin yêu của nhân dân đối với quân đội; tham gia xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị và củng
cố quốc phòng - an ninh.
Hình thức: Tùy từng đơn vị mà sử dụng hình thức CTDV khác nhau,
song các hình thức cơ bản của CTDV của quân đội đều được vận dụng ở
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đó là: Hình thức kết nghĩa; dã ngoại làm
CTDV; tổ đội công tác chuyên trách (không phải “đội công tác 123”)... Ngoài
ra còn có các hình thức khác như: Phối hợp với dân quân tự vệ làm CTDV;

thực hiện chương trình 12 – quân dân y kết hợp; liên kết giáo dục – đào tạo...
Đặc điểm CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Một là, địa bàn tiến hành công tác dân vận của các đơn vị quân đội
trải rộng trên khắp địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Do yêu cầu của nhiệm vụ CĐVQĐ đóng quân và hoạt động trên khắp
địa bàn tỉnh Đồng Nai. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu khi tiến hành CTDV phải
lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ các lực lượng, các cấp, các ngành; giải quyết tốt
mối quan hệ quân, dân, chính, đảng không chỉ ở những địa phương, đơn vị
đóng quân mà còn cả ở những địa phương mà đơn vị hành quân, huấn luyện
diễn tập, cơ động đến thực hiện các nhiệm vụ khác nhau.
Hai là, đối tượng công tác dân vận của các đơn vị quân đội rất đa
dạng, phong phú.
Bao gồm tất cả các thành phần dân cư, nông dân, công nhân, dân tộc,
tôn giáo ở trên các địa phương, các địa bàn, với những hoàn cảnh, điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau. Đặc điểm này đòi hỏi nội dung, hình thức, phương
pháp CTDV của CĐVQĐ phải sát hợp với từng đối tượng, với đặc điểm, truyền
17


thống dân cư và nhiệm vụ đặc thù của từng địa phương tiến hành phù hợp với
hoàn cảnh thực tế của từng địa phương. Cần tránh lối tiến hành CTDV một cách
chung, theo một công thức, sơ đồ định sẵn.
Ba là, công tác dân vận của các đơn vị quân đội được tiến hành ở
những địa phương có sự phát triển thuộc hạng nhanh nhất nước, đồng thời
cũng có nhiều phức tạp về xã hội và thường xảy ra thiên tai
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương là những tỉnh phát
triển động lực của toàn vùng kinh tế trọng điểm phía nam của nước ta. Qua
đổi mới, nhiều mặt của tỉnh, nhất là về kinh tế đã phát triển nhanh chóng hạng
nhất nhì của cả nước. Điều đó làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt
hàng năm. Tuy nhiên quá trình phát triển của địa phương đã nảy sinh nhiều

vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, bức xúc: dân số tăng cơ học rất nhanh; phân
hoá giàu nghèo, giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, tội phạm quốc
tế, tệ nạn ma tuý, mại dâm, tình hình tranh chấp, khiếu kiện xảy ra ở nhiều địa
phương…. Mặt khác ở địa bàn tỉnh Đồng Nai khí hậu thời tiết diễn biến phức
tạp, nhất là mùa mưa, bão lụt. Điều đó tạo nên cho CTDV trên địa bàn có
những thuận lợi rất cơ bản, song cũng không ít khó khăn, phức tạp phải đối
diện, khắc phục. Đặc điểm này đòi hỏi CTDV của CĐVQĐ phải gắn liền với
nhiệm vụ của đơn vị, với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh của địa phương trên địa bàn đơn vị đóng quân và hoạt động.
Mặt khác, công tác giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức quân nhân
cách mạng cho cán bộ chiến sĩ và quản lý bộ đội phải được đặc biệt chú ý và
thường xuyên quan tâm.
Bốn là, công tác dân vận của các đơn vị quân đội được tiến hành bởi
những đơn vị thuộc binh chủng kỹ thuật, có nhiệm vụ nặng nề, phức tạp.
Là những đơn vị thuộc binh chủng kỹ thuật có trang bị, phương tiện, vũ
khí khá hiện đại. Không gian, địa hình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu rất rộng, tác động đến các hoạt động sản xuất của nhân dân. Đặc
điểm này đòi hỏi, CĐVQĐ phải căn cứ vào tổ chức, biên chế và hoạt động thực
hiện nhiệm vụ, có các chủ trương biện pháp CTDV không chỉ giúp nhân dân
18


trong sản xuất và đời sống mà còn phối hợp với cấp uỷ, chính quyền, giáo dục,
động viên nhân dân tạo mọi điều kiện ủng hộ giúp đỡ đơn vị trong huấn luyện
cơ động, trong việc bảo vệ an toàn cho vũ khí trang bị, kỹ thuật.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về chất lượng công tác dân vận của các
đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Quan niệm và những yếu tố tạo thành chất lượng CTDV của CĐVQĐ
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Để có quan niệm khoa học về chất lượng công tác cần phải nghiên cứu

về chất lượng nói chung. Chất lượng là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
trong đời sống. Tuy nhiên mỗi một hoạt động xã hội có mục đích, đối tượng,
tính chất, phương thức hoạt động khác nhau, do vậy có những quan niệm khác
nhau về chất lượng. Triết học Mác - Lênin cho rằng mỗi sự vật, hiện tượng cụ
thể đều có chất và lượng; là sự thống nhất giữa chất và lượng; sự chuyển hoá
từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại là cách thức
của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Quan niệm của triết học Mác - Lênin về chất lượng là cơ sở phương pháp luận
để nghiên cứu sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Tiếp cận khái niệm chất lượng dưới góc độ giá trị, từ điển tiếng Việt cho
rằng “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự
vật, một sự việc” [43, tr.33]. Cùng đồng quan điểm với khái niệm này Bộ Giáo
dục và đào tạo cho rằng, chất lượng giáo dục của nhà trường là sự đáp ứng mục
tiêu do nhà trường đề ra, bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu giáo dục của Luật
Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước”. Với quan niệm trên khi nghiên cứu khái
niệm chất lượng cần xem xét khái niệm này ở phương diện giá trị của hoạt động.
Bởi lẽ bất cứ một hoạt động nào đó đều có mục đích với những phương thức,
phương tiện được sử dụng để thực hiện mục đích đã xác định. Đối với lĩnh vực
xã hội và hoạt động của con người việc nghiên cứu và đánh giá chất lượng phải
được thể hiện ra kết quả hoạt động, các quan hệ xã hội…
19


Đồng thời, khi nghiên cứu quan niệm chất lượng, cần phải sử dụng
phương pháp hệ thống cấu trúc. Bởi lẽ bất cứ một sự vật, hiện tượng nào
trong thế giới khách quan và trong đời sống xã hội đều gồm các bộ phận các
yếu tố hợp thành. CTDV là một chỉnh thể bao gồm mục đích, chủ thể, đối
tượng, lực lượng tiến hành, nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện…
có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động của yếu tố này là tiền đề, điều

kiện cho các yếu tố khác hoạt động và phát huy tác dụng. Một trong những
yếu tố nào đó hoạt động không tốt sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ CTDV. Vì vậy
khi nghiên cứu chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
xem xét toàn diện các yếu tố hợp thành công tác này.
Từ phương pháp tiếp cận trên có thể hiểu: Chất lượng CTDV của
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là tổng hoà giá trị của các yếu tố, các bộ
phận hợp thành, các khâu, các bước của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
tiến hành CTDV; được tạo nên bởi năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện của cấp uỷ, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp, phẩm chất, năng lực của CB,
CS; sự đầu tư kinh phí, phương tiện của các đơn vị; biểu hiện ở sự vững
mạnh toàn diện của cơ sở địa phương, sự bền chặt của mối quan hệ quân dân
và ở kết quả xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị.
Từ quan niệm trên, có thể chỉ ra những yếu tố tạo thành chất lượng
CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai:
Một là, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện CTDV của cấp
uỷ, tổ chức đảng và cán bộ chủ trì ở các CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai,
biểu hiện ở phẩm chất, năng lực, phong cách công tác của các chủ thể.
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn CTDV của các CĐVQĐ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai bao gồm cấp uỷ, tổ chức đảng, chính uỷ, cán bộ chỉ huy,
cơ quan chính trị. Vì vậy chất lượng CTDV phụ thuộc một cách quyết định
vào năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện CTDV của cấp uỷ, tổ chức
đảng và cán bộ chủ trì các CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, biểu hiện ở
việc ra nghị quyết, chủ trương, chương trình kế hoạch CTDV; ở việc tổ chức
thực hiện và phẩm chất, năng lực, phong cách CTDV.
20


Ha là, năng lực của cơ quan quân sự địa phương trong tham mưu cho
cấp ủy, chính quyền và làm trung tâm phố hợp, hiệp đồng giữa các đơn vị
quân đội đứng chân và đến làm nhiệm vụ trên địa bàn trong tiến hành công

tác dân vận.
Theo Nghị quyết 132 của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương
(nay là Quân ủy Trung ương) thì cơ quan quuan sự địa phương phải tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền và là trung tâm phối hợp, hiệp đồng giữa
CĐVQĐ đứng chân và đến công tác trên địa bàn trong tiến hành CTDV. Theo
đó, năng lực nói trên của cơ quan quân sự địa phương sẽ là một yếu tố quan
trọng tạo thành chất lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Ba là, chất lượng CB, CS với tư cách là lực lượng tiến hành
CTDV, được thể hiện ở phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác
phong công tác
Mọi hoạt động CTDV của các CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đều
được thực hiện bởi các CB, CS với các phương tiện, công cụ nhằm đạt được
mục đích của CTDV. Vì vậy, để CTDV có chất lượng trước hết CB, CS, công
nhân viên quốc phòng ở các CĐVQĐ phải có phẩm chất đạo đức tốt; tôn
trọng, phục vụ nhân dân; có nếp sống lành mạnh trung thực, khiêm tốn; có ý
thức tổ chức kỷ luật; thực hiện nghiêm chỉnh quy chế CTDV, có năng lực tiến
hành CTDV trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Bôn là, nội dung, hình thức, biện pháp, mức độ đầu tư kinh phí; cơ sở
vật chất, phương tiện cho CTDV
Nội dung, hình thức, biện pháp là những yếu tố cấu thành, cơ sở vật
chất, phương tiện là những yếu tố bảo đảm CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai. Nếu chủ thể có nhận thức trách nhiệm tốt, có năng lực tiến
hành CTDV, nhưng nội dung, hình thức tiến hành không khoa học, cơ sở vật
chất, phương tiện tiến hành thiếu thốn lạc hậu sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến chất
lượng CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, khi nghiên cứu
chất lượng CTDV của các CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhất thiết phải
21


xem xét chất lượng của nội dung, hình thức, biện pháp, cơ sở vật chất,

phương tiện thể hiện ở sự phù hợp và giá trị của các yếu tố, điều kiện đó đối
với thực hiện mục đích CTDV đã xác định.
* Tiêu chí đánh giá chất lượng
Theo từ điển tiếng Việt, tiêu chí dùng để chỉ “tính chất, dấu hiệu làm
căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm” [45, tr.956]. Bản chất
của sự vật, hiện tượng nào đó bao giờ cũng thể hiện ở những thuộc tính, tính
chất dấu hiệu cụ thể. Nói cách khác, những tính chất, dấu hiệu chính là phản
ánh bản chất của sự vật, hiện tượng nào đó trong đời sống. Theo quan điểm
đó, căn cứ vào quan niệm chất lượng CTDV, có thể xác định tiêu chí đánh giá
chất lượng CTDV của CĐVQĐ đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Một là, tiêu chí đánh giá nhận thức, trách nhiệm, năng lực của chủ thể,
lực lượng tiến hành CTDV của CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Tiêu chí này thể hiện ở mức độ sâu sắc về nhận thức của các chủ thể đối
với CTDV; mỗi tổ chức, lực lượng có coi tiến hành CTDV của đơn vị là một
nhiệm vụ của mình hay chưa. Ý thức, trách nhiệm của chủ thể đối với thực
hiện nhiệm vụ CTDV cao hay thấp. Mức độ đầy đủ của những tri thức chuyên
môn, nghiệp vụ có liên quan và kinh nghiệm tiến hành CTDV. Mức độ, chất
lượng thực hiện các hoạt động CTDV theo chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ
chức, lực lượng đó là tiêu chí chung. Để đánh giá chính xác chất lượng của
các chủ thể cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể trong tiến
hành CTDV. Đối với cấp uỷ, tổ chức đảng là sự đúng đắn của các chủ trương,
biện pháp lãnh đạo CTDV. Đối với chính uỷ, chính trị viên, cán bộ chỉ huy thể
hiện ở sự quan tâm, năng lực chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức tiến hành CTDV
theo chức trách, nhiệm vụ. Đối với cơ quan chính trị là năng lực tham mưu và
chỉ đạo, hướng dẫn CTDV. Đối với mọi quân nhân là nhiệt tình cách mạng, ý
thức trách nhiệm, sự thống nhất giữa nhận thức và hành động trong thực hiện
nhiệm vụ CTDV được giao; tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, tác phong tiến
hành CTDV.
22



Hai là, tiêu chí đánh giá sự đúng đắn, phù hợp, khéo léo của nội dung,
hình thức, phương pháp; mức độ đầu tư và sử dụng hiệu quả vật chất,
phương tiện tiến hành CTDV của các đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Tiêu chí này thể hiện ở việc xác định chính xác các nội dung, chương
trình, kế hoạch và trong đó có xác định hình thức, biện pháp tiến hành CTDV
của từng đơn vị. Đó là nội dung, chương trình kế hoạch tuyên truyền vận
động nhân dân, giúp địa phương trên địa bàn phát triển kinh tế - xã hội, xoá
đói giảm nghèo; xây dựng củng cố hệ thống chính trị; xây dựng đời sống văn
hoá mới; đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch; xây dựng thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng
toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở cơ sở. Nội dung, hình thức, biện
pháp CTDV đúng đắng là phải căn cứ vào nhiệm vụ CTDV, đối tượng nhân dân,
tình hình và nhiệm vụ chung của đơn vị, địa phương. Việc đầu tư, quản lý, sử
dụng có hiệu quả kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất cho CTDV ở từng đơn vị
cũng là dấu hiệu nói lên chất lượng CTDV của CĐVQĐ.
Ba là, tiêu chí về kết quả hoàn thành nhiệm vụ CTDV của các CĐVQĐ
đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai so với mục tiêu đã đề ra.
Bất cứ một hoạt động nào đó của cá nhân, tập thể, tổ chức đều phải
được thể hiện ra kết quả nhất định. Bởi vì hành động là sự biểu hiện của nhận
thức, tư tưởng và năng lực của chủ thể. Không thể nói CTDV của CĐVQĐ
đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có chất lượng tốt nếu mối quan hệ gắn
bó keo sơn giữa CB, CS của đơn vị và nhân dân không được củng cố tăng
cường; nhân dân trên địa bàn giảm sút lòng tin vào đơn vị, tinh thần cách
mạng của nhân dân, phong trào cách mạng, sự phát triển của địa phương về
các mặt thấp kém…Vì vậy khi nghiên cứu chất lượng CTDV của CĐVQĐ
đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhất thiết phải xem xét kết quả công tác
này cả về mặt định lượng và định tính thể hiện ở các số lượng của hoạt động
như: Số lượt tuyên truyền vận động nhân dân, tham gia xây dựng điện, đường,
23



trường, trạm, xây dựng nhà tình nghĩa, … số lần thăm hỏi gia đình chính sách,
neo đơn; số buổi giao lưu, biểu diễn văn hoá, văn nghệ… uy tín của các đơn
vị đối với nhân dân và hệ thống chính trị địa phương, cơ sở trên địa bàn đóng
quân. Đồng thời khi đánh giá chất lượng CTDV của CĐVQĐ phải xem xét sự
vững mạnh toàn diện của các địa phương trong trên địa bàn các đơn vị đóng
quân về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh…
Tiêu chí này thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ CTDV trên
giao cho đơn vị như: Số lần tuyên truyền vận động nhân dân; các kết quả cụ
thể giúp củng cố cấp uỷ đảng, chính quyền phường, xã, kết quả phối hợp
với các ban ngành, đoàn thể ở địa phương; kết quả giúp địa phương phát
triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hoá mới;
kết quả giúp địa phương xây dựng, củng cố quốc phòng an ninh, huấn
luyện nâng cao trình độ của dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên; kết
quả phối hợp với công an nhân dân, dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ
an ninh, xây dựng địa bàn an toàn, đơn vị an toàn. Hiệu ứng CTDV của
CĐVQĐ đứng chân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đối với việc xây dựng củng
cố mối quan hệ đoàn kết quân dân, góp phần phát triển địa phương về mọi
mặt; xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tình đoàn kết, gắn bó keo sơn
giữa các đơn vị với cấp ủy đảng, chính quyền các tổ chức đoàn thể xã hội
và nhân dân trên địa bàn đóng quân; uy tín của đơn vị đối với nhân dân và
hệ thống chính trị cao hay thấp; tình cảm, lòng tin, sự giúp đỡ về mọi mặt
của cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân các dân tộc đối với đơn vị; việc
chấp hành kỷ luật quan hệ quân dân của bộ đội…
Mặt khác, kết quả CTDV của CĐVQĐ còn phải được xem xét trên cả
khía cạnh, là nó đã góp phần vào giáo dục phẩm chất cách mạng, bồi dưỡng
phương pháp tác phong công tác (trong đó có CTDV) của CB, CS; góp phần
vào xây dựng đơn vị VMTD được nhiều hay ít.


24


1.2. Thực trạng chất lượng và kinh nghiệm nâng cao chất lượng
công tác dân vận của các đơn vị quân đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
1.2.1. Thực trạng chất lượng công tác dân vận của các đơn vị quân
đội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
* Những ưu điểm, kết quả đạt được
Một là, nhìn chung các chủ thể, lực lượng tiến hành CTDV của
CĐVQĐ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có nhận thức đúng đắn, trách nhiệm cao;
năng lực tiến hành CTDV đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trong những năm qua, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan
chính trị các cấp đã tổ chức tốt việc quán triệt, giáo dục quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về
CTDV, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành trung ương
Đảng khoá VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Chỉ thị số 137/CT-ĐUQSTW và Nghị quyết
của Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) số 152/NQĐUQSTW về tăng cường CTDV của quân đội trong thời kỳ mới; Nghị quyết
số 25-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”... Đảng ủy CĐVQĐ đã lãnh đạo
chặt chẽ việc tổ chức quán triệt, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức trách
nhiệm cho CB, CS, trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững các
quan điểm chỉ đạo của Đảng về CTDV trong thời kỳ mới xác định rõ trách
nhiệm của đơn vị đối với nhiệm vụ CTDV; trên cơ sở đó đề ra phương hướng,
chương trình, kế hoạch CTDV phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ
chức và hoạt động của mỗi đơn vị.
Việc tổ chức giáo dục, quán triệt nhiệm vụ CTDV được vận dụng linh
hoạt với nhiều hình thức khác nhau: Tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, học
tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng; gắn chặt giáo dục chính trị theo chương trình
với giáo dục thường xuyên và trong các đợt làm CTDV trên địa bàn. Tổ chức

tập huấn, bồi dưỡng cán bộ theo định kì hàng năm về CTDV; thông qua kiểm
tra chính trị hàng năm để bồi dưỡng kiến thức dân vận cho cán bộ chiến sĩ.
25


Nhờ đó đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho CB, CS đối với
nhiệm vụ CTDV, xây dựng niềm tin, lòng tự hào của CB, CS khi đến với nhân
dân. Kết quả trưng cầu ý kiến ở Sư đoàn 309 Quân đoàn 4 cho thấy, có tới 92%
số cán bộ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp ở CĐVQĐ cho rằng tiến hành
CTDV là một nhiệm vụ chính trị quan trọng trong thực hiện chức năng của đội
quân công tác; trực tiếp góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa quân đội
với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị,
làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch [Phụ lục 1].
Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo CTDV của CĐVQĐ từng bước được đổi
mới. Các đơn vị đều thực hiện tốt việc nắm chắc tình hình nhiệm vụ, thuận
lợi, khó khăn của các địa phương, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tình hình
an ninh chính trị - xã hội trên địa bàn. Nắm chắc tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng của nhân dân; tổ chức tốt việc đánh giá cụ thể thực trạng CTDV của mỗi
đơn vị. Trên cơ sở đó xác định chủ trương, kế hoạch, nội dung, hình thức,
biện pháp CTDV phù hợp, sát thực tiễn. Cán bộ chỉ huy, chính uỷ, chính trị
viên đã đề cao trách nhiệm trong chỉ đạo, quản lý điều hành thực hiện nhiệm
vụ CTDV của đơn vị. Sau khi có nghị quyết lãnh đạo, người chỉ huy, chính
uỷ, chính trị viên các cấp đã đề cao trách nhiệm trong việc chỉ đạo các cơ
quan, đơn vị chủ động phối hợp với địa phương xây dựng kế hoạch tổ chức
thực hiện. Thường xuyên coi trọng hướng dẫn, kiểm tra và chăm lo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Làm tốt công tác sơ, tổng kết rút kinh
nghiệm, phổ biến những điển hình tiên tiến, kịp thời phát hiện những khâu
yếu, mặt yếu, những đơn vị cơ sở gặp khó khăn để tập trung giải quyết. Đối
với những nơi CTDV gặp khó khăn, các đơn vị đã lựa chọn những cán bộ tốt,
có phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trực tiếp tăng cường cho các đơn vị đó.

Thường xuyên tổ chức các cuộc khảo sát để nắm chắc tình hình ở từng xã,
phường, thị trấn, thôn, xóm, buôn, làng, chủ động, nhạy bén, phát hiện đề
xuất với cấp uỷ, chính quyền địa phương những biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo
CTDV có hiệu quả. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ 2015
– 2020 đánh giá “ Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của của cấp ủy về
26


×