Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VIẾT XUÂN

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
NGƢỜI CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM
BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH BÌNH PHƢỚC
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số

: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HOÁ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN VIẾT XUÂN



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI
NGƢỜI CAO TUỔI ..................................................................................................8
1.1. Khái quát chung người cao tuổi ...........................................................................8
1.2. Công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi ....................................................16
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm .........................................28
1.4. Cơ sở pháp lý liên quan đến người cao tuổi.......................................................35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƢỜI
CAO TUỔI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI BÌNH
PHƢỚC ....................................................................................................................38
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Tỉnh Bình Phước; vấn đề người cao tuổi tại Bình
Phước và trung tâm BTXH tỉnh Bình Phước ............................................................38
2.2 Thực trạng công tác xã hội nhóm với người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã
hội Bình Phước ..........................................................................................................47
2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm ............................52
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm ............................54
2.5. Đánh giá chung việc áp dụng công tác xã hội nhóm trong trợ giúp người cao
tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bình Phước .................................................58
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI NÓI
CHUNG VÀ TRONG TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH BÌNH
PHƢỚC NÓI RIÊNG .............................................................................................70
3.1. Định hướng.........................................................................................................70
3.2. Một số giải pháp .................................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG, HÌNH, HỘP
BẢNG
Bảng 2.1 Công tác vận động các nguồn lực xã hội tại Trung tâm ............................50
Bảng 2.2: Các nguyên tắc Công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi đang thực
hiện tại Trung tâm .....................................................................................................53
Bảng 2.3. Trình độ chuyên môn, chuyên ngành đào tạo của công chức, viên chức và
người lao động làm việc tại Trung tâm .....................................................................55

HÌNH
Hình 2.1 Sơ đồ tổ chức trung tâm .............................................................................48

HỘP
Hộp 2.1. Đánh giá của người nhà người cao tuổi về công tác xã hội đối với người
cao tuổi tại Trung tâm ...............................................................................................51
Hộp 2.2. Đánh giá của lãnh đạo Trung tâm về nghề công tác xã hội và năng lực của
cán bộ nhân viên tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Tỉnh Bình Phước ............................56
Hộp 2.3. Nhận xét của cán bộ Trung tâm về vai trò của nhân viên công tác xã hội tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội Tỉnh Bình Phước .............................................................56
Hộp 3.1. Một số hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng trên địa
bàn tỉnh Bình Phước về công tác xã hội nhóm với người cao tuổi ..........................72
Hộp 3.2. Nội dung cần được tập huấn nâng cao năng lực công tác xã hội với người
cao tuổi ......................................................................................................................74
Hộp 3.4. Những biện pháp đổi mới nội dung và phương thức thực hiện công tác xã
hội đối với người cao tuổi tại Trung tâm ..................................................................75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm nhất quán về việc chăm sóc người cao
tuổi và coi đây là một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, được thể hiện

thông qua các Văn kiện đại hội đảng và các Chỉ thị như: Chỉ thị 59/CT-TW của Ban
Bí thư Trung ương “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định: “Việc chăm sóc đời
sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, nhà nước và
toàn xã hội... Trước hết cần quan tâm chăm sóc những người cao tuổi có công, cô
đơn không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh”; Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của
Đảng cũng đã nêu: “Quan tâm chăm sóc sức khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi
hưởng thụ văn hoá, được tiếp cận thông tin, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc….
giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa”.
Dân số Việt Nam đang bước vào thời kỳ già hóa với tốc độ nhanh trong thời gian
tới. Tỷ lệ người cao tuổi hiện chiếm khoảng 10,9% tổng dân số, với hơn 10 triệu người.
Việt Nam có 10 % dân số là người cao tuổi. Trong đó, khoảng 10.000 cụ đang được
nuôi dưỡng tại các trung tâm chăm sóc. Tính đến tháng 8-2016, toàn tỉnh Bình Phước
có 59.921 người cao tuổi. Trong đó, 54.992 người cao tuổi là hội viên người cao tuổi
tỉnh (chiếm 91,7%). Làm sao để phát huy được truyền thống hiếu nghĩa, kính lão đắc
thọ là điều trân quý mà mỗi người đều phải luôn nhớ và khắc ghi. Các nhà chuyên môn
đều có cùng nhận định là mọi cố gắng loại bỏ đối xử khác biệt và kỳ thị với người già
là công việc khó khăn và cần thời gian lâu dài, nhưng phải bắt tay vào việc ngay. Nếu
trì hoãn, thì một thế hệ người cao tuổi khác sẽ rơi vào tình trạng không ý thức được nhu
cầu của mình, không tiếp nhận, tìm kiếm được giúp đỡ và sẽ không sống đời sống có
ích như họ mong muốn. Một trong những định hướng của Nhà nước hiện nay là đa
dạng hóa các loại hình chăm sóc người cao tuổi, phát triển các trung tâm tư nhân, trong
đó kết hợp cả chăm sóc theo hình thức dịch vụ có thu phí và cả chăm sóc đối tượng khó
khăn dựa vào nguồn xã hội hóa.
Trung tâm BTXH tỉnh Bình Phước hiện là cơ sở chuyên biệt của Tỉnh đang
quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng 38 đối tượng người cao tuổi (trong đó 18 cụ nam, 20
cụ nữ). Các hoạt động của nghề CTXH chuyên nghiệp mới đang được bắt đầu áp
dụng tại Trung tâm.

1



CTXH là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học
chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng)
giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập xã hội theo
hướng tích cực, bền vững. Nghề CTXH có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội
thông qua việc hỗ trợ các đối tượng tự giải quyết vấn đề gặp phải, góp phần đảm
bảo công tác ASXH và phát triển bền vững.
Phương pháp CTXH nhóm là phương pháp rất có hiệu quả trong việc trợ giúp
các đối tượng có vấn đề xã hội, tuy nhiên hiện nay ở nước ta phương pháp này còn
rất hạn chế. Người già thường ngại giao tiếp vì thế sử dụng phương pháp CTXH
nhóm để trước tiên họ giao tiếp với nhau, tăng cường kỹ năng giao tiếp.
Từ những đặc điểm trên, với kiến thức được trang bị từ khoá đào tạo cao học
ngành CTXH và trải nghiệm thực tế nhiều năm công tác trong lĩnh vực nuôi dưỡng
chăm sóc NCT tôi đã chọn đề tài: “Công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi từ
thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội Tỉnh Bình Phước”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn những năm 2000-2005, khi công tác xã hội chính thức được
đưa vào giảng dạy tại một số trường cao đẳng, đại học ở nước ta với tư cách là một
chuyên ngành độc lập cũng chính là thời điểm bắt đầu xuất hiện những nghiên cứu
về CTXH với người cao tuổi tại Việt Nam. Tuy nhiên những đề tài về CTXH với
người cao tuổi trong giai đoạn này chủ yếu là các nghiên cứu về mặt lý thuyết để
phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập về CTXH.
Kể từ năm 2010, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
32/2010/QĐ-TTg ngày 25/03/2010 về phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH, ở
nước ta đã có thêm nhiều nghiên cứu mới dưới dạng các đề tài, các bài báo khoa
học về lĩnh vực CTXH nói chung, trong đó có các nghiên cứu về dịch vụ CTXH,
tiêu biểu là:
- Theo Bùi Thế Cường trong cuốn sách “Trong miền an sinh xã hội –
những nghiên cứu về NCT Việt Nam” xuất bản năm 2005, nghiên cứu NCT trong
nghiên cứu xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1970, các nhà y khoa là những

người đầu tiên khai phá lĩnh vực nghiên cứu y học về NCT. Năm 1970, thành lập
chương trình Nghiên cứu Y học Tuổi già và mười năm sau trở thành đơn vị nghiên
cứu Y học Tuổi già của Bộ Y tế.

2


- Năm 1996-1997 có hai cuộc điều tra được thực hiện tại hai khu vực với 930
người từ 60 tuổi trở lên ở Hà Nội và 4 tỉnh lân cận vào năm 1996 (Bùi Thế
Cường,1996) và ở miền Nam với 840 NCT tại thành phố Hồ Chí Minh cùng 6 tỉnh
thành lân cận năm 1997. Cuộc điều tra thu thập các thông tin về tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, cách sắp xếp cuộc sống hộ gia đình... (Trương Sĩ Ánh và cộng sự 1997)
- Từ năm 2000 trở đi cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết về NCT được tiến
hành, có thể kể đến công trình nghiên cứu: Năm 2001 Tổ chức Hỗ trợ quốc tế NCT
(HAI) đã có cuộc nghiên cứu về “Hoàn cảnh của NCT nghèo Việt Nam” tại 5 điểm
là khu ổ chuột TP Hồ Chí Minh, một làng người H’mong tại tỉnh Lào Cai, một làng
người Kh’me ở tỉnh Sóc Trăng, một làng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và một
làng người Kinh ở tỉnh Phú Yên. Nghiên cứu trình bày về những thông tin về hoàn
cảnh của NCT nghèo, về những đóng góp chưa được biết đến của họ và những mối
quan tâm cũng như kinh nghiệm về nghèo khổ và bị phân biệt của họ. Nghiên cứu
sử dụng phương pháp có sự tham gia để khuyến khích người dân nông thôn nghèo,
học vấn thấp có thể trao đổi cởi mở bằng ngôn ngữ và nhận thức của chính họ.
- Tác giả Man Khánh Quỳnh có đề tài: “Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi
từ thực tiễn huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” năm 2014 đề tài nghiên cứu về hoạt
động CTXH với người cao tuổi tại địa bàn cụ thể. Từ việc nghiên cứu thực tiễn tại
một huyện tác giả cũng đưa ra những đề xuất và giải pháp phù hợp nhưng cũng
chưa nhân rộng được mô hình.
Năm 2015 có đề tài: "Công tác xã hội với người cao tuổi từ thực tiễn thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình" của tác giả Lê Thị Mai Hương. Trong các đề tài nói
trên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề về thực tiễn trong hoạt động CTXH

với người cao tuổi ở các địa phương, tập trung vào các nội dung như: Đặc điểm của
người cao tuổi; các vấn đề người cao tuổi thường gặp phải; vai trò của nhân viên
CTXH trong trợ giúp người cao tuổi...
Năm 2004 TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành điều tra ở 7 tỉnh
thành trên các vùng miền của cả nước với 557 phụ nữ từ 50 tuổi trở lên được phỏng
vấn về các thông tin liên quan đến nhu cầu của phụ nữ cao tuổi và nhận thức của
các cấp Hội phụ nữ về các vấn đề liên quan đến NCT trong cộng đồng .Cuộc
nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình tiến hành tại 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên
và Đắk Lắk của Viện nghiên cứu NCT do Tiến sĩ Nguyễn Thế Huệ chủ biên .Điều

3


tra năm 2007 của Ủy ban Quốc gia Khảo sát đời sống NCT tại 72 xã thuộc 8 tỉnh,
thành phố với 2.878 NCT, các thông tin thu thập về tình hình sức khỏe, đời sống
vật chất, việc làm, phát huy vai trò NCT tại địa phương. Trong cuốn " Người cao
tuổi và các mô hình chăm sóc NCT ở Việt Nam" một công trình nghiên cứu phối
hợp giữa Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em với Viện nghiên cứu Truyền thống và
phát triển năm 2008 – 2009. Đây là tập hợp nghiên cứu được thực hiện trên 3 thành
phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, với các nhóm đối tượng như:
nhóm người cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT, người sử dụng dịch vụ chăm sóc
NCT, cán bộ địa phương và cộng đồng. Bên cạnh đó Viện Nghiên cứu Truyền
thống và Phát triển còn tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu hơn thông qua quá trình
khảo sát các mô hình chăm sóc NCT tại Huế và Hà Nội, trong đó đặc biệt đã tổ
chức nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi và tọa đàm với đại diện các nhóm xã hội khác
nhau, nhằm hoàn thành tốt nhất cho cuộc nghiên cứu. Theo các tác giả của công
trình nghiên cứu, NCT không còn là một vấn đề mới, tuy nhiên trong bối cảnh toàn
cầu hóa và mở rộng giao lưu văn hóa thì quan tâm và nghiên cứu NCT là một nhu
cầu không thể thiếu. Đặc biệt trong những năm gần đây nhiều loại hình Dịch vụ
chăm sóc NCT được hình thành và hoạt động, đặc biệt là các mô hình tư nhân, liên

kết...đang phát triển khá mạnh tuy nhiên còn chưa có đầu tư hoặc chưa có sự quan
tâm của các cấp.
Trong Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với
thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam (2009) cho thấy: Nhu cầu chăm sóc y tế và xã hội
của NCT Việt Nam là rất lớn trong khi những điều kiện tự thân của NCT Việt Nam
có những đặc trưng rất hạn chế. Ví dụ như: Tỷ lệ người cao tuổi sống độc thân
tương đối cao ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam - 14,2% dẫn đến hạn chế cả về hỗ trợ
kinh tế, tinh thần từ phía gia đình, người thân và không có người trợ giúp trong sinh
hoạt hàng ngày. Về tình trạng kinh tế, thu nhập của NCT còn rất thấp, hầu như
không có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ khỏe hơn. Tình hình đặc biệt khó
khăn ở các vùng nông thôn và miền núi.
NCT được gia đình và xã hội tôn trọng và có đóng góp tích cực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, các thống kê và nghiên cứu gần đây
cho thấy NCT vẫn thuộc nhóm dân số dễ bị tổn thương và nghèo nhất. Việc xây
dựng hệ thống số dữ liệu, số liệu có tính đại diện quốc gia hết sức quan trọng đối

4


với những nghiên cứu sâu tình hình đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của
NCT để từ đó đề xuất và thực hiện các chính sách thích hợp với quá trình già hóa
dân số và cải thiện cuộc sống cho NCT. Các nghiên cứu về CTXH đối với NCT
còn chưa phổ biến, nhất là CTXH nhóm đối với NCT, nhất là trong giai đoạn Việt
Nam sắp bước vào thời kỳ dân số già, vì vậy việc trợ giúp xã hội cho NCT cần được
chú trọng
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về CTXH, CTXH nhóm, NCT và thực
trạng về phương pháp CTXH nhóm đối với NCT từ thực tiễn ....cũng như một số
yếu tố ảnh hưởng đến CTXH nhóm đối với NCT tại Trung tâm. Trên cơ sở đó, đề

xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTXH nhóm đối với NCT nói
chung và CTXH đối NCT tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Tỉnh Bình Phước nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
a) Hệ thống hóa lý thuyết được áp dụng cho phương pháp CTXH nhóm đối
với NCT, tìm hiểu cứu các chính sách của Nhà nước đối với NCT ở Việt Nam
c) Đánh giá thực trạng CTXH đối với NCT từ thực tiễn Trung tâm BTXH
tinh Bình Phước.
d) Áp dụng thử nghiệm phương pháp CTXH nhóm vào hỗ trợ NCT trung tâm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội nhóm với người cao tuổi
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: NCT đang sinh sống tại Trung tâm, cán bộ làm việc
trực tiếp, cán bộ quản lý.
Phạm vi không gian: tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bình Phước.
Phạm vi thời gian: Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực trạng về
NCT, thực trạng của CTXH đối với NCT trong Trung tâm BTXH tỉnh Bình Phước,

5


rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao
hiệu quả CTXH nhóm đối với NCT trong các cơ sở Bảo trợ xã hội.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như dịch vụ
hỗ trợ của CTXH đối với NCT, hệ thống chính sách đối với NCT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin,
số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài
liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Đọc và tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan đến CTXH như: Nhập
môn CTXH, Lý thuyết CTXH, CTXH nhóm, CTXH với NCT…
Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề
CTXH đối với NCT.
Đọc và phân tích các tài liệu như: Luật người cao tuổi, các đề án.
Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính sách hỗ
trợ đối với NCT.
- Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu thông qua các tri
giác như nghe, nhìn, …để thu thập các thông tin từ thực tế XH nhằm đáp ứng mục
tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp quan sát để tìm hiểu sâu
hơn về thực trạng NCT đang được nuôi dưỡng trong trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh
Bình Phước.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (Ban giám đốc, cán bộ trực tiếp chăm sóc,
NCT, thân nhân người cao tuổi)
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được sử
dụng để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động cơ, quan
điểm, chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn đề liên quan.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu để tìm hiểu về đời sống,
tâm tư nguyện vọng cũng như nhu cầu của NCT trong Trung tâm BTXH Tỉnh Bình

6


Phước. Thuận lợi và khó khăn gặp phải của đội ngũ cán bộ khi thực hiện chính sách

trợ giúp NCT tại Trung tâm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa về lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm khía cạnh lý
luận của CTXH nhóm với NCT bởi đây là một nội dung mới chưa có nhiều công
trình nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở cho việc phát triển dịch vụ CTXH
nhóm cho NCT, đổi mới cách thức phục hồi chức năng cho NCT, cung cấp dịch vụ,
đổi mới tổ chức hoạt động đồng thời góp phần hoàn thành mục tiêu của đề án 32 về
phát triển nghề CTXH tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, phụ lục, luận văn có các
chương sau đây:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi.
Chƣơng 2: Thực trạng công tác xã hội đối nhóm với người cao tuổi từ thực
tiễn tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bình Phước
Chƣơng 3: Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã
hội nhóm đối với người cao tuổi nói chung và trong Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình
Phước nói riêng.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI NGƢỜI CAO TUỔI
1.1. Khái quát chung ngƣời cao tuổi
1.1.1 Khái niệm người cao tuổi
Người cao tuổi là một khái niệm thường được dùng để chỉ những người đã có

nhiều tuổi trong xã hội.
Dưới góc nhìn của công tác xã hội, NCT là người bước vào thời kỳ có “Những
thay đổi về tâm, sinh lý, lao động-thu nhập, quan hệ xã hội và sẽ gặp phải nhiều vấn
đề trong cuộc sống" [7, tr.8]
Về mặt pháp luật, ở mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ khác nhau tùy theo các
điều kiện kinh tế xã hội cụ thể mà có sự xác định khái niệm khác nhau về NCT. Ở
Việt Nam hiện nay, theo quy định trong Luật NCT ngày 23/11/2009 thì: “ Người cao
tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên” [5, tr.3].
“NCT có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục con cháu về nhân cách và vai
trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Trong cộng đồng, NCT là người được phụng
dưỡng, chăm sóc, động viên tinh thần, tôn trọng nguyện vọng chính đáng và họ là
những người có tâm sinh lý đặc trưng - thích sum họp gia đình, con cháu, bạn bè.
Tìm hiểu NCT và sự lão hoá, phải tiếp cận nghiên cứu sự phát triển của người, vòng
đời người. Sự hiểu biết về vòng đời người, về những thách thức của từng giai đoạn
sống và sự tác động của các sự kiện trong đời sống lên sức khoẻ thể chất và tâm lý.
Theo một vài nghiên cứu của các tác giả, đời sống của con người được chia ra các
giai đoạn như sau:
22-29 tuổi: trưởng thành sớm
30-39 tuổi: ổn định
40-45 tuổi: khủng hoảng giữa cuộc đời
45-60 tuổi: trung niên
58-68 tuổi: người già còn trẻ “những năm vàng”.
Trên 75 tuổi: người già cao tuổi
Người già được qui định tuổi 65 hoặc già hơn, nhóm ít tuổi: 65-74 tuổi, trung
bình: 74-84 tuổi, cao tuổi nhất là trên 85 tuổi [29].
Ngoài ra, các tác giả còn chia ra vòng đời cá thể và vòng đời gia đình:

8



Vòng đời cá thể:
Cuối tuổi vị thành niên, đầu tuổi người lớn 30 tuổi là tuổi chuyển tiếp.
Tuổi trung niên, tuổi 50 là chuyển tiếp
Tuổi 60 trở đi là người cao tuổi
Trên 60 tuổi là tuổi già cao tuổi
Vòng đời gia đình:
18-21 tuổi: giữa các gia đình, người lớn và trẻ em không bị ràng buộc
22-27 tuổi: đôi vợ chồng mới (gắn bó các gia đình qua hôn nhân).
28-39 tuổi: gia đình có trẻ nhỏ
34-49 tuổi: gia đình có vị thành niên
50-60 tuổi: con cái trưởng thành và hoạt động
Trên 60 tuổi: gia đình và tuổi già.
Nghiên cứu vòng đời người, các giai đoạn của vòng đời gia đình và vòng đời
cá thể cho chúng ta thấy và nhận biết được đâu là sự phát triển bình thường và đâu là
sự phát triển bất thường, tiên lượng được những vấn đề tiềm ẩn trong đời sống cá
nhân để có thể có những biện pháp tác động thích hợp. Theo đó, các tác giả đã đưa ra
cấu trúc một gia đình truyền thống hay còn gọi là gia đình hạt nhân nhằm cho thấy
quan hệ của NCT (người già) trong cấu trúc gia đình đó, cấu trúc đó gồm chồng, vợ
và các con cái cùng chung sống một nhà, với những quan hệ khăng khít họ hàng
(những người ngoài gia đình hạt nhân có quan hệ huyết thống hay hôn nhân).
Như vậy, khi nói đến NCT (người già), về khía cạnh y sinh học và tâm lý học,
NCT phải trải qua các giai đoạn phát triển và biến thoái đến giai đoạn cuối của vòng
đời người, vòng đời cá thể, và trong đó diễn ra những biến
động tâm, sinh lý qua các vòng đời gia đình.
Lão hóa (tiếng Anh: Senescence, xuất phát từ senex nghĩa là “người già”, “tuổi
già”) là trạng thái hay quá trình tạo nên sự già nua. Khái niệm người già và sự lão
hóa, xét trong giới hạn qui luật tâm – sinh học về sự phát sinh diễn biến của đời
người, có thể coi đây là giai đoạn hóa già (thoái hóa) của cơ thể con người, đặc biệt
về hiện tượng sinh lý, tâm lý và xã hội. Về sinh học, có hiện tượng tự phá hũy các
gen (chết theo chương trình), hiện tượng mất gen kết thúc, hiện tượng tổn thương các

gốc tự do, tổn thương trong ty lạp thể, ... [31], (sẽ được trình bày trong phần đặc điểm
sinh lý và sự lão hóa). Về khía cạnh tâm lý, vòng đời cá thể và vòng đời gia đình đã

9


cho thấy sự biến đổi tất yếu như một qui luật tiến triển của đời sống tâm sinh lý con
người trong từng giai đoạn theo cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Trong đó, xét
đến sự tác động của yếu tố trãi nghiệm trong thời kỳ trẻ tuổi, sự đầm ấm của gia đình,
sự nâng đỡ hiện tại trong mối quan hệ của vợ chồng, gia đình, bạn bè, sự đảm bảo về
tài chính, kể cả sự hài lòng hay không về tình trạng công việc, sinh hoạt của cá nhân.
Các thành tố đó liên quan rất chặt chẽ đến người già, và có thể đo lường được qua kỷ
năng ứng xử.
Sự phát triển của con người bắt đầu từ thơ ấu, đến tuổi vị thành niên, đến tuổi
trưởng thành sớm và trung niên, và cuối cùng là giai đoạn cao tuổi. Quan điểm về sự
phát triển của người bao gồm các nhân tố sinh lý học và tâm lý xã hội. Thường sự
thay đổi của cơ thể và sự biến đổi tâm lý xã hội đi cùng với nhau. Mặt khác, người ta
cũng thấy thường những “biến động” có tính chất stress đánh dấu sự chuyển đổi cần
thiết từ một giai đoạn này sang một giai đoạn khác của đời sống con người. Nhiều
NCT trở thành người khuyết tật khi về già. Do cơ thể lão hóa hoặc tổn thương do
bệnh lý sẽ làm yếu thậm chí mất hẳn chức năng của tai, mắt, chức năng vận động.
Trong chu kỳ của cuộc sống, NCT thường trở lại giai đoạn phải lệ thuộc vào
gia đình như tuổi ấu thơ được gia đình nuôi dưỡng, chăm sóc. Đó là vì khi tới tuổi
cao, khả năng làm việc của NCT giảm bớt do cơ thể lão hóa, lại nẩy sinh những bệnh
liên hệ tới tuổi già, khiến NCT mất khả năng tự túc, tự tồn, thậm chí mất cả khả năng
hiểu biết.
Địa vị của NCT phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của bản thân họ và gia
đình. Bên cạnh một bộ phận nhỏ NCT có các điều điều kiện kinh tế, họ có thể thuê
mướn những người phục vụ chăm sóc tại gia đình hoặc lựa chọn cách sống trong các
cơ sở dịch vụ chăm sóc NCT với đầy đủ tiện nghi y tế, vật chất. Trong khi đó phần

lớn NCT còn lại với sự hạn hẹp về tài chính phải dựa vào sự quan tâm của gia đình,
người thân và cộng đồng nơi cư trú.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NCT thuộc nhóm nghèo nhất trong
các nhóm nghèo. Nghèo là một trong những thách thức lớn nhất trong cuộc sống của
người lớn tuổi. Tình trạng nghèo mà NCT phải đối mặt có tác động lớn đến chế độ ăn
uống, bệnh tật, nhà ở cũng như việc tiếp cận với các dịch vụ của xã hội. Một số lượng
không nhỏ NCT phải tiếp tục tham gia lao động. Đây là cách thức quan trọng để nâng
cao điều kiện sống của nhiều NCT.

10


1.1.2. Đặc điêm tâm sinh lý người cao tuổi
Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của NCT, cho thấy tuổi già có những biểu hiện
tâm lý liên quan đến quá trình lão hóa.
- Sự chậm chạp về tâm lý vận động: một động tác nhưng mất nhiều thời gian,
sự lẫn lộn về thời gian, rối loạn trí nhớ: khó khăn trong việc tái hiện, có thể nhớ được
khi có sự gợi ý, có khi lú lẫn, do liên quan đến sự suy giảm ý thức và tập trung chú ý.
- Về tư duy: suy nghỉ chậm chạp, liên tưởng chậm, ý tưởng tự ti, tự cho mình
là thấp kém, nặng hơn có thể có hoang tưởng bị tội, bị hại, nghi bệnh…
- Về tri giác: giảm tốc độ xử lý thông tin, có sự suy giảm về tri giác giác quan
(thao tác cấp cao) nên nhận thông tin chậm, đôi khi bị nhiễu.
- Khó tập trung chú ý hoặc chú ý giảm, cảm xúc dao động liên quan đến sự lão
hóa hệ viền, cấu tạo lưới. Những biến đổi tâm lý nặng có thể có lo âu, trầm cảm,
những biểu hiện của lo âu rất đa dạng, phức tạp: cảm giác sợ hãi, lo lắng thái quá về
sức khoẻ của mình, lo lắng về tương lai, khó tập trung tư tưởng, dễ cáu, khó tính,
căng thẳng vận động, bồn chồn, đứng ngồi không yên, đau đầu, khô miệng, đánh
trống ngực. Những biểu hiện của trầm cảm ở người già thường thấy là cảm giác buồn
phiền, chán nản, bi quan, mất hứng thú với những ham thích trước đây, mất niềm tin
vào tương lai, giảm nghị lực, giảm tập trung, rối loạn giấc ngủ, ăn không ngon miệng,

và họ có thể trở nên suy kiệt.
Như vậy, trong quá trình lão hóa, cùng với những thay đổi chức năng sinh lý
các hệ thống cơ quan trong cơ thể, các nghiên cứu cũng nhận thấy có những biến đổi
về tâm lý ở NCT. Bởi vậy, có thể nói ngoài các bệnh cơ thể mà người già dễ bị mắc,
thì các rối loạn tâm lý cũng là “bạn đồng hành” của họ. Các rối loạn tâm lý ở NCT rất
phong phú và đa dạng. Những biểu hiện thường thấy là từ cảm giác khó chịu, lo lắng,
đến các rối loạn thần kinh chức năng, như mệt mỏi, uể oải, đau nhức, rối loạn giấc
ngủ, lo âu, ám ảnh, nặng hơn có thể có các rối loạn loạn thần như hoang tưởng, ảo
giác, rối loạn trí nhớ, rối loạn ý thức, rối loạn các năng lực phán đoán suy luận,… như
đã trình bày ở trên. Có thể nói, đây là giai đoạn có nhiều biến đổi tâm lý đặc biệt ở
NCT; và các rối loạn tâm lý đó có liên quan trước hết đến các stresss của việc thích
nghi với hoàn cảnh sống mới, khi phải chuyển từ giai đoạn làm việc tích cực đến giai
đoạn nghỉ hưu. Bởi vì, sau khi nghỉ hưu những NCT phải trải qua hàng loạt các biến
đổi tâm lý quan trọng do thay đổi nếp sinh hoạt, cũng như sự thu hẹp các mối quan hệ

11


xã hội. Lúc này, ở họ xuất hiện tình trạng khó thích nghi với giai đoạn nghỉ hưu, và
dễ mắc “hội chứng về hưu”, với tâm trạng buồn chán, mặc cảm, thiếu tự tin, dễ nổi
giận, cáu gắt. Do đó, họ trở nên sống cô độc và cách ly xã hội.
Theo các nghiên cứu khác nhau năm 2004 [29], [30], cho thấy có tới 40-50%
người già có rối loạn tâm thần phải nhập viện điều trị, 70% người già phải nằm trong
các nhà điều dưỡng. Các rối loạn tâm thần quan trọng nhất ở người già là lo âu
(5,5%), trầm cảm (10-15%) và sa sút trí tuệ (4%). Rối loạn trầm cảm và lo âu là
thường gặp trong cộng đồng, trong đó 20% bệnh nhân nằm trong thực hành đa khoa,
30 - 40% bệnh nhân điều trị nội trú nội khoa, 40% bệnh nhân nằm ở nhà điều dưỡng.
Trong các dưới nhóm của sa sút trí tuệ, thường gặp bệnh Alzheimer (60-70%), và
một tần suất thấp hơn sa sút trí tuệ do mạch máu (20%), sa sút trí tuệ thể Lewy
(20%), sa sút trí tuệ trán thái dương (8%). Những biểu hiện đặc trưng của sa sút trí

tuệ thường gặp ở NCT là rối loạn nhiều chức năng nhận thức, trong đó rối loạn trí
nhớ là cơ bản nhất, và một trong các biểu hiện vong ngôn, vong tri, vong hành, rối
loạn chức năng điều hành. Các rối loạn này gây ảnh hưởng đáng kể đến chức năng
XH và nghề nghiệp, làm suy giảm đáng kể mức độ các hoạt động chức năng trong
sinh hoạt trước đó.
Trong bệnh Alzheimer, rối loạn trí nhớ là dấu hiệu đầu tiên của suy giảm
nhận thức, người bệnh có thể đặt nhầm chổ đồ vật, quên hay tự lặp lại, hoặc rối loạn
biểu đạt và tiếp nhận ngôn ngữ, hỏi đi hỏi lại một câu hỏi, bị lạc ở những chổ quen
thuộc, không thể nhận ra người thân và bạn bè. Các rối loạn trong hoạt động cho sinh
hoạt (nấu ăn, mua sắm, quản lý tiền nong, sử dụng các đồ gia dụng…), các rối loạn
hành vi (lục lọi, xáo trộn đồ đạc, mắng chửi, đánh đá, đi lang thang, hoặc mất ức chế
tình dục…), rối loạn cảm xúc (trầm cảm, vô cảm, lo âu…), và loạn thần (hoang
tưởng, ảo giác) cũng thường thấy ở người già bị bệnh Alzheimer.
Ngoài ra, người ta còn nhận thấy một số rối loạn loạn thần giống tâm thần
phân liệt, như các hoang tưởng “bị cô lập, bị truy hại”, “các ảo thanh, ảo khứu, ảo
giác xúc giác”.
Từ những nghiên cứu trên cho chúng ta thấy được đặc điểm tâm -sinh lý, và
những thay đổi của cơ thể, cũng như những biến đổi của tâm lý rất phong phú và đa
dạng ở NCT gắn liền với quá trình lão hoá, quá trình tạo nên tuổi già. Trong quá trình
lão hóa, ngoài phát hiện những thay đổi chức năng sinh lý các hệ thống cơ quan trong

12


cơ thể, người ta cũng nhận thấy những biến đổi về tâm lý nhiều mức độ khác nhau ở
NCT. Nghĩa là, ở người già thường xuất hiện những rối loạn tâm thần đặc trưng (như
trình bày ở trên), cũng như các bệnh lý cơ thể thường gặp ở lứa tuổi này. Từ đó, giúp
cho người thầy thuốc có cách nhìn tổng quan trong việc tiếp cận khám và điều trị các
rối loạn tâm – sinh lý NCT, nhằm đưa lại hiệu quả trong việc chăm sóc sức khoẻ thể
chất và tâm thần cho NCT trong cộng đồng.

1.1.3.Nhu cầu của người cao tuổi
Ở tuổi này, có người tỏ ra sức yếu lực tàn, song có người vẫn còn nhanh nhẹn,
khoẻ mạnh về thể chất và minh mẫn về trí tuệ. Tuy nhiên, cũng như ở những lứa tuổi
khác, phần lớn người già cũng cần có một số nhu cầu cơ bản, phù hợp với lứa tuổi cụ
thể là: Nhu cầu về ăn, ở; nhu cầu an toàn; nhu cầu tình cảm; nhu cầu được tôn trọng,
được chấp nhận, được thấy mình có ích và nhu cầu có việc làm phù hợp.
Nhu cầu về dưỡng chất ở NCT
Khi người ta về già, thể chất bắt đầu thay đổi, nó gây ảnh hưởng đến hệ thống
tiêu hóa và làm giảm tính ngon miệng, ăn ít hơn. Trong khi đó, việc hấp thụ dưỡng
chất của cơ thể lại giảm nên dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng, mắc phải nhiều căn
bệnh nan y như: ung thư, tim mạch, béo phì, loãng xương, cao huyết áp, đái tháo
đường... Cũng qua nghiên cứu cho thấy, có tới trên 70% NCT không sản xuất đủ
nước bọt, đây là hiện tượng được xem là bình thường và do nhiều nguyên nhân, trong
đó có việc sử dụng một số loại thuốc chữa bệnh như: thuốc trầm cảm, huyết áp, lợi
tiểu và thuốc an thần... Và khi thiếu nước bọt làm cho người ta ăn mất ngon, tiêu hóa
chậm và phát sinh bệnh răng lợi. Hiện tượng suy dinh dưỡng ở NCT còn gây ra căn
bệnh có tên là Hypochlorhydria hay còn gọi là hiện tượng thiếu acid của dạ dày, làm
cho dạ dày tiêu hóa thức ăn và hấp thụ dưỡng chất kém hơn, nhất là khi thiếu hụt
vitamin B12. Khi về già, sức khỏe hệ thống miễn dịch suy giảm, làm cho cơ thể dễ
mắc bệnh viêm nhiễm virus, cơ bắp bị tổn thương và thay vào đó là việc tích mỡ nên
cơ thể suy yếu, dễ bị mắc bệnh loãng, giòn và gãy xương, bởi vậy, việc bổ sung đầy
đủ dưỡng chất ở NCT là vô cùng quan trọng. Theo nghiên cứu thì nhu cầu về calo,
protein, mỡ và chất xơ ở người 70 tuổi không khác gì nhóm người trẻ tuổi. Riêng
những người dư thừa trọng lượng nên giảm lượng calo đầu vào, đa dạng hóa nguồn
đầu vào để đảm bảo đủ protein, chất xơ, vitamin và khoáng chất các loại. Nhu cầu
protein đầu vào được tính toán dựa trên trọng lượng cơ thể, trung bình tiêu thụ từ 0,8

13



- 1g protein/1kg trọng lượng hoặc xấp xỉ 70g/ngày cho người nặng 67kg. Về chất xơ
nên ăn tối thiểu 25g/ngày và tăng lên nếu mắc bệnh táo bón. Để phòng ngừa bệnh
loãng xương, giòn xương nên bổ sung canxi, vitamin D, K trong đó canxi đóng vai
trò quan trọng trong việc tăng cường tỷ trọng và sức khỏe cho xương. Nhu cầu tiêu
thụ canxi ở nhóm trên 70 tuổi, bất kể giới tính là 1.200mg. Nếu phụ nữ mãn kinh
không sử dụng liệu pháp thay thế hormone thì bổ sung thêm nhiều canxi, ít nhất
1.500mg/ngày. Ngoài ra, tăng cường thêm vitamin D vì nó giúp cho việc hấp thụ và
sử dụng canxi của cơ thể được tốt.Để bảo vệ xương cần bổ sung thêm vitamin K như
trong rau bina, bông cải, xúp lơ, cà rốt và măng tây.Vitamin E, C và caroten có tác
dụng bảo vệ tế bào trước nguy cơ phá hủy của các gốc tự do, hạn chế bệnh thoái hóa
điểm vàng, bệnh tim mạch và ung thư.Crom là dưỡng chất rất cần thiết đối với nhóm
NCT để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường. Acid folic, vitamin B6 và vitamin B12 có
tác dụng rất tốt làm giảm homocysteine, đây là một sản phẩm phụ của quá trình trao
đổi chất, thủ phạm gây phá hủy thành mạch, gây chứng xơ vữa động mạch, làm gia
tăng bệnh tim mạch, bệnh Alzheimer (sa sút trí tuệ). Ngoài ra, NCT cũng nên bổ sung
thêm 3 khoáng chất quan trọng là kẽm, magiê và kali, trong đó kẽm có tác dụng tăng
cường sức khỏe hệ miễn dịch, tăng cường tính ngon miệng giúp cho vết thương
nhanh lành. Ngoài các dưỡng chất kể trên, NCT nên bổ sung thêm nước, vì khát nước
có thể gây nhiều bệnh về thể chất, trong đó có hai loại bệnh thường gặp là táo bón và
sỏi thận.
Nhu cầu giải trí
Đây là một phần trong các hoạt động của đời sống, đặc biệt là với các bác cao
tuổi. Lý do là ở tuổi này các bác đã nghỉ hưu, sau một thời gian dài gây dựng gia
đình, phục vụ cộng đồng, xã hội, các bác sẽ có nhiều thì giờ rảnh rỗi. Các bác cần
tham dự vào một thú tiêu khiển nào đó để khỏi rơi vào cảnh “ngồi buồn mà trách ông
Xanh” hoặc “nhàn cư vi bất thiện” cũng như để duy trì tình trạng sức khoẻ tinh thần
và thể chất lành mạnh. Con cháu nên đặc biệt lưu tâm tới vấn đề này, vì cha mẹ già
thường hay trở lại tâm trạng của một đứa bé, hành động bất thường, vui đấy buồn
đấy, đôi khi hơi cứng đầu, không chịu nghe ý kiến người khác. Con cháu cũng nên để
ý rằng không phải già là không còn các thú tiêu khiển lành mạnh.

Trước đấy các cụ ta vẫn nói về hưu là thời kỳ quy ẩn, vui thú điền viên. Các cụ
thư giãn với công việc trồng hoa, nuôi chim, làm cây cảnh hoặc “ngao du sơn thuỷ”

14


thăm viếng bạn bè, quyến thuộc gần xa. Các cụ gặp nhau đánh cờ giao lưu, trà dư tửu
hậu, bàn chuyện năm châu bốn bể. Ngày nay lại còn nhiều thú tiêu khiển khác mà
NCT có thể tham gia, như :
– Tiểu công nghệ tạo ra các sản phẩm nhỏ bé nhờ bàn tay khéo léo kinh
nghiệm của các NCT, như đồ chơi trẻ em, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ… Các đồ chơi
này có thể là nguồn lợi tức thêm cho ngân sách gia đình hoặc mang bán để gây quỹ từ
thiện, giúp người nghèo khó. Hiện nay, có nhiều lớp hướng dẫn để NCT làm công
việc này.
– Học vẽ, sử dụng máy vi tính, học chơi một nhạc khí nào đó hoặc tham gia
nhóm ca hát tại cơ sở tôn giáo, tổ chức nhân dân. Ở tuổi cao, sử dụng máy vi tính
giúp ta tìm đọc nhiều loại sách quý mà không cần tới thư viện, hiểu biết diễn biến
nhiều sự việc xảy ra khắp nơi trên thế giới, giúp ta liên lạc với bạn bè qua những lá
thư điện tử.
– Tập luyện dưỡng sinh với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng có chung
mục đích là thư giãn tâm hồn, tập trung tư tưởng, giữ tâm thân an lạc, loại bỏ nhiễu ý
đồng thời cũng áp dụng các cử động để tăng cường sức mạnh cơ bắp, uyển chuyển
trơn tru xương khớp.
– Khiêu vũ, múa đôi cũng đang được nhiều bác ưa thích, vừa để thư giãn tâm
hồn trong điệu nhạc và cũng dẻo dai đôi chân, uyển chuyển thân hình, giảm béo, hạ
huyết áp, đường huyết, cholesterol.
– Tham gia các công tác từ thiện giúp đỡ người có nhu cầu, thăm viếng bệnh
nhân tại bệnh viện hoặc các vị lão niên khác chẳng may kém sức khoẻ đang sống tại
nhà người già.
– Tổ chức tham quan di tích lịch sử, phong cảnh quê hương hoặc du lịch xứ lạ

để biết thêm phong tục tập quán đất nước quê người.
– Tình nguyện tại trường học để truyền đạt kinh nghiệm đời sống, việc làm
cho con cháu cũng như kể lại nguồn gốc lịch sử tiền nhân, duy trì văn hoá, truyền
thống hào hùng dân tộc.
– Làm vườn, trồng cây cảnh, vun tưới mấy luống rau thơm cũng là thú tiêu
khiển thanh nhã, thoải mái mà lại tạo thêm cảnh quang đẹp mắt cho ngôi nhà mà đôi
vợ chồng già đang ở.

15


– Người có tâm hồn văn học nghệ sĩ thì làm thơ, viết sách, học đàn học hát ca
vui ngày tháng với bạn bè, quyến thuộc. Phát minh karaoke vào cuối thế kỷ vừa qua
đã giúp con người giao lưu với con người một cách cởi mở, vui nhộn qua việc vô tư
“hát cho nhau nghe” dù hay dù dở, miễn là cùng vui.
– Rồi lại còn đi câu cá, đánh cờ, chơi domino, ô chữ và nhiều thú vui nhẹ
nhàng bổ ích khác. Tuổi già trí óc thường cũng hay xáo trộn, nhớ trước quên sau, ù lì
trì trệ. Nếu không năng dùng tới các chức năng cơ thể thì e rằng sẽ rơi vào tình trạng
“thối lui”, cô lập rồi buồn phiền, gắt gỏng, biếng ăn mất ngủ, sức khoẻ suy dần. Cho
nên, nếu lấp đầy khoảng trống thời gian với các sinh hoạt trò chơi hữu ích để tránh
nhàm chán mà lại có lợi cho sức khoẻ.
1.2. Công tác xã hội nhóm đối với ngƣời cao tuổi
1.2.1. Khái niệm công tác xã hội nhóm
Trong đời sống của mình, mỗi cá nhân không thể tách mình khỏi các hoạt
động xã hội. Những hoạt động mà cá nhân tham gia rất đa dạng, đó có thể là các
hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động học tập, hoạt động kinh tế, chính trị. Sự
phân công lao động buộc cá nhân muốn thực hiện nhiệm vụ của mình phải hợp tác
với các cá nhân khác. Sự hợp tác ấy hình thành nên các nhóm và được thể hiện qua
các dấu hiệu sau:
- Số lượng thành viên nhóm phải có từ 03 thành viên trở lên. Thông thường

trong CTXH nhóm, muốn đạt hiệu quả cao thì số lượng nhóm viên nên ở mức vừa
phải (nhóm từ 7-11 thành viên). Tuy nhiên, không cứng nhắc hay có một khuôn mẫu
đóng về số lượng nhóm viên.
- Các thành viên trong nhóm phải có mối liên hệ tương tác với nhau, thống
nhất trong mọi hành động.
- Khi tham gia vào nhóm, mọi thành viên bao giờ cũng có một mục đích riêng
song mục đích đó thường phù hợp với mục tiêu chung của nhóm. Khi mục đích cá
nhân phù hợp với mục đích nhóm, các thành viên sẽ có ý thức chung về nhóm và
nhận thức được vai trò của mình trong nhóm. Lúc đó, các thành viên sẽ trở thành
một tiểu hệ thống trong một hệ thống lớn mà họ tham gia
- Nhóm thường được thành lập dựa trên một kiểu cấu trúc nhất định. Có thể là
một cơ cấu chính thức với sự phân định vị thế và vai trò cụ thể gắn với từng thành
viên, có thể là là một cơ cấu không chính thức, tồn tại trong một thời gian ngắn song

16


chúng đều là những cấu trúc tồn tại, xác định.
Từ những phân tích trên có thể xác định: Nhóm xã hội là một tập hợp người
trong đó các cá nhân có cùng chung lợi ích, mục đích, có mối quan hệ tương tác lẫn
nhau và tồn tại theo một kiểu cấu trúc nhất định.
Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận với CTXH
nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và những ứng dụng thực hành cụ
thể. Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định nghĩa bao quát được bản chất của
CTXH nhóm và tổng hợp những điểm riêng biệt của các cách tiếp cận với CTXH
nhóm như sau: “CTXH nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và
trị liệu nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm XH và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt
động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn thể
nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ”. Hoạt động có mục đích được các tác
giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế hoạch đúng trật tự, hướng tới nhiều mục đích

khác nhau, ví dụ như để hỗ trợ hay giáo dục nhóm giúp các thành viên trong nhóm
giao tiếp và phát triển cá nhân. Định nghĩa này cũng nhấn mạnh hoạt động có định
hướng không chỉ với cá nhân thành viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm.
Trong từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm được đinh nghĩa là:
“Một định hướng và phương pháp can thiệp CTXH, trong đó các thành viên chia sẻ
những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường xuyên và tham gia vào
các hoạt động đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm
lý nhóm, mục tiêu CTXH nhóm không chỉ là trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình
cảm mà còn là trao đổi thông tin, phát triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các
định hướng giá trị và làm chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành các nguồn
lực hiệu quả. Các kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình CTXH nhóm nhưng
không hạn chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu” [32, tr.85].
Khái niệm trên có đưa ra sự khác biệt giữa công tác xã hội nhóm và trị liệu
tâm lý nhóm ở việc “phát triển các kỹ năng xã hội vào lao động, thay đổi định hướng
giá trị và làm chuyển biến hành vi chống lại xã hội”. Để kiểm chứng cho những khác
biệt trên, chúng ta tìm hiểu khái niệm về trị liệu tâm lý, trong đó bao gồm cả trị liệu
tâm lý nhóm. Từ điển CTXH của Barker (1995) nêu: “Trị liệu tâm lý là một hoạt
động tương tác đặc biệt và chính thức giữa một nhân viên xã hội hay các chuyên
môn về sức khỏe tâm thần khác với thân chủ cá nhân, hai người, gia đình hay nhóm,

17


ở đó mối quan hệ trị liệu được thiết lập để giải quyết những biểu hiện của rối nhiễu
tâm thần
Như vậy công tác xã hội nhóm là: CTXH nhóm là một phương pháp của
CTXH nhằm tạo dựng và phát huy sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực giữa
các thành viên, giúp củng cố, tăng cường chức năng XH và khả năng giải quyết vấn
đề, thỏa mãn nhu cầu của nhóm.
1.2.2. Phương pháp công tác xã hội nhóm với người cao tuổi

Khái niệm: Công tác xã hội nhóm đối với NTC là các hoạt động của nhóm
đánh giá về nhu cầu XH, dùng các phương pháp, kỹ năng trợ giúp NCT phục hồi về
sức khỏe, tâm trí giảm thiểu các bệnh tuổi già và phục hồi các kỹ năng sống để họ có
điều kiện sống tốt hơn, kéo dài tuổi thọ có nghĩa là:
Ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc năng
động nhóm)
Nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề
Các mục tiêu XH được thiết lập bởi nhân viên xã hội trong kế hoạch hỗ trợ
thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp
thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng XH thông qua các kinh nghiệm của
nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu.
- Đặc điểm của phương pháp công tác xã hội nhóm đối với NCT
Hoạt động nhóm là nơi thoả mãn nhu cầu của cá nhân, đối tượng giúp đỡ của
CTXH nhóm trong nghiên cứu là NCT về được tiếp nhận vào trung tâm đang có vấn
đề về tâm lý, thể chất và những khó khăn về sinh kế gần giống nhau, họ cần trợ giúp
về chăm sóc sức khỏe ban đầu, về ổn đinh tâm lý, để có thể vượt qua những rào cản
của tuổi già, mong muốn hòa nhập đoàn tụ cùng con cháu khó khăn ban đầu khi trở
về hòa nhập cộng đồng.
+ Nhóm tăng cường khả năng cho bản thân NCT tự giải quyết vấn đề của bản
thân như: ổn định tâm lý, tự tin, không mặc cảm bi…
+ Ảnh hưởng nhóm giúp thay đổi hành vi, thái độ của nạn nhân và họ có thể
chia sẻ mọi thông tin cá nhân trong nhóm.
– Các yếu tố cần quan tâm trong CTXH nhóm:
– Các yếu tố cần quan tâm trong CTXH nhóm:
* Người cao tuổi đang được chăm sóc nuôi dưỡng tại Trung tâm.

18


* Đang được chăm sóc sức khỏe, tư vấn tâm lý.

* Cần được ăn, ở và hỗ trợ phục hồi chức năng
* Mục tiêu cần đạt được là được chữa trị nếu có bệnh và ổn định tâm lý, không
còn mặc cảm.
* Giá trị: Sinh hoạt nhóm dựa trên quan điểm đồng nhất cùng hoàn cảnh và
cùng chia sẻ mọi thông tin cá nhân để có hướng giải quyết.
* Phương cách thực hành: Cơ cấu nhóm nhỏ, vai trò, trách nhiệm của các
thành viên trong nhóm, mối quan hệ bên trong và bên ngoài nhóm, các hoạt động
sinh hoạt theo định kỳ (giờ trong ngày) bầu ra trưởng nhóm và đề ra nội dung sinh
hoạt nhóm…
- Tiến trình CTXH nhóm đối với NCT gồm 4 bước trong tiến trình CTXH nhóm
Bước 1: Thành lập nhóm
Nhân viên CTXH phải tìm hiểu cơ sở trước khi lập nhóm. Mục đích thành lập
nhóm phải rõ ràng, được mọi người hiểu và cùng chia sẻ, nếu không sự hợp tác hai
bên (nhân viên xã hội và nhóm viên) và sự tham gia sẽ bị giới hạn, thỏa thuận để đạt
mục tiêu trong một thời hạn nhất định.
Trước khi thành lập nhóm, nhân viên CTXH phải biết tại sao mình muốn sử
dụng phương pháp nhóm và những đặc tính - nhu cầu chung nhất của đối tượng:
1. Chọn nhóm viên: Số lượng nhóm viên phải phù hợp với mục đích, các yếu
tố quy định số lượng. Trước tiên là sự tương đồng về nhu cầu hay vấn đề cần giải
quyết, việc tìm hiểu nhóm viên rất quan trọng.
2. Mục tiêu sinh hoạt: Cần phân biệt mục đích cuối cùng của CTXH (cá nhân,
nhóm, cộng đồng) là sự thay đổi, phục hồi, tăng trưởng về mặt tâm lý XH của thân
chủ và mục tiêu của hoạt động mà nhóm đề ra: Sức khỏe, ổn định tâm lý, tự tin để
hòa nhập cộng đồng.
3. Cơ cấu tổ chức nhóm:

Tất cả các nhóm để đạt đến một mục tiêu đều phải

có phân công trách nhiệm. Có nhóm viên trội hơn, có tinh thần trách nhiệm cao, được
trao vai trò trưởng nhóm, có nhóm viên khéo tay, khóe nói được phân công dạy kỹ

năng. Cơ cấu ít nhiều mang tính hình thức và cố định tùy thuộc vào chức năng của
nhóm.
Bước 2 : Khảo sát nhóm
Tìm hiểu mối quan hệ cá nhân

19


Tìm hiểu tiến trình nhóm (nhóm được lập lúc nào, lí do hình thành nhóm? Đã
có những hoạt động gì? Ai là người lãnh đạo?)
Tìm hiểu chức năng vai trò của từng thành viên nhóm thông qua thảo luận,
quan sát.
Tìm hiểu môi trường sinh hoạt của nhóm, qui chế nhóm.
Qui định của cơ sở XH: Ở giai đoạn này (giai đoạn dài nhất) nhân viên CTXH
vừa hỗ trợ về chương trình vừa hết sức quan tâm đến tiến trình (các mối tương tác
giữa nhóm viên) để các nhóm viên được hưởng tối đa bầu không khí và các mối quan
hệ thuận lợi. Những NCT đã bị tổn thương trong đời sống XH như bị con cháu bỏ
rơi, không hiếu thuận hay do hoàn cảnh kinh tế nên dễ xúc động, thiếu tự tin luôn
nghĩ mình là gánh nặng của XH sẽ tìm lại sự cân bằng về cảm xúc, ổn định tâm lý,
suy nghĩ tích cực và xóa đi mặc cảm.
Lên kế hoạch các hoạt động: Thông thường, nhân viên XH hỗ trợ nhóm lựa
chọn và sử dụng các hoạt động. Vai trò của tác viên bao gồm nhiều công việc như
chọn một hoạt động, lên kế hoạch, khởi đầu, hỗ trợ, điều chỉnh, điều quan trọng là tạo
sự gắn kết giữa các thành viên trong nhóm và các hoạt động phải là những cơ hội
khen thưởng để các nhóm viên phàn ứng một cách tích cực. Vai trò của nhân viên
CTXH là tạo sự ham muốn tham gia hoặc thúc đẩy người khác trở nên dấn thân hơn.
Bước 3: Duy trì nhóm
Đây là bước chính trong CTXH nhóm, bước đưa đến những thay đổi. Nhân
viên XH chứng tỏ khả năng chuyên môn của mình, quan tâm đến việc chia sẻ thông
tin, cảm xúc giữa các thành viên với nhau. Đặc điểm của bước này là sự bộc lộ, mong

mỏi được sự phản hồi. Các nhóm viên trao đổi thông tin về cá nhân, về công việc, tìm
hiểu hành vi và ý nghĩa hành vi của nhau. Ở giai đoạn này (giai đoạn dài nhất)
NVXH vừa hỗ trợ về chương trình vừa hết sức quan tâm đến tiến trình (các mối
tương tác giữa nhóm viên) để các nhóm viên được hưởng tối đa bầu không khí và các
mối quan hệ thuận lợi. Những người đã bị tổn thương trong đời sống XH như nạn
nhân bị buôn bán trở về bị khinh thường. Các nguyên tắc chấp nhận, lắng nghe, tôn
trọng cần được nhân viên CTXH truyền đạt cho nhóm viên để nhóm viên ứng xử với
nhau theo hướng tích cực nhất.
Bước 4: Bước giải quyết vấn đề và đạt mục tiêu xã hội

20


CTXH nhóm là một phương pháp càng ngày càng được sử dụng vì có hiệu
quả cao. Nhưng nó không phải vạn năng, bên cạnh các phương pháp cá nhân, nhóm,
cộng đồng còn nhiều cách can thiệp khác như biện hộ, xây dựng chính sách, kế
hoạch, pháp chế, mới giải quyết được các vấn đề XH. Tuy nhiên, ở bước 4 này, nhân
viên CTXH cần quan tâm một số công việc:
- Duy trì những cố gắng thay đổi của nhóm viên, giúp họ phát triển lòng tự tin,
suy nghĩ tích cực
- Giảm sự thu hút của nhóm và tăng cường chức năng tự lực của các cá nhân
thành viên.
- Hỗ trợ các thành viên đương đầu với những cảm xúc khi kết thúc
- Lên kế hoạch cho tương lai
- Giúp họ tiếp cận với các dịch vụ
Mục đích: Nhằm tiếp cận, thu thập đầy đủ, chính xác về nguồn lực, các hoạt
động hỗ trợ NCT ; để hiểu biết bản chất nhất các đặc điểm, nhu cầu cần hỗ trợ của
NCT.
Kết quả: Việc vận dụng công tác xã hội nhóm đem lại hiệu quả như thế nào và
có những khó khăn gì trong hỗ trợ NCT sẽ thể hiện ở thực trạng CTXH nhóm ở

chương 2 của nghiên cứu này.
1.2.3 Nguyên tắc công tác xã hội nhóm đối với người cao tuổi
Trên cơ sở nền tảng triết lý và giá trị và nguyên tắc nghề nghiệp của CTXH
người ta đưa ra hệ thống các qui tắc ứng xử cho nhân viên XH trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Những qui tắc ứng xử này đóng vai trò như kim chỉ nam cho hành
động tương tác của NV XH với đối tượng trong quá trình trợ giúp. Sau đây là những
nguyên tắc ứng xử của nhân viên XH trong quá trình tiến hành hoạt động trợ giúp:
- Chấp nhận đối tượng
Đối tượng phục vụ của ngành CTXH là con người, đặc biệt là nhóm người yếu
thế, nhóm người có hoàn cảnh và nhu cầu cơ bản chưa được đáp ứng. Mỗi con người,
dù là bình thường hay bất bình thường họ đều có nhân phẩm, có giá trị riêng và có
quyền được tôn trọng, bình đẳng. Chính vì vậy trong các hoạt động trợ giúp, nhân
viên XH cần có thái độ tôn trọng phẩm giá con người và chấp nhận họ. Việc chấp
nhận những hành vi, quan điểm hay giá trị của đối tượng không có nghĩa là đồng tình
với những hành vi, suy nghĩ của họ. Sự tôn trọng hay chấp nhận ở đây ám chỉ sự ghi

21


×