Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Skkn làm THẾ nào để học SINH HIỂU ĐÚNG về CÔNG LAO của CHÍNH QUYỀN họ NGUYỄN KHI dạy PHẦN LỊCH sử VIỆT NAM từ THẾ kỷ XVI đến nửa đầu THẾ kỷ XIX ở lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.54 KB, 16 trang )

SKKN2016-2017

ĐỀ TÀI
LÀM THẾ NÀO ĐỂ HỌC SINH HIỂU ĐÚNG VỀ CÔNG LAO CỦA
CHÍNH QUYỀN HỌ NGUYỄN KHI DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Ở LỚP 7
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình dạy học là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do
giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo để thông qua đó học sinh có thể tự khám
phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy động,
khai thác tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên, khuyến
khích học sinh bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về các vấn đề đang học.
Trong nội dung kiến thức của môn lịch sử ở Trung học cơ sở nói chung,
lịch sử lớp 7 nói riêng do hạn chế về tầm nhìn, về quan điểm nên có một số nội
dung không còn phù hợp với cách nhìn nhận khách quan lịch sử hiện nay, trong
đó có những nội dung đánh giá về thời Nguyễn (bao gồm cả thời các chúa
Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn) trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
Từ trước đến nay đa số các giáo trình lịch sử, sách giáo khoa lịch sử, kể cả
Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng môn lịch sử cấp Trung học cơ sở, phần viết về
chính quyền Họ Nguyễn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX thường nhấn mạnh
đến mặt tiêu cực, phản động như là “ Cõng rắn cắn gà nhà”, “ triều đình bán
nước”, hoặc nhấn mạnh tới những chính sách tiêu cực trong nội trị, ngoại giao
qua đó khẳng định “ đây là triều đình đối lập với nhân dân”. Do vậy tạo ra một
cách đánh giá thiên lệch, không khách quan, bất công đối với chính quyền Họ
Nguyễn, làm vô tình tạo ra những suy nghĩ ác cảm của học sinh khi nhắc đến
triều đại này.
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử ở cấp Trung học cơ sở nói chung,
lịch sử lớp 7 nói riêng. Tôi đã nghiên cứu, tham khảo các tài liệu Lịch sử Việt
Nam cận đại, các tài liệu về biển đảo Việt Nam, thì thấy thời gian gần đây các
nhà khoa học lịch sử đã có cái nhìn khách quan hơn, công tâm hơn khi nói đến


những đóng góp tích cực của chính quyền Họ Nguyễn trong lịch sử dân tộc từ
thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Ở bậc học phổ thông, những đóng góp tích
cực của chính quyền Họ Nguyễn đối với đất nước cũng đã được đưa vào sách
giáo khoa lịch sử lớp 7 Mô hình trường học mới để giảng dạy.
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 7 trường THCS Lương Thế Vinh
trước đây, tôi thấy mình và một số đồng nghiệp đã có một thời gian mắc sai lầm
khi định hướng cho học sinh đánh giá về nhà Nguyễn đó là: nhận xét, đánh giá
vẫn còn cảm tính, thiên lệch, chưa thực khách quan. Do vậy trong những năm
học gần đây tôi đã mạnh dạn thay đổi cách dạy của mình đối với những nội
dung lịch sử nói về nhà Nguyễn, nhằm giúp học sinh lý giải được vấn đề: Công
lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với việc mở mang lãnh thổ đất nước về phía
Nam và xác lập chủ quyền biển đảo của nước ta là không thể phủ nhận. Hy vọng
1
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

qua việc làm nhỏ này, tôi sẽ đóng góp thêm một tiếng nói khách quan hơn về
thời Nguyễn, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử trong
giai đoạn hiện nay. Đó là lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu và trình bày ra
đây để các đồng nghiệp cùng tham khảo.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu
Thông qua việc bổ sung thêm một số kiến thức về các chính sách của nhà
Nguyễn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX như: Chính sách di dân; Các chính
sách phát triển nông – ngư nghiệp; Chính sách về an ninh quốc phòng; Xác lập
chủ quyền lãnh thổ và biển đảo…vào giảng dạy lịch sử lớp 7, để giúp học sinh
hiểu rõ hơn về những đóng góp, vai trò của nhà Nguyễn trong việc mở mang,
củng cố lãnh thổ về phía Nam, xác lập chủ quyền hải đảo của đất nước.

Qua đề tài này tôi mong rằng những vấn đề được đề cập tới sẽ góp phần
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy những nội dung lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX ở cấp Trung học cơ sở. Nhằm góp phần tích cực
vào việc giáo dục đức tính công bằng, khách quan cho học sinh, tăng hiệu quả
giáo dục của môn lịch sử. Đồng thời góp phần giúp các em có đủ sự tự tin và
bản lĩnh để có sự lựa chọn đúng đắn trong tương lai.
b. Nhiệm vụ của đề tài
Giáo viên bổ sung thêm một số kiến thức lịch sử về thời Nguyễn từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX, ngoài sách giáo khoa lịch sử lớp 7 vào giảng dạy, trong
chương trình chính khóa. Nhằm giúp học sinh có thêm thông tin để có sự đánh
giá đúng đắn, khách quan về mặt tích cực và hạn chế của chính quyền Họ
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Qua việc làm trên cũng góp phần khắc phục xu hướng “ tô hồng’ hoặc “ bôi
đen” trong giảng dạy lịch sử của một bộ phận giáo viên lịch sử cấp Trung học cơ
sở hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp lồng ghép, bổ sung thêm kiến thức lịch sử ngoài sách giáo
khoa, vào việc giảng dạy chương trình chính khóa phần nội dung Lịch sử Việt
Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ở lớp 7.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu: Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học lịch sử cấp Trung học cơ sở.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 7 trường THCS Lương Thế Vinh.
Thời gian: Năm học: 2014 – 2015; Năm học: 2015 – 2016; nửa đầu năm
học 2016 -2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
2
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc



SKKN2016-2017

Xuất phát từ đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài tôi đã sử dụng các
nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Căn cứ vào các nghiên cứu về
đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử cấp Trung học cơ sở đã được tập
huấn: Dạy học lịch sử thông qua các hoạt động của học sinh. Tài liệu lịch sử
Việt Nam cận đại, Một số cuốn sách, bài viết của các học giả viết về thời
Nguyễn…vv Từ đó rút ra cách làm cho học sinh hiểu đúng về công lao của
chính quyền Họ Nguyễn trong tiến trình lịch sử dân tộc.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Giáo viên thu thập và cung cấp cho học sinh các thông tin lịch sử ngoài
sách giáo khoa bằng nhiều cách như: Kể chuyện lịch sử, trích đọc tài liệu , quan
sát hình ảnh, qua đó hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận rút ra nhận xét, đánh
giá về những hoạt động của chính quyền Họ Nguyễn qua các tiết học.
- Giáo viên khảo nghiệm lại bằng cách lồng ghép nội dung nói trên vào đề
bài kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ. Thống kê kết quả làm bài kiểm tra của học
sinh qua từng năm học để đánh giá, rút ra kết luận về tính hiệu quả của đề tài.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Công cuộc mở mang lãnh thổ của người Việt chủ yếu là mở rộng về phía
nam hay còn gọi là Nam tiến là quá trình đánh trả, ngăn chặn rồi lấn lướt những
chính quyền hiếu chiến ở phía Nam. Đồng thời cũng được thi hành ôn hòa qua
kế hoạch dinh điền, mở mang khai phá đất đai bị bỏ hoang ở biên trấn, sống hòa
lẫn cùng dân bản địa, vừa canh chừng giặc, vừa sản xuất lương thực theo đường
lối “ngụ binh ư nông” mà Đại Việt đã khôn ngoan áp dụng từ khi thu hồi được
độc lập. Công cuộc này được mở màn từ thời Tiền Lê ở thế kỷ X, quyết liệt
trong thời Lý, tương đối hòa bình trong thời Trần, vừa đánh, vừa lấn vừa đàm ở
thời Hồ, thời Hậu Lê đối với Champa. Đặc biệt là thời các chúa Nguyễn, rồi đến
triều Nguyễn, là thời kỳ mà việc mở mang lãnh thổ về phía Nam, xác lập chủ

quyền biển đảo được tiến hành mạnh mẽ và hiệu quả hơn cả, điều đó đã giúp tạo
nên một đất nước Việt Nam như ngày nay.
Trong những năm gần đây, vấn đề dân tộc, sắc tộc ở nhiều nước đang diễn
biến hết sức phức tạp. Sự bùng nổ trào lưu ly khai dân tộc trên thế giới hiện nay
đã ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Còn ở trong nước một số phần tử xấu cố
tình xuyên tạc lịch sử để tiếp tay cho các thế lực hiếu chiến phản động nhằm
kích động, chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo ở nước ta, nhất là ở
các vùng dân tộc thiểu số. Với các thủ đoạn mị dân, nhằm tập hợp, lôi kéo quần
chúng vào các tổ chức phản động núp dưới các hình thức tôn giáo, sắc tộc, phá
hoại truyền thống đoàn kết. Chúng còn ráo riết tổ chức lực lượng để hình thành
các tổ chức phản động như là “Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây Nguyên, “nhà
nước Khơ-me Crôm độc lập” ở Tây Nam bộ, “Vương quốc Mông” ở vùng miền
3
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

núi phía Bắc, “Vương quốc Chămpa” ở miền Trung…Vì vậy giúp học sinh hiểu
đúng về công cuộc mở mang lãnh thổ, xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường
Sa của chính quyền Họ Nguyễn cũng là góp phần vào việc đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc
gia.
Để học sinh hiểu đúng về công cuộc mở mang lãnh thổ nói chung, và việc
mở mang lãnh thổ của chính quyền Họ Nguyễn nói riêng cũng là giúp các em
thấy được để có được một đất nước Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát
triển từ nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng. Nhưng trải mấy nghìn năm lịch
sử cương vực nước ta đã nhiều lần thay đổi. Để có diên mạo như ngày nay, tổ
tiên ta đã đổ bao mồ hôi và xương máu… Qua đó giúp học sinh thấy được việc

tìm lại lịch sử về việc mở mang lãnh thổ đất nước thật là lý thú, hấp dẫn và bổ
ích. Nhưng để làm được việc này cũng rất khó khăn do đến nay các tài liệu viết
về nội dung này rất tản mát, sách giáo khoa phổ thông thì ít thể hiện. Nên việc
giúp học sinh hiểu đúng về những việc làm của tổ tiên, nhất là tài liệu viết về
việc mở mang bờ cõi của chính quyền Họ Nguyễn. theo tôi để thực hiện điều
này đang trông chờ rất lớn vào tâm huyết của giáo viên giảng dạy lịch sử ở cấp
trung học cơ sở.
Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên dạy lịch sử nói chung và
dạy lịch sử lớp 7 nói riêng là phải biết chọn những nội dung, kiến thức phù
hợp với bài học để bổ sung, lồng ghép. Qua đó khơi dậy tính chủ động, tích cực
của học sinh, các em tự giác thảo luận, tranh luận và rút ra được bài học về sự
trung thực khách quan cho mình.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Thuận lợi của vấn đề tôi nghiên cứu là: bản thân đã có nhiều năm kinh
nghiệm dạy môn lịch sử ở tất cả các khối lớp ở cấp Trung học cơ sở, nhất là khối
lớp 7, được tham gia tập huấn chuyên môn do ngành giáo dục tổ chức, được
thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm với đồng nghiệp. Thời gian gần đây
việc đánh giá lại công lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với lịch sử dân tộc
cũng được các nhà khoa học lịch sử rất quan tâm … đó chính là điều kiện thuận
lợi để tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Bên cạnh những thuận lợi thì việc nghiên cứu đề tài này cũng gặp nhiều
khó khăn như: tài liệu viết về công cuộc mở mang lãnh thổ, xác lập chủ quyền ở
Hoàng Sa và Trường Sa của chính quyền Họ Nguyễn còn rất tản mát, sách giáo
khoa phổ thông thì viết về nội dung này rất ít và không rõ ràng. Nên việc làm
cho học sinh hiểu đúng, khách quan về chính quyền Họ Nguyền chủ yếu là do
giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Thành công của việc áp dụng đề tài này vào việc dạy Lịch sử lớp 7 thời kỳ
từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX là tôi thấy nhận thức của học sinh về đánh giá
công lao của chính quyền Họ Nguyễn trung thực, khách quan hơn. Điểm kiểm
tra của các em đối với các câu hỏi liên quan đên nội dung này khá cao, trong đó

nhiều em đạt điểm khá giỏi như:
4
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

Năm học 2013 -2014: (chưa áp dụng đề tài) đối với nội dung kiểm tra:
Nhận xét về tình hình kinh tế Nông nghiệp Đàng Trong các thế kỷ XVI – XVIII,
vai trò của chính quyền Họ Nguyễn như thế nào trong việc mở mang lãnh thổ
đất nước như thế nào? Thì tỉ lệ học sinh làm được bài từ TB trở lên là 62.1%
Năm học 2014 -2015 và 2015 -2016 ( áp dụng đề tài) đối với nội dung
kiểm tra Nhận xét về tình hình kinh tế Nông nghiệp Đàng Trong các thế kỷ XVI
– XVIII, vai trò của chính quyền Họ Nguyễn như thế nào trong việc mở mang
lãnh thổ đất nước như thế nào? Thì tỉ lệ học sinh làm được bài từ TB trở lên là
90 %
Qua đó có thể thấy là chỉ cần một số thay đổi nhỏ trong phương pháp dạy
học, một ít cố gắng của giáo viên sẽ làm cho hiệu quả giáo dục của bộ môn lịch
sử được tăng lên đáng kể. Đó là điều khích lệ tôi tiếp tục thực hiện đề tài này
trong thời gian tới ở các lớp 7 nhất là lớp 7 Mô hình trường học mới.
Ưu điểm của vấn đề nghiên cứu là đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học
môn Lịch sử là phải đánh giá các sự kiện lịch sử một cách trung thực, khách
quan. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn,
định hướng...hiệu quả giáo dục của bộ môn tăng lên rõ rệt
Trước sự phát triển của công nghệ thông tin, sự mở cửa giao lưu kinh tế,
văn hóa với các nước trên thế giới ngoài mặt tích cực thì cũng đã có tác động
tiêu cực đến nhận thức của học sinh đó là: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, sự
kích động, tiếp tay của các thế lực hiếu chiến phản động, sự can thiệp lật đổ. Các
thế lực thù địch đã và đang xuyên tạc, lợi dụng những vấn đề lịch sử để kích
động, gieo rắc tư tưởng phân biệt, hận thù chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc

gây ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh, nhất là đối với
những trường có đông học sinh dân tộc thiểu số như ở Đắc Lắc.Vì vậy khi dạy
lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ở lớp 7, đòi hỏi giáo
viên phải hết sức kỹ lưỡng trong việc lựa chọn nội dung kiến thức ngoài sách
giáo khoa, để bổ sung cho phù hợp với bài dạy và phải chú ý nâng cao khả năng
lý luận của mình để lý giải vấn đề một cách thuyết phục hơn.
Để làm được điều nói trên khi dạy học thì giáo viên phải chuẩn bị kỹ càng
hơn, phải tham khảo nhiều tài liệu, thường xuyên cập nhật thông tin mới về khoa
học lịch sử. Phải suy nghĩ lựa chọn nội dung kiến thức để bổ sung vào bài dạy
phù hợp, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng dàn trải, mất nhiều thời gian mà hiệu
quả không đạt được. Dạy học theo phương này chỉ thật sự trôi chảy, thuận lợi
đối với những lớp có ý thức tốt. Vì vậy không thể áp dụng một cách dạy học
chung của một bài cho tất cả các lớp, tất cả các đối tượng học sinh...
Làm thế nào để cho học sinh hiểu đúng về vai trò của chính quyền Họ
Nguyễn, đối với lịch sử đất nước trong các thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX
là một vấn đề mà tôi hết sức quan tâm. Xuất phát từ thực trạng trên, để góp phần
vào công tác nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục đạo đức học sinh qua môn
lịch sử, ở lớp 7 là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên trực tiếp
giảng dạy bộ môn Lịch sử. Việc tìm tòi các phương pháp dạy học lịch sử phù
5
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

hợp đối với nội dung trên là việc làm hết sức quan trọng. Đó là động cơ để tôi
thực hiện đề tài này.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.
3.1. Mục tiêu của giải pháp
Việc chú trọng lựa chọn một số nội dung kiến thức ngoài sách giáo khoa,

để bổ sung cho các bài dạy lịch sử, việc lựa chọn một số phương pháp dạy học
tích cực trong việc dạy học nội dung lịch sử đất nước trong các thế kỷ XVI đến
nửa đầu thế kỷ XIX ở lớp 7, là biện pháp quan trọng để nâng cao nhận thức cho
học sinh về vai trò của chính quyền Họ Nguyễn trong việc mở mang lãnh thổ đất
nước. Giúp học sinh đánh gia khách quan trung thực các sự kiện lịch sử, hạn chế
sự đánh giá thiên lệch, méo mó lịch sử là mục tiêu chính của giải pháp này. Mỗi
phương pháp dạy học được lựa chọn đúng sẽ mang lại hiệu quả cao, điều đó đã
được chứng minh qua kinh nghiệm nhiều năm dạy môn lịch sử lớp 7 của bản
thân.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
a. Bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa bằng cách kể chuyện lịch sử
trong giờ dạy.
Có thể nói những câu chuyện kể lịch sử luôn luôn mang lại hiệu quả. Đặc
biệt là gợi sự tò mò, hứng thú và hiệu quả giáo dục của các câu chuyện. Nhưng
điều cần chú ý là ta phải biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để nó phát huy giá trị
và không làm mất thời gian của tiết học.
Đối với mục tiêu: Để học sinh hiểu đúng về vai trò của chính quyền Họ
Nguyễn trong lịch sử dân tộc, từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Thì giáo
viên phải biết chắt lọc truyện kể và sau mỗi câu chuyện phải biết đặt những câu
hỏi, hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ đó giáo dục tư tưởng
cho học sinh.
Ví dụ: Khi cho học sinh học sinh tìm hiểu sự kiện: Năm 1698 Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lý phía nam, đặt phủ Gia Định. Tiếp đó vùng đất Mỹ Tho,
Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này… (SGK lịch sử 7 trang 110) Giáo viên
có thể kể câu chuyện về Nguyễn Hữu Cảnh như:
“Nam Bộ vốn thuộc đất Chân Lạp nhưng do bị suy yếu kéo dài nên bị
quân Xiêm liên tục xâm lấn, vua Chân Lạp đã tìm đến sự giúp đỡ của chính
quyền Đàng Trong.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào vào kinh lý
phía nam, đặt phủ Gia Định. Năm 1699, Vua Chân Lạp là Nặc Thu đắp lũy Bích

Đôi, Nam Vang và Cầu Nam cướp bóc dân buôn người Việt. Chúa Nguyễn Phúc
Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đem quân lính, thuyền chiến hợp
cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Rất nhanh chóng,
lực lượng thủy binh của ông đã tiến thẳng đến thành La Bích (thủ phủ Nam
Vang), đánh tan quân Nặc Thu. Vua Chân Lạp đầu hàng.
6
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

Tháng 4 năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh cầm quân về đóng ở cồn Cây Sao còn
gọi là cù lao Sao Mộc, nay thuộc chợ Mới, An Giang, báo tin thắng trận về kinh.
Theo Gia Định thành thông chí thì tại đây, một thời gian ông bị nhiễm bệnh, hai
chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan Ngọ ông miễn cưỡng ra
dự tiệc để khích lệ tướng sĩ rồi bị trúng phong và thổ huyết. Khi quân về đến
đến Sầm Giang thuộc địa phận Mỹ Tho thì ông mất. Nhân dân vùng đất mới
khai phá, người Việt cũng như người Hoa, Chăm… đều nhớ ơn, họ đã lập đền
thờ, bài vị của ông ở nhiều nơi. Thậm chí ở xứ Nam Vang, ngày nay là Cam pu- chia người ta vẫn thấy dấu vết của ngôi đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh.
Có thể nói, chính sự khai phá vùng đất mới của Nguyễn Hữu Cảnh là cơ sở để
Chúa Nguyễn từng bước thu phục các vùng đất khác. Từ khi Gia Định phủ ra
đời, thế lực của Chúa Nguyễn trên vùng đất Nam bộ phát triển mạnh mẽ.
Chứng kiến cảnh đó, vua nước Chân Lạp xin dâng Hà Tiên cho Chúa Nguyễn
(1708). Sự kiện đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn mở
ra bước ngoặt cho hành trình mở cõi, chỉ trong vòng nửa thế kỷ mà Chúa
Nguyễn đã chiếm lĩnh trọn đất Đồng bằng sông Cửu Long. Năm Đinh Sửu
(1757), Chúa Nguyễn tiếp quản vùng đất Tầm Phong Long do Nặc Ông Tôn
dâng tặng. Hà Tiên và Tầm Phong Long được sáp nhập lãnh thổ Đàng trong
đánh dấu hành trình mở cõi về phía Nam hoàn thành.
( Theo Báo pháp luật Việt Nam)

Sau đó GV có thể đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về việc làm của Nguyễn
Hữu Cảnh và cách thu phục vùng đất phía Nam của chính quyền Họ Nguyễn?
Sau câu chuyện giáo viên còn có thể yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà
bằng việc tìm hiểu thêm về một số nhân vật lịch sử Đàng Trong như Nguyễn
Hữu Cảnh, Nguyễn Phúc Chu…vv
b. Bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa bằng cách cung cấp thêm tư
liệu lịch sử cho học sinh.
Sách giáo khoa thường cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản. Đó là
một việc làm hết sức cần thiết, không cần phải bàn cãi. Nhưng thử hỏi, học
xong phần lịch sử lớp 7 từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX mà học sinh chỉ
nhớ được những mặt tiêu cực, phản động của chính quyền Họ Nguyễn như là “
Cõng rắn cắn gà nhà”, “ triều đình bán nước”, hoặc những chính sách tiêu cực
trong nội trị, ngoại giao, qua đó khẳng định “ đây là triều đình đối lập với nhân
dân”. Thì liệu có thực công bằng khách quan không với chính quyền Họ Nguyễn
không. Mỗi giáo viên lịch sử chúng ta có cảm thấy ray rứt với tiền nhân không.
Vì vậy để học sinh có cái nhìn công bằng khách quan, khái quát hơn, cụ thể hơn
thì giáo viên nên cung cấp thêm cho học sinh những tư liêu cần thiết về công lao
của chính quyền Họ Nguyễn đối với đất nước. Nhưng chú ý là tư liệu đó phải
phục vụ cho việc học của học sinh phù hợp với nội dung bài học, có tính giáo
dục cao.
7
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

Khi bổ sung thêm tư liệu giáo viên không nên bắt ép học sinh phải có nó mà
phải để cho học sinh hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ nên cố gắng
động viên học sinh sưu tầm và sử dụng nó một cách khoa học đúng lúc.
Ví dụ: Khi dạy mục I Tình hình chính trị - kinh tế của bài 27 Chế độ

phong kiến nhà Nguyễn (Lịch sử 7). Giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ
hình 61 sách giáo khoa để biết được các đơn vị hành chính thời Nguyễn. Đồng
thời lồng ghép giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thông qua việc giới
thiệu trên lược đồ vị trí hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và cung cấp thêm
cho học sinh tư liệu về việc xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn đối với hai quần
đảo này như:
“Những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên
Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi
Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí
Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền
Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các
Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử
đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này.
Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc
tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng
Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một
thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý
Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng...
Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có
nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức
các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần
đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội
đều được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động

liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà
Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815),
Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835,
1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu,
dựng bia….”
Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về việc xác lập chủ quyền biển đảo của chính
quyền Họ Nguyễn? Trách nhiệm của chúng ta ngày nay đối với chủ quyền biển
đảo của tổ quốc như thế nào?
8
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

Sau đó giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm nội dung này,
thông qua việc tìm đọc trên các trang mạng MaxReadinh và một số tài liệu khác
nói về chuyên mục: Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam của các học giả trong và ngoài nước.
c. Kết hợp bổ sung tư liệu lịch sử với sử dụng hình ảnh, lược đồ.
Tư liệu lịch sử được kết hợp với hình ảnh, lược đồ… minh họa sẽ rất có
giá trị trong học tập. Nó giúp học sinh có thể hình dung vấn đề rõ hơn về công
lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với đất nước trong các thế kỷ XVI – XIX.
Từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ của học sinh. Giúp học sinh có thể
khắc sâu hơn về cách đánh giá sự kiện, nhân vật lịch sử.
Ngày nay, giáo viên ngoài việc tận dụng kênh hình trong sách giáo khoa
lịch sử, thì có thể tận dụng mạng internet để có được những hình ảnh rất đẹp
phục vụ cho việc dạy lịch sử.
Điều chú ý của giáo viên khi sử dụng hình ảnh kết hợp với tư liệu lịch sử
là : Hình ảnh phải phù hợp với tư liệu và nội dung kiến thức của bài học. Trong
lúc sử dụng cần đặt các câu hỏi để HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến

hình ảnh chứ không để cho học sinh nhìn hình chỉ vì nó lạ, đẹp.
Đối với các nhân vật lịch sử có thể đặt dạng câu hỏi như: Em biết gì về
nhân vật lịch sử này? Ông có công lao gì? Ta có thể học được gì nơi ông? …
Đối với các hình ảnh là lược đồ, bản đồ ta có thể đặt câu hỏi: Lược đồ ( bản đồ)
phản ánh nội dung gì? Nó liên quan đến triều đại nào, sự kiện lịch sử nào? Qua
hình đó thể hiện điều gì (liên quan đến bài học)?… và qua đó giáo dục tư tưởng
cho HS.
Ví dụ: khi học về tình hình thương nghiệp thời Nguyễn giáo viên có thể
cung cấp thêm cho học sinh tư liệu về Hội An , kết hợp với quan sát hình ảnh:
Thương cảng Hội An thế kỷ XVIII (hình 64 SGK lịch sử 7 trang138) để học sinh
thấy được những cố gắng của nhà Nguyễn trong việc xây dựng đất nước, ở trong
hoàn cảnh đang bị các thế lực ngoại xâm phương Tây đe dọa…vv
Hay giáo viên có thể sử dụng lược đồ: Các đơn vị hành chính Việt Nam
thời Nguyễn (hình 63 SGK lịch sử 7 trang135) kết hợp với việc cung cấp thêm
các tư liệu: Thời Lý biên giới phái nam của Đại Việt đến phia bắc Quảng trị.
Thời Trần biên giới phái nam của Đại Việt đến đèo Hải Vân. Cuối thế kỷ XV
thời vua Lê Thánh Tông đến năm 1471 biên giới phái nam của Đại Việt đến đèo
Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay). Nhưng đến năm
1757 thời chúa nguyễn Phúc Khoát, lãnh thổ của nước ta cơ bản đã được như
trong lược đồ. Bên cạnh đó là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam ở các
đảo như: Côn Đảo (1704), Phú Quốc ( 1708), Trường Sa , Hoàng Sa (từ thế kỷ
XVII) ..vv sau đó cho học sinh đánh dầu trên lược đồ thời gian xác lập chủ
quyền của nước ta qua các thời kỳ đối với phần lãnh thổ phía Nam, cũng như
các đảo, quần đảo trên Biển Đông và vịnh Thái Lan… với hoạt động này, học
sinh sẽ thấy được việc mở mang lãnh thổ về phía nam của nước ta được tiến
hành mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất là thời các chúa Nguyễn và thời kỳ đầu của
9
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc



SKKN2016-2017

triều Nguyễn từ cuối thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Điều đó giúp các em
khẳng định được chính quyền họ Nguyễn là chính quyền có công rất lớn trong
việc mở mang lãnh thổ về phía Nam và xác lập chủ quyền biển đảo cho nước ta.
Qua đó các em có cách đánh giá công bằng hơn, khách quan hơn khi học về
những hạn chế của các nhân vật lịch sử thời Nguyễn và của chính quyền Họ
Nguyễn mà trong sách giáo khoa đề cập rất nhiều.

3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Việc sử dụng phương pháp dạy học bổ sung thêm các tư liệu lịch sử thông
qua việc cung cấp tư liệu, kể chuyện lịch sử, sử dụng hình ảnh...vv khi dạy phần
10
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ( Lịch sử 7). Để làm
cho học sinh, có nhận thức đúng đắn hơn về công lao của chính quyền Họ
Nguyễn, đối với lịch sử dân tộc trong giai đoạn này có thể thực hiện được đối
với tất cả các đối tượng học sinh, ở tất cả các địa bàn, trong điều kiện dạy học
bình thường cũng như khi có phương tiện công nghệ hỗ trợ. Chỉ lưu ý là giáo
viên khi thực hiện phải nghiên cứu đối tượng học sinh từng lớp, từng bài, từng
hoạt động dạy học, để làm sao đảm bảo được thời lượng của tiết học học và phù
hợp khả năng nhận thức của học sinh từng lớp.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Khi sử dụng các phương pháp dạy học nói trên, giáo viên cần nắm vững
những nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ
XIX. Giáo viên cũng cần chú ý điều chỉnh uốn nắn những nhận định thiếu công

bằng, không khách quan của học sinh đối với những hạn chế của chính quyền
Họ Nguyễn . Khi thấy học sinh cơ bản đã nắm được vấn đề rồi thì tiến hành cho
các em liên hệ thực tế, liên hệ bản thân, hướng các em vào cách giả quyết tình
huống pháp luật thường gặp trong cuộc sống, để để rút ra bài học cho bản thân.
Làm được như vậy chắc chắn hiệu quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua các năm dạy học và tiến hành khảo nghiệm đề tài này đối với học
sinh lớp 7 trường THCS Lương Thế Vinh tôi thấy chất lượng dạy học lịch sử cho
học sinh được nâng cao rõ rệt. Khả năng nhận định đánh giá các sự kiện lịch sử
của học sinh được nâng cao hơn, khách quan, công bằng hơn, nhất là đối với nội
dung đánh giá công lao của chính quyền Họ Nguyễn từ thế kỷ XVI đến nửa đầu
thế kỷ XIX . Ví vậy theo tôi giá trị của đề tài này là rèn luyện cho học sinh cách
nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử khách quan, công bằng. Góp phần vào việc
giáo dục cho học sinh về lòng yêu nước, lòng biết ơn các bậc tiền nhân. Giáo
dục phẩm chất công minh, khách quan trong cuộc sống. Từ đó có ý thức góp
phần vào việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước hiện nay và trong tương
lai
Qua các năm học 2014 -2015 ; 2015 -2016 tôi đã áp dụng kinh nghiệm,
giải pháp dạy học nói trên cho học sinh lớp 7 trường THCS Lương Thế Vinh và
tiến hành khảo nghiệm bằng cách đưa nội dung: Công lao của chính quyền Họ
Nguyễn vào đề bài kiểm tra Học kỳ II và thấy kết quả đạt được như sau:
Trích đề bài kiểm tra học kỳ II
Câu 2. (4 điểm) Trình bày những hoạt động của chính quyền Họ Nguyễn
nhằm mở mang lãnh thổ và xác lập chủ quyền biển đảo của nước ta từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XIX. Những hoạt động đó đã để lại bài học gì cho công
cuộc đấu tranh bảo vệ biển đảo hiện nay?

11
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc



SKKN2016-2017

NĂM HỌC

SỐ
HỌC
SINH SỐ HS ĐẠT ĐIỂM TỈ LỆ
ĐƯỢC KIỂM TRA
TB TRỞ LÊN
( đạt từ 2/4 điểm đối
với câu hỏi trên)

2013 -2014

200 HS

125 HS

62.5%

2014 - 2015

200 HS

181 HS

90.5 %

2015 -2016


190 HS

182 HS

96%

Qua kết quả đã cho thấy nếu thay đổi một phần cách thức dạy học đối với
những vấn đề mà nội dung kiến thức sách giáo khoa còn hạn chế, không còn phù
hợp với tình hình thực tiễn hiện nay thì việc nhận thức về lịch sử của học sinh
được nâng cao rõ rệt. Vì vậy theo tôi cần áp dụng cách thức dạy học nói trên để
hiệu quả giáo dục của môn lịch sử ngày cáng cao hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc giáo viên cung cấp, bổ sung thêm kiến thức ngoài sách giáo khoa cho
học sinh, khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX,
sẽ giúp cho học sinh biết cách đánh giá công và tội của chính quyền Họ Nguyễn
trong lịch sử sẽ được khách quan hơn,công bằng trung thực hơn. Tránh được
việc đánh giá chung chung, vơ đũa cả nắm đối với chính quyền Họ Nguyễn như
trước đây. Từ đó giúp cho học sinh và mọi người thấy được những cống hiến to
lớn của chính quyền Họ Nguyễn đối với lịch sử dân tộc là không thể phủ nhận,
báng bổ đó là: Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ về phía Nam và
xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới ở đồng bằng sông Cửu Long,
hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Xây dựng và củng cố quốc gia thống
nhất trên lãnh thổ tương ứng với lãnh thổ Việt Nam ngày nay bao gồm cả đất
liền, hải đảo, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên Biển Đông. Thời Nguyễn
cũng để lại nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới... Hiểu được những vấn đề đó sẽ
giúp cho học sinh và cả chúng ta có ý thức hơn trong việc bảo vệ chủ quyền tổ
quốc ngày nay.

Qua cách thức thực hiện đề tài này cũng có thể mở ra một cách thức dạy
học lịch sử mới đối với những nội dung quan điểm còn hạn chế như hiện nay. Đề
tài cũng có khả năng khơi dậy tính tích cực, sự hứng thú và lòng ham mê học
lịch sử của học sinh. góp phần đa dạng hóa phương pháp dạy học để làm cho
giờ học lịch sử trở nên sinh động, đỡ nhàm chán hơn. Góp phần nâng cao chất
lượng môn lịch sử trong trường phổ thông.
Đề tài được nghiên cứu và áp tại trường THCS Lương Thế Vinh, huyện
Krông Ana, Đắc Lắc và đạt được một số thành công nhất định. Theo tôi đề tài
này cũng có khả năng áp dụng cho những trường THCS khác có điều kiện cơ
sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên, đặc điểm học sinh tương tự. Cũng có thể
12
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

còn có những cách thứckhác trong dạy học để làm cho học sinh nắm được nội
dung nói trên, vì vậy mong các đồng nghiệp góp ý bổ sung để việc dạy học lịch
sử ngày càng tốt hơn.
2. Kiến nghị
Đối với giáo viên dạy môn lịch sử ở trường THCS cần tích cực tìm tòi
nghiên cứu chỉ ra được những hạn chế của chương trình sách giáo khoa. Thường
xuyên tự bổ sung kiến thức, phương pháp dạy học lịch sử để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của nền giáo dục hiện đại,
Đối với nhà trường: Cần quan tâm đến môn học lịch sử như: Thường xuyên
bổi sung thiết bị, tài liệu phương tiện dạy học. Quan tâm nâng cao chất lượng
sinh hoạt của tổ chuyên môn, giảm bớt các thủ tục rườm rà khi sinh hoạt chuyên
môn. Khuyến khích các giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Đối với nghành giáo dục trong đợt thay đổi sách giáo khoa của môn lịch sử
sắp tới cần chú trọng biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu nhưng trung thực, khách quan

của các sự kiệnlịch sử.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi được đúc kết trong quá
trình dạy học môn lịch sử lớp 7 trong thời gian qua, tôi mạnh dạn nêu lên để
quý đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến với mục đích góp phần nhỏ kinh
nghiệm của mình vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn lịch sử ở cấp
trung học cơ sở .
Chân thành cảm ơn!
Buôn Trấp, ngày 17/3/2017
Tác giả
Chu Tự Lệ
Nhận xét của Hội đồng sáng kiến

13
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Đại cương lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục
Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục
Tài liệu chuyên đề: Nhà Nguyễn với việc mở mang lãnh thổ về phía Nam –
Trường Cao đẳng sư phạm Đắc Lắc
Hệ thống các phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS – Trịnh Đình Tùng
Các tài liệu tập huấn: đổi mới phương pháp dạy học lịch sử cấp THCS do ngành
giáo dục tổ chức. Mạng Internet…
Sách giáo khoa lịch sử 7 - Nhà xuất bản giáo dục
Sách hướng dẫn học khoa học xã hội lớp 7 mô hình Trường học mới - Nhà xuất
bản giáo dục


14
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc


SKKN2016-2017

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
3.3 Mối quan hệ giữa các giải pháp
3.4 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
2. Kiến nghị:

15
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc



SKKN2016-2017

PHỤ LỤC
PHÒNG GD&ĐT KRÔNG ANA

KIỂM TRA HỌC KÌ II

TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH

Năm học 2015-216
Môn: Lịch sử 7

Họ và tên:………………………..
Điểm

Thời gian làm bài: 45 phút
Lời phê của giáo viên

Lớp: 7A……

Câu 1. (3điểm) Trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn ( 1418 -1427).
Câu 2. (4 điểm) Trình bày những hoạt động của chính quyền Họ Nguyễn
nhằm mở mang lãnh thổ và xác lập chủ quyền biển đảo của nước ta từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XIX. Những hoạt động đó đã để lại bài học gì cho công
cuộc đấu tranh bảo vệ biển đảo hiện nay?
Câu 3. (3điểm) Trình bày công lao của phong trào Tây Sơn từ năm 1771 đên
năm 1789 .
Bài làm


16
CHU TỰ LỆ - THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana- Đắc Lắc



×