Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm Cung cấp dịch vụ Công tác xã hội Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.41 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƢƠNG HẢI DƢƠNG

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI

1

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM TIẾN NAM

Phản biện 1: TS. Trần Thị Minh Thi
Phản biện 2: TS. Phạm Trường Giang

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 08 giờ, ngày 14 tháng 5


năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam trong quá trình đổi mới toàn diện, hơn hai thập kỷ
qua đã tạo ra những thay đổi tích cực về kinh tế - xã hội, mức sống và
có nhiều dịch vụ phúc lợi của đại bộ phận dân cư được nâng lên,
cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì công tác chăm sóc, hỗ
trợ cho Người khuyết tật (NKT) ở Việt Nam cũng ngày càng được
đảm bảo hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không
nhỏ NKT đang phải sống trong tình cảnh hết sức khó khăn, trong đó
có Người khuyết tật vận động (NKTVĐ). NKT họ gặp khó khăn, hạn
chế về đi lại, tham gia các hoạt động cộng đồng, học tập, giao tiếp,
ngoài ra họ có những đặc điểm tâm lý khác biệt và gặp nhiều rào cản
hơn so với những nhóm yếu thế khác trong xã hội, những vấn đề mà
NKT đang gặp phải vẫn là sự kỳ thị và phân biệt đối xử, số đông
NKT chưa biết hoặc chưa có điều kiện, khả năng tiếp cận, hiểu biết
về những chính sách ưu đãi dành cho họ..., điều đó đã dẫn đến khả
năng hòa nhập và phát triển của NKT bị hạn chế. Mặt khác, NKT
thuộc nhóm yếu thế do sự khiếm khuyết của cơ thể, các chức năng xã
hội của họ có thể bị suy giảm, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều nỗ lực
để giúp NKT được bình đẳng hơn trong việc tiếp cận các cơ hội y tế,
giáo dục và việc làm, cũng như hỗ trợ NKT được nhận các dịch vụ
liên quan đến khuyết tật mà họ yêu cầu. Nhưng chúng ta vẫn luôn
thấy rằng NKT tại mọi hoàn cảnh xã hội vẫn luôn là nhóm xã hội yếu
thế, dễ bị tổn thương và nhận được ít thành quả kinh tế xã hội hơn

nhóm không bị khuyết tật.
Thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của
Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội
giai đoạn 2010-2020, mô hình các Trung tâm cung cấp dịch vụ
1


CTXH được xây dựng và hình thành tại các tỉnh/thành phố cả nước.
Đây được coi là một trong những giải pháp quan trọng góp phần phát
triển nghề CTXH ở Việt Nam. Sự ra đời của các Trung tâm CTXH
tạo thuận lợi cho những người yếu thế, dễ bị tổn thương tiếp cận
được các dịch vụ xã hội ngay tại Trung tâm và tại cộng đồng nơi họ
sinh sống giúp họ giải quyết được các vấn đề gặp phải, nhằm nâng
cao an sinh xã hội cho người dân. Bằng việc cung cấp các dịch vụ
theo một quy trình chuyên nghiệp, hiệu quả theo đúng những giá trị
và nguyên tắc của nghề CTXH, Cung cấp DVCTXH thông qua
Trung tâm đã góp phần giúp đỡ nhiều nhóm đối tượng xã hội trong
đó có NKTVĐ.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về CTXH đối với NKT, tuy
nhiên nghiên cứu về dịch vụ CTXH đối với NKTVĐ tại các Trung
tâm cung cấp DVCTXH còn khá ít. Hơn nữa DVCTXH là một hoạt
động còn khá mới và chưa thực sự đồng bộ về quy trình triển khai.
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay có duy nhất Trung tâm cung
cấp DVCTXH thực hiện nhiệm vụ cung cấp DVCTXH theo chức
năng được giao. Vì vậy, nghiên cứu về DVCTXH đối với NKTVĐ
để đánh giá những kết quả đạt được, chưa đạt được và các yếu tố ảnh
hưởng đến thực trạng này là rất cần thiết để đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện
nhiệm vụ cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm Cung
cấp DVCTXH Thanh Hoá.

Từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Dịch vụ công tác xã
hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm Cung
cấp dịch vụ Công tác xã hội Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đã
có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ấn phẩm được đề cập trên các
báo, luận án, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề
hỗ trợ cho NKT, trong đó đáng lưu ý như:
* Nhóm công trình nghiên cứu về CTXH đối với NKT
- Tác giả Đỗ Thị Liên, Công tác xã hội đối với NKT từ thực
tiễn thành phố Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ 2014, Học viện Khoa
học xã hội[15]. Luận văn đã đánh giá thực trạng hỗ trợ NKT tại thành
phố Thanh Hóa và đưa những dịch vụ trợ giúp cho NKT tại đây,
đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những đề xuất những giải pháp phù
hợp để thực hiện quá trình trợ giúp cho NKT.
- Đề tài“Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động’’ của
tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang (2015)[33].Đề tài phân tích và chỉ
ra thực trạng đời sống cũng như khó khăn trong việc tiếp cận các dịch
vụ công tác xã hội của trẻ em khuyết tật vận động với mục đích kết
nối, điều phối và duy trì các dịch vụ dành cho trẻ em khuyết tật vận
động một cách hiệu quả;
* Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách, pháp luật đối với NKT
- Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề
án trợ giúp NKT giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ LĐTBXH [4]; Trong
báo cáo đã chỉ rõ về thực trạng NKT trong cả nước, tỷ lệ nam là NKT

cao hơn nữ do các nguyên nhân của hậu quả chiến tranh, tai nạn lao
động, tai nạn thương tích… Nguyên nhân gây khuyết tật, đời sống
vật chất, tinh thần của NKT còn nhiều khó khăn. Có tới 80% NKT ở
thành thị và 70% NKT ở nông thôn sống dựa vào gia đình. Những
khó khăn này cản trở NKT tiếp cận y tế, giáo dục, học nghề, tìm
kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc
3


sống và hoà nhập cộng đồng. Đồng thời báo cáo cũng nêu rõ các kết
quả thực hiện công tác chăm sóc NKT trên các lĩnh vực như: trợ cấp
hàng tháng đối với NKT, hộ gia đình nuôi dưỡng NKT, NKT có việc
làm, số NKT đượctiếp cận các công trình giao thông công cộng. Từ
đó đề ra những giải pháp công tác thực hiện Pháp lệnh Người tàn tật
được tốt hơn.
- Tác giả Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện pháp luật về
quyền của NKT ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh[2]; đề tài xây dựng hệ thống
thông tin tư liệu quy định về quyền của người khuyết tật trong pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, trang bị cho người khuyết tật các
quyền cụ thể để tạo cơ hội hòa nhập và phát triển.
* Nhóm công trình nghiên cứu về dịch vụ CTXH đối với NKT
- Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) trong bài “Thực trạng
mạng lưới dịch vụ xã hội ở Việt Nam-Những khuyến nghị” cho rằng:
Mạng lưới dịch vụ xã hội là một tập hợp các dịch vụ trong hệ thống
xét theo góc độ tính chất đó là dịch vụ việc làm; đào tạo nghề; tư vấn;
tham vấn, tư vấn tâm lý; sức khỏe; pháp lý; cung cấp thông tin chính
sách; hỗ trợ thu nhập dịch vụ; hỗ trợ các đối tượng yếu thế hòa nhập
xã hội, tái hòa nhập gia đình, cộng đồng và dịch vụ hòa giải, biện hộ
các vấn đề xã hội. Xét từ gốc độ quản lý mạng lưới dịch vụ xã hội

bao gồm dịch vụ công lập, ngoài công lập, dịch vụ tư nhân, mạng lưới
dịch vụ của tôn giáo và của các tổ chức dân sự xã hội khác. Một cách
phân loại khác dựa vào đối tượng hưởng lợi đó là mạng lưới cung cấp
dịch vụ cho trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người cao tuổi,
người có HIV/AIDS, người khuyết tật, phụ nữ bị bạo hành [19].
- Tác giả Nguyễn Thị Lan (2008) trong bài viết “Xây dựng và
phát triển mạng lưới dịch vụ công tác xã hội ở nước ta” thì
4


DVCTXH gồm cung cấp chỗ ở, thức ăn và bảo vệ đối tượng bảo trợ
xã hội, khám chữa bệnh, cho đi học, quản lý ca, chăm sóc thay thế,
hỗ trợ tâm lý.[13]
- Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thái Lan, Đỗ Ngọc Bích, Chu Thị
Huyền Yến (2016) trong bài viết“Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ
công tác xã hội ở Việt Nam: thực trạng và nhu cầu” tại Hội thảo
khoa học quốc tế ở Tp. HCM đề cập đến DVCTXH với khía cạnh
chuyên nghiệp hóa. Trong đó, nhóm tác giả đã phân tích thực trạng,
nhu cầu chuyên nghiệp hóa DVCTXH ở Việt Nam và đề xuất phát
triển DVCTXH nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất
lượng.[14]
- Cũng nghiên cứu ở khía cạnh chuyên nghiệp hóa các
DVCTXH nhưng tác giả Hà Thị Thư (2016) lại nghiên cứu trên
nhóm đối tượng yếu thế. Bài viết “Sự chuyên nghiệp trong dịch vụ
công tác xã hội đối với nhóm đối tượng yếu thế” của tác giả một lần
nữa khẳng định nhu cầu DVCTXH ở Việt Nam ngày càng cao. Tác
giả cũng đã phân tích vai trò của DVCTXH với nhóm đối tượng yếu
thế và chỉ ra hai khía cạnh của sự chuyên nghiệp là “con người
chuyên nghiệp” và “môi trường chuyên nghiệp”.[32]
Những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo

quý giá và vô cùng hữu ích cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài,
những nghiên cứu trên đều ít nhiều đề cập đến vấn đề hỗ trợ, giúp đỡ
cho NKT dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn,
nhưng chưa có công trình nào đề cập nghiên cứu cụ thể đến
DVCTXH cho NKTVĐ dưới góc nhìn của một nghề, một khoa học
về CTXH đối với việc trợ giúp cho NKT. Hơn nữa, các công trình
cũng chưa chỉ ra được vai trò, tầm quan trọng của DVCTXH trong
vấn đề trợ giúp cho NKTVĐ, vì vậy, đề tài mà tôi lựa chọn không
5


trùng với các công trình nghiên cứu đã công bố. Ngoài việc kế thừa,
chọn lọc từ các thành tựu đã có, đề tài đi sâu vào nghiên cứu các
DVCTXH cho NKTVĐ ở Trung tâm cung cấp DVCTXH Thanh Hóa
dưới góc nhìn của nghề CTXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về DVCTXH đối với
NKTVĐ và đánh giá thực trạng cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm
Cung cấp dịch vụ công tác xã hội tỉnh Thanh Hoá, từ đó đưa ra một
số giải phápnhằm nâng cao hiệu quả việc cung cấp DVCTXH cho
NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội
đối với người khuyết tật vận động.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến
DVCTXH đối với NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ
công tác xã hội Thanh Hoá.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc

cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ từ thực tiễn Trung tâm cung cấp
dịch vụ CTXH Thanh Hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ công tác xã hội đối với
người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ
công tác xã hội Thanh Hóa.
4.2.Khách thể nghiên cứu
+ 50 NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội
tỉnh Thanh Hóa;
6


+ 10 cán bộ nhân viên công tác xã hội, nhân viên y tế và cán bộ
quản lý tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội tỉnh Thanh Hóa.
4.3.Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các loại hình
dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động tại Trung
tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa, bao gồm: dịch vụ
truyền thông nâng cao nhận thức; dịch vụ cung cấp dụng cụ chỉnh
hình và phục hội chức năng; dịch vụ tư vấn, tham vấn; và dịch vụ hỗ
trợ học nghề, tạo việc làm.
- Phạm vi không gian: Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã
hội Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên
cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là hệ thống chặt
chẽ các quan điểm, nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng lựa
chọn và vận dụng các phương pháp. Tất cả những nguyên lý nào có

tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên
lý có ý nghĩa phương pháp luận.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng hệ thống các quan điểm của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về NKT; về hệ thống an sinh xã hội;
chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, gắn phát triển kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội. Quan điểm phát triển nghề CTXH và
trợ giúp cho những người yếu thế trong xã hội với những giá trị triết
lý nhìn nhận con người và các mối quan hệ qua lại giữa con người
với con người, con người với xã hội thực tại.
7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Là phương pháp sử dụng các
kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các
nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu
những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu
- Phương pháp quan sát:Phương pháp quan sát là phương pháp
thu thập thông tin thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập
các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu
của đề tài. Phương pháp này luôn được sử dụng thường trực và không
thể thiếu trong mọi nghiên cứu khoa học. Nếu quan sát tốt sẽ đem lại
hiệu quả rất cao trong nghiên cứu. Quan sát thực tiễn các yếu tố có
liên quan đến đề tài ở nhiều thời điểm, nhiều khía cạnh để có cái nhìn
chân thực nhất về vấn đề nghiên cứu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:Phương pháp điều tra
bảng hỏi là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc sử dụng
một bảng hỏi soạn sẵn, người điều tra phát bảng hỏi, hướng dẫn cách
trả lời, người được hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu bảng hỏi.

Điều tra viên thu lại phiếu và xử lý thông tin.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp
thu thập thông tin bằng cách tác động tâm lý, xã hội một cách trực
tiếp giữa người phỏng vấn và người trả lời. Phỏng vấn là phương tiện
được sử dụng phổ biến trong các điều tra, nghiên cứu khoa học nhằm
thu thập, khai thác thông tin từ đối tượng được phỏng vấn.
- Phương pháp tham gia:Để có cái nhìn chân thực, khách quan
nhất về vấn đề nghiên cứu, tác giả trực tiếp tham gia vào việc cung
cấp DVCTXH đối với NKTVĐ của Trung tâm, giúp cho tác giả đánh
giá được sâu sắc hơn những khó khăn, thuận lợi và hiệu quả của các
DVCTXH đối với NKTVĐ
8


6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú
thêm lý luận về DVCTXH với NKT nói chung và DVCTXH với
NKTVĐ nói riêng, cũng như cung cấp thêm thông tin cho công tác
nghiên cứu, xây dựng chính sách có nội dung liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua nghiên cứu này để đánh giá được thực trạng
DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp DVCTXH Thanh
Hoá. Trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả, chất lượng cung cấp DVCTXH cho NKTVĐ,
nhằm giúp cho NKT nói chung và NKTVĐ nói riêng hòa nhập tốt
với cộng đồng, phát huy vai trò, năng lực của họ đối với cộng đồng.
Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
lĩnh vực dịch vụ công tác xã hội đối với Người khuyết tật vận động.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và các phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội
đối với người khuyết tật vận động.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người
khuyết tật vận động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội
Thanh Hóa.
Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch
vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa.

9


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC
XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của ngƣời
khuyết tật vận động
1.1.1. Khái niệm khuyết tật
Tổ chức Y tế thế giới (WHO)(năm 2001) đã đưa ra định nghĩa
khuyết tật như sau: “Khuyết tật là thuật ngữ chung chỉ tình trạng
khiếm khuyết, hạn chế vận động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu
cực trong quan hệ tương tác giữa cá nhân một người (về mặt tình
trạng sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của người đó (bao gồm yếu
tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)” Như vậy, với khái niệm
này có thể hiểu “khuyết tật” chỉ đơn giản là bị khiếm khuyết mà
không phải xác định nguyên nhân của một dạng khuyết tật.
1.1.2.


Khái niệm Người khuyết tật:

Theo quan điểm của Công ước Quốc tế về Quyền của người
khuyết tật được phê chuẩn ngày 13/12/2006 cho rằng Người khuyết
tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ,
thần kinh hoặc các giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác
nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã
hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã
hội” [10]
1.1.3. Khái niệm người khuyết tật vận động
Là những người bị khuyết tật ở cơ quan vận động (cơ, xương,
khớp, thần kinh ngoại vi) những khuyết tật trên làm cho người khuyết
tật khó khăn trong việc đi, đứng, làm việc như: Mất đoạn, biến dạng,
lệch trục chi thể sau chấn thương, vết thương. Dính khớp, biến dạng
khớp do chứng các bệnh lý khớp. Dị tật bẩm sinh: bàn chân khèo, trật
10


khớp háng bẩm sinh, gai đôi…Bại, liệt trong di chứng bại não, bại
liệt, liệt dây thần kinh ngoại vi, viêm não-màng não, tuỷ sống, tai
biến não. Teo cơ, cứng khớp ở những bệnh nhân bị bệnh mạn tính
phải nằm lâu ngày ở một tư thế.
1.1.4. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của N KTVĐ
- Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật vận động
- Nhu cầu của người khuyết tật vận động
1.2. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với NKTVĐ
1.2.1. Một số khái niệm
* Dịch vụ: Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu
cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở
dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực

tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
* Dịch vụ công tác xã hội: Dịch vụ công tác xã hội là hoạt
động do các cơ sở có chức năng cung cấp dịch vụ CTXH, các nhân
viên CTXH thực hiện nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng
đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường các chức
năng xã hội để giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu cơ bản của mỗi người đồng thời góp phần đảm bảo
an sinh xã hội.
* Dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết tật vận động: là
các hoạt động có chủ đích, được cung cấp, điều phối bởi các
NVCTXH nhằm phòng ngừa, khắc phục rủi ro, đáp ứng được nhu
cầu cơ bản và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng cho NKTVĐ.
DVCTXH với NKTVĐ nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo các giá trị và
chuẩn mực xã hội cho NKTVĐ.
1.2..2. Mục đích và vai trò của dịch vụ CTXH đối với NKTVĐ

11


- DVCTXH có mục đích và vai trò rất quan trọng đối với
NKTVĐ vì nó góp phần nâng cao năng lực, sự tự tin và tự chủ cho cá
nhân NKTVĐ và gia đình của họ; giúp NKTVĐ có thể tự tìm cách để
giải quyết các vấn đề mà họ đang gặp phải hoặc các vấn đề có thể
phát sinh trong tương lai.
- Góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng khả năng hòa
nhập xã hội của NKTVĐ vì nó tạo cơ hội để NKTVĐ dễ dàng tiếp cận
với các DVXH cơ bản như giáo dục, y tế, việc làm, thông tin... và tăng
cường các chức năng xã hội của họ.
- Góp phần nâng cao nhận thức không chỉ của NKTVĐ mà còn
của người dân và cộng đồng về nghề công tác xã hội và vai trò của

NVCTXH.
1.2.3. Các loại hình dịch vụ công tác xã hội đối với người
khuyết tật vận động
- Dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức
- Dịch vụ tư vấn, tham vấn
- Dịch vụ cung cấp dụng cụ chỉnh hình và phục hồi chức năng
- Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tạo việc làm
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối
với người khuyết tật vận động
1.3.1. Yếu tố thuộc về bản thân người khuyết tật vận động
1.3.2. Yếu tố thuộc về nhân viên công tác xã hội
1.3.3. Yếu tố thuộc về cơ chế chính sách
1.3.4. Yếu tố thuộc về cơ sở vật chất
1.4. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội với người
khuyết tật vận động

12


Kết luận chƣơng 1
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng công tác chăm sóc và các
chính sách an sinh xã hội đối với NKT bằng những hành động cụ thể
như đã ban hành nhiều chính sách, chương trình trợ giúp NKT và gia
đình có NKT, nhằm tạo cơ hội cho NKT hòa nhập cộng đồng và phát
triển như những người bình thường khác. Trong những năm qua
NKT nói chung và NKTVĐ nói riêng luôn nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và toàn thể cộng
đồng.
Qua nghiên cứu lý luận về CTXH với NKT chúng ta có cái
nhìn tổng quan về DVCTXH với NKT nói chung và NKTVĐ nói

riêng. Từ những khái niệm về NKT, NKTVĐ, DVCTXH với
NKTVĐ,…Từ đặc điểm tâm lý, nhu cầu của NKTVĐ, mục đích, vai
trò, của DVCTXH đối với NKTVĐ…đã giúp chúng ta hiểu được tầm
quan trọng của DVCTXH trong việc trợ giúp NKTVĐ thực hiện đầy
đủ quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với xã hội và hòa nhập với cộng
đồng xã hội.
Từ những vấn đề mang tính chất lý luận về DVCTXH, nó sẽ là
tiền đề để làm sáng tỏ phần nội dung ở chương 2 khi đề cập đến
DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH
Thanh Hóa.

13


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TẠI TRUNG TÂM
CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HÓA
2.1. Tổng quan về địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.2. Tổng quan về khách thể nghiên cứu
- Về giới tính
- Về độ tuổi
- Về trình độ học vấn
- Về nghề nghiệp
- Nguyên nhân khuyết tật
- Mức độ khuyết tật
- Về hoàn cảnh kinh tế
2.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của NKTVĐ
2.2.1. Đặc điểm tâm lý của Người khuyết tật vận động

2.2.2. Nhu cầu của NKTVĐ
2.3. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người khuyết
tật vận động tại Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa.
2.3.1. Dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức
2.3.2. Dịch vụ chỉnh hình và phục hồi chức năng
2.3.3.Dịch vụ tư vấn, tham vấn
2.3.4.Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tạo việc làm
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dịch vụ công tác
xã hội đối với người khuyết tật vận động tại Trung tâm cung cấp
dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa
2.4.1. Yếu tố đặc điểm bản thân người khuyết tật
2.4.2. Yếu tố thuộc về đội ngũ cán bộ nhân viên công tác xã hội
14


2.4.3. Yếu tố thuộc về cơ chế chính sách
2.4.4.Yếu tố thuộc về cơ sở vật chất
Kết luận chƣơng 2
Thông qua nghiên cứu, khảo sát và phỏng vấn sâu hai nhóm
khách thể, đó là nhóm khách thể NKTVĐ với những đặc điểm như ở
nhiều lứa tuổi khác nhau, nhưng chủ yếuở độ tuổi trẻ em, mức độ
khuyết tật có thể tự phục vụ bản thân hoặc với sự hỗ trợ của người
khác hoặc sử dụng các loại phương tiện trợ giúp (chân tay giả, dụng
cụ chỉnh hình), họ đều có nhu cầu về DVCTXH, và chủ yếu sống
trong gia đình nghèo có hoàn cảnh khó khăn. Nhóm khách thể thứ hai
là đội ngũ NVCTXH, nhân viên y tế và cán bộ quản lý của Trung
tâm, về cơ bản họ có trình độ chuyên môn cao, phù hợp với từng vị
trí việc làm, tuy nhiên đa phần chưa được đào tạo bài bản về chuyên
môn CTXH cũng như nghiệp vụ cung cấp DVCTXH đối với
NKTVĐ.

Thông qua việc khảo sát thực trạng các DVCTXH đối với
NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá,
tác giả nhận thấy rằng, trong những năm qua,việc cung cấp DVCTXH
đối với NKTVĐ đã thực sự đem lại hiệu quả, nhiều đối tượng NKTVĐ
đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ về nhiều mặt của Nhà nước, chính
quyền các cấp, cộng đồng xã hội và đặc biệt là của cán bộ, nhân viên
Trung tâm. Đó là sự giúp đỡ, cung cấp các nguồn lực, các dịch vụ như:
dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức; chỉnh hình, phục hồi chức
năng; Tư vấn, tham vấn; hỗ trợ học nghề tạo việc làm... điều này đã
mang lại những lợi ích tốt, có những hiệu quả nhất định, góp phần cải
thiện và nâng cao đời sống của NKTVĐ. Tuy nhiên, những dịch vụ
này của Trung tâm còn hạn chế, chưa đồng bộ, và chưa đáp ứng được
nhiều những nhu cầu, nguyện vọng của NKTVĐ trong cộng đồng.
15


Cũng thông qua tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng
DVCTXH đối với NKTVĐ, tác giả nhận thấy rằng có nhiều yếu tố
tác động, ảnh hưởng đến hiệu quả việc cung cấp DVCTXH đối với
NKTVĐ nhưng các yếu tố ảnh hưởng nhiều đó là từ cơ chế chính
sách, từ cơ sở vật chất, từ kỹ năng, trình độ chuyên môn của đội ngũ
NVCTXH, từ đặc điểm của đối tượng NKTVĐ. Các yếu tố này có
thể ảnh hưởng tích cực, giúp cho việc cung cấp DVCTXH trợ giúp
NKTVĐ đạt hiệu quả, nhưng ngược lại, các yếu tố này cũng có ảnh
hưởng không tốt đến hiệu quả của việc cung cấp DVCTXH, không
đáp ứng được nhu cầu toàn diện của NKTVĐ và còn ảnh hưởng đến
uy tín của Trung tâm trong việc cung cấp DVCTXH trong tương lai.

16



Chƣơng 3
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CUNG CẤP
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI KHUYẾT
TẬT VẬN ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HOÁ
3.1. Giải pháp về mặt cơ chế, chính sách
Thứ nhất: Bộ LĐTB&XH chủ trì nghiên cứu nhằm hoàn thiện
cơ chế chính sách pháp luật phát triển nghề công tác xã hội, đặc biệt
là nghiên cứu tham mưu đề xuất Chính phủ trình Quốc Hội ban hành
Luật Nghề CTXH nhằm giúp những người làm CTXH phát triển cả
về chất lượng, số lượng và hình thành đội ngũ chuyên nghiệp;
Thứ hai: Bộ Nội vụ chủ trì nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung thông
tư quy định tiêu chuẩn các ngạch viên chức, trình độ CTXH và cộng
tác viên CTXH, theo hướng NVCTXH phải có chứng chỉ hành nghề
chuyên sâu về lĩnh vực, vấn đề đối tượng cần trợ giúp mới được tham
gia quá trình hỗ trợ, trợ giúp đối tượng. Bên cạnh đó, cần quy định về
việc thành lập, cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản lý các trung tâm
cung cấp DVCTXH theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân
tham gia cung cấp các DVCTXH .
Thứ ba: Nghị định số 26/2016/NĐ-CP quy định chế độ trợ cấp,
phụ cấp đối với công chức, viên chức và người lao động làm việc tại
các cơ sở quản lý người nghiện ma túy, người sau cai nghiện ma túy và
cơ sở trợ giúp xã hội công lập. Bộ LĐ-TB&XH sớm ban hành Thông tư
hướng dẫn thực hiện để NVCTXH, những người trực tiếp thực hiện cung
cấp DVCTXH yên tâm công tác, cải thiện đời sống và gắn bó với nghề.

17



3.2. Giải pháp về đội ngũ nhân viên công tác xã hội
Thứ nhất: Chúng ta cần phải tiếp tục đào tạo, nâng cao kiến
thức, kỹ năng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cho NVCTXH để có
thể đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
Thứ hai: Cần tổ chức các lớp tập huấn dành cho NVCTXH,
mục đích của việc mở các lớp tập huấn là nhằm giúp cho họ thấy rõ
vai trò và trách nhiệm công việc của mình để từ đó họ có thái độ
đúng đắn hơn với nghề nghiệp. Cũng qua các lớp tập huấn để chỉ ra
vai trò quan trọng của CTXH trong cung cấp DVCTXH đối với
NKTVĐ.
Thứ ba: Bên cạnh việc mở các lớp tập huấn thì cần phải tiếp
tục đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo như cử
cán bộ ở lĩnh vực chuyên môn khác đi học chuyên ngành CTXH tại
các trường cao đẳng, đại học để họ có trình độ chuyên môn từ cao
đẳng, đại học trở lên.Và như vậy khi đã được đào tạo một cách có bài
bản thì nhân viên CTXH sẽ có kiến thức chuyên môn, có hiểu biết về
những chính sách của Đảng và Nhà nước, có hiểu biết về các
DVCTXH cũng như các nguồn lực trong xã hội cùng với sự am hiểu
về kỹ năng làm việc với NKTVĐ.
Thứ tư: Để có thể nâng cao được năng lực, trình độ, thì chính
bản thân NVCTXH phải luôn trau dồi những phẩm chất đạo đức, cố
gắng tìm hiểu, học hỏi, và trang bị cho mình những kỹ năng, kiến
thức về CTXH để có thể trợ giúp đối tượng một cách tốt nhất và đáp
ứng được các yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
3.3. Giải pháp vể truyền thông nâng cao nhận thức
Một là: Tăng cường các hoạt động truyền thông về vị trí, vai
trò của nghề CTXH nói chung và vai trò, vị trí của các DVCTXH với
NKTVĐ nói riêng. Tiếp tục duy t , tăng cường thời lượng và nâng
18



cao hiệu quả của việc tuyên truyền về CTXH qua các phương tiện
thông tin đại chúng như báo, đài phát thanh truyền hình, cổng thông
tin điện tử tại địa phương dưới dạng các tin, bài, phóng sự...để từng
bước nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về
đối tượng phục vụ, vị trí, vai trò của nghề CTXH nói chung cũng như
ý nghĩa, vai trò của DVCTXH với NKTVĐ nói riêng.
Hai là: Đa dạng hóa các hình thức truyền thông về DVCTXH
với NKTVĐ. Bên cạnh truyền thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng như báo viết, phát thanh truyền hình, cũng cần có thêm
nhiều biện pháp truyền thông phù hợp khác khác như truyền thông
qua báo điện tử, truyền thông qua mạng xã hội để có thể đưa thông
tin về CTXH đến nhiều nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội.
Đồng thời cần có các biện pháp truyền thông đặc thù để đưa các
thông tin đến với các nhóm đối tượng NKTVĐ là người dân tộc thiểu
số, người dân tộc cư trú tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn.
Ba là: Xây dựng các mô hình điểm có hiệu quả cao về các
DVCTXH với NKTVĐ cũng là một biện pháp truyền thông thiết
thực và có hiệu quả cao. Thông qua sự thay đổi tích cực của NKTVĐ
sau khi được tiếp cận các DVCTXH sẽ giúp các cơ quan quản lý và
xã hội có được cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về vai trò và hiệu quả
cụ thể của các DVCTXH với NKTVĐ, đồng thời đáp ứng được tâm
lý phải trực tiếp "mắt thấy, tai nghe" của một bộ phận người dân
trong xã hội còn đang băn khoăn khi quyết định lựa chọn các
DVCTXH với NKTVĐ cho bản thân hoặc cho người nhà.
Bốn là: Cần phát huy được vai trò, trách nhiệm và sự vào cuộc
của các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội trong hoạt động tuyên
truyền về nghề CTXH, về DVXTXH từ đó để thấy được vai trò, vị
19



trí, ý nghĩa cũng như hiệu quả của DVCTXH với đối những người
yếu thế nói chung và NKTVĐ nói riêng.
3.4. Giải pháp về cơ sở vật chất
- Phòng phẫu thuật chỉnh hình: cần được bổ sung thêm trang
thiết bị, máy móc, dụng cụ phẫu thuật để đảm bảo được hiệu quả cao
trong quá tình phẫu thuật chỉnh hìnhcho NKTVĐ. Hiện nay những
thiết bị này do thời gian đưa vào khai thác, sử dụng đã lâu nên xuống
cấp, hiệu quả sử dụng thấp.
- Xưởng sản xuất DCCH: Cần được đầu tư và chuyển giao
những công nghệ sản xuất chân tay giả và dụng cụ hỗ trợ tiên tiến,
hiện đại hơn. Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu sản xuất ra
nhiều loại dụng cụ đa dạng, phong phú hơn để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của NKTVĐ.
- Khu phục hồi chức năng: Trung tâm cần tiếp tục nâng cấp
trang bị và bổ sung thêm một số máy móc thiết bị, dụng cụ luyện tập
phục hồi cả về Vận động trị liêu; Điện trị liệu và thủy trị liệu để đáp
ứng tốt cho việc phục hồi chức năng cho NKTVĐ.
- Phòng tư vấn: Cần bố trí có một không gian tư vấn riêng biệt
cho đối tượng, hiện nay Trung tâm do diện tích chật chội nên bộ phận
tư vấn vẫn đang phải dùng chung phòng. Tổng đài tư vấn hiện vẫn
chưa có cabin cách âm, bàn có vách ngăn riêng biệt cho từng điện
thoại viên. Các thiết bị cần thiết để tác nghiệp như thiết bị ghi âm
cuộc gọi, phần mềm tính cước: Thống kê cước phí máy lẻ, thiết bị
ghi âm,bộ lưu điện khi mất điện...chưa được trang bị. Phần mềm dữ
liệu tổng đài hiện tại chưa được nâng cấp trang bị nhiều tính năng
ngoài chức năng truy cập dữ liệu nhập sẵn.
- Hiện tại Trung tâm chưa có khu nuôi dưỡng cho đối tượng
cần sự bảo vệ khẩn cấp, bếp ăn và phòng ăn khá nhỏ, chật hẹp, chưa

20


đảm bảo nhu cầu lưu trữ lương thực thực phẩm và công việc nấu ăn
hàng ngày.
Kết luận chƣơng 3
Trong xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện
nay thì vai trò của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH là rất quan
trọng trong việc trợ giúp các nhóm đối tượng yếu thế vươn lên trong
cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên những chính sách trợ giúp
đối với NKT nói chung và NKTVĐ nói riêng còn nhiều hạn chế, đặc
biệt là việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ chưa được phát huy
tối đa hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn triển khai DVCTXH tại Trung
tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá, để nâng cao hiệu
quả hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với NKTVĐ, tác
giả xin đưa ra một số giải pháp đó là: trước hết là cần phải thực hiện
tốt công tác truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội
về NKTVĐ và các vấn đề của họ; tiếp theo là nâng cao năng lực cho
đội ngũ NVCTXH; tiếp đến là về cơ chế chính sách và cuối cùng là
cơ sở vật chất của Trung tâm để từ đó góp phần quan trọng cải thiện
chất lượng, hiệu quả việc cung cấp DVCTXH đối với NKTVĐ của
Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá.

21


KẾT LUẬN
Người khuyết tật nói chung và NKTVĐ nói riêng là một
trong những nhóm đối tượng yếu thế, do có sự khiếm khuyết trên cơ

thể, dẫn tới sự giảm sút đáng kể trong việc thực hiện các chức năng
so với người bình thường,khiến họ gặp khó khăn, hạn chế về đi lại,
trong tham gia các hoạt động cộng đồng, học tập, giao tiếp, ngoài ra
họ có những đặc điểm tâm lý khác biệt và gặp nhiều rào cản hơn so
với những nhóm yếu thế khác trong xã hội... Mặc dù vậy, họ cũng có
những thế mạnh, nhu cầu, ước mơ như mọi người bình thường. Do
vậy, NKTVĐ rất cần được tiếp cận và thụ hưởng DVCTXH để
giúp họ phát huy khả năng tự lực, trở nên mạnh mẽ và hòa nhập hơn
với cộng đồng.
Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã
có rất nhiều chính sách hỗ trợ NKTVĐ nhưng vẫn còn những vấn đề
mà NKTVĐ đang gặp phải đó là sự kỳ thị và phân biệt đối xử, số
đông NKTVĐ chưa biết hoặc chưa có điều kiện, khả năng tiếp cận,
hiểu biết về những chính sách ưu đãi dành cho họ, điều đó đã dẫn đến
khả năng hòa nhập và phát triển của NKTVĐ bị hạn chế.
Trong quá trình thực hiện luận văn này và tìm hiểu việc cung
cấp DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cung cấp dịch vụ Công
tác xã hội tỉnh Thanh Hoá, tôi có một số kết luận như sau:
Việc thực hiện chức năng cung cấp DVCTXH của Trung tâm
còn rất mới mẻ do đơn vị mới được thành lập và đi vào hoạt động
nên khi triển khai các hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn về kinh
phí, đặc biệt là năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ NVCTXH

22


là người trực tiếp thực hiện cung cấp DVCTXH cho NKTVĐ dẫn
đến dịch vụ cung cấp còn chưa được toàn diện, chưa đáp ứng được
nhu cầu của NKTVĐ và gia đình... Nhìn nhận được các vấn đề trên
cũng như hiểu được tầm quan trọng của việc cung cấp DVCTXH đối

với NKTVĐ, vì vậy mà tác giả đã lựa chọn đề tài: “Dịch vụ công tác
xã hội đối với người khuyết tật vận động từ thực tiễn Trung tâm cung
cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hoá”.
Qua nghiên cứu thực trạng DVCTXH đối với NKTVĐ tại
Trung tâm, đề tài làm rõ thực trạng của các DVXTXH, đó là: Thực
trạng dịch vụ truyền thông nâng cao nhận thức cho NKTVĐ, gia đình
họ và cho cộng đồng xã hội; thực trạng việc chăm sóc, nuôi dưỡng;
thực trạng kết nối nguồn lực; thực trạng dịch vụ chỉnh hình, phục hồi
chức năng; thực trạng dịch vụ tư vấn tham vấn và thực trạng dịch vụ
hỗ trợ học nghề, tạo việc làm. Qua nghiên cứu thực trạng các
DVCTXH đối với NKTVĐ tại Trung tâm cho thấy các DVCTXH
này tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế chưa phát huy hiệu quả cao như:dịch vụ truyền thông chưa
đa dạng, phong phú, nhận thức của cộng đồng xã hội còn yếu; dịch
vụ tư vấn tham vấn chưa mang tính chuyên nghiệp cao; dịch vụ chỉnh
hình phục hồi chức năng chưa sâu rộng còn hạn chế; dịch vụ hỗ trợ
học nghề, tạo việc làm chưa mang lại nhiều hiệu quả như mong
muốn.
Từ đó phân tích, làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng đến thực
trạng DVCTXH đối với NKTVĐ đó là yếu tố về đặc điểm của
NKTVĐ; yếu tố về đội ngũ NVCTXH; Yếu tố về cơ chế chính sách
23


×