Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Biến đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài hạ long, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.54 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

ĐOÀN VĂN THẮNG

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN
VẠN CHÀI HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH LỊCH SỬ

Hà Nội –2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

ĐOÀN VĂN THẮNG

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN
VẠN CHÀI HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa Việt Nam
Mã số: Đào tạo thí điểm

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Lƣơng Hồng Quang

Hà Nội –2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan mọi thông tin, số liệu công bố trong luận văn là trung thực,
phản ánh thực tế những gì tôi nhận thức được khi khảo sát địa bàn nghiên cứu và
đối tượng nghiên cứu của mình. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Xác nhận đã sửa chữa luận văn

Tác giả luận văn

của chủ tịch Hội đồng

GS. TS Nguyễn Quang Ngọc

Đoàn Văn Thắng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đến PGS. TS Lương Hồng Quang, Phó
Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (Vicas), người thầy đã tận tình chỉ
bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong
Bộ môn Văn hóa học và Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, những người đã trang bị
cho tôi tri thức và kĩ năng cần thiết để có được tư duy và phương pháp nghiên cứu
trong lĩnh vực lịch sử văn hóa.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người đã nhiệt tình cung cấp thông
tin, số liệu cho luận văn, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của bà con ngư dân vạn
chài Hạ Long tại khu tái định cư Khe Cá (Khu phố 8), phường Hà Phong, thành phố

Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Do hạn chế về năng lực, nguồn lực đầu tư, luận văn khó tránh được những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy, cô, bạn bè để trong tương
lai, nếu tiếp tục theo đuổi hướng nghiên cứu này, tôi có thể hoàn thiện thêm.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN
VẠN CHÀI HẠ LONG

11

1.1. Di dân và tái định cƣ
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội

11
11
15

1.2. Biến đổi văn hóa
1.2.1. Thuyết Sinh thái học văn hóa
1.2.2. Đô thị hóa và biến đổi văn hóa

19

19
23

1.3. Tổng quan về cộng đồng ngƣ dân vạn chài Hạ Long

24

Tiểu kết chương 1

36

CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH CHUYỂN CƢ VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA

38

2.1. Bối cảnh của sự biến đổi
2.1.1. Tranh luận về phát triển du lịch Hạ Long và di dân làng chài
2.1.2. Quá trình thực hiện chuyển cư
2.1.3. Môi trường đô thị và các yếu tố của đời sống thủy cư tại khu TĐC

38
38
42
45

2.2. Những biến đổi văn hóa
2.2.1. Những biến đổi văn hóa trên bình diện cộng đồng
2.2.2. Những biến đổi văn hóa trên bình diện gia đình, dòng họ
2.2.3. Biến đổi văn hóa trên bình diện cá nhân


47
47
56
62

Tiểu kết chương 2

67

CHƢƠNG 3
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

69

3.1. Vấn đề sinh kế

69

3.2. Quá trình hội nhập văn hóa
3.2.1. Hội nhập trong lao động sản xuất
3.2.2. Hội nhập với hoạt động sinh hoạt – tiêu dùng

76
77
80

3.3. Một số bàn luận

83


Tiểu kết chương 3

85

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC

97


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BQL

Ban quản lý

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

ĐTH


Đô thị hóa

NXB

Nhà xuất bản

TĐC

Tái định cư

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TP

Thành phố

UBND

Ủy ban Nhân dân

VXH

Vốn xã hội



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1. Mô hình phân tích về biến đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài
Hạ Long. ....................................................................................................................24
Bảng 1: Đặc điểm cộng đồng ngư dân vạn chài và cộng đồng tụ cư theo kiểu đô thị..455
Bảng 2: So sánh không gian sống của ngư dân vạn chài Hạ Long ........................499


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biến đổi văn hóa hiện là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan
tâm phân tích nhằm chỉ ra bối cảnh tác động, khuynh hướng biến đổi, đưa ra nhận
thức về các cơ hội và thách thức mà những cộng đồng đang chuyển đổi phải đối
mặt. Trong bối cảnh đó, di dân và tái định cư cũng được chú ý nghiên cứu như một
nguyên nhân tạo ra những tương tác và biến đổi văn hóa.
Di dân và tái định cư (TĐC) là một hiện tượng kinh tế - xã hội trong lịch sử
loài người mà động lực của nó bắt nguồn từ những thay đổi của môi trường sống, sự
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền. Hiện tượng này diễn ra mạnh
mẽ ở Việt Nam trong những năm gần đây do những tác động từ chính sách cũng
như xuất phát từ những lực đẩy – lực hút khi so sánh tương quan nông thôn – đô thị.
Di dân, đặc biệt là di dân có tổ chức thường gắn với việc thay đổi không gian sống,
các điều kiện thực hành sinh kế, văn hóa của cộng đồng người chuyển cư. Việc di
dân (dù là di dân tự do hay di dân “cưỡng bức”) tạo ra sự tương tác giữa cộng đồng
người di cư và môi trường sống mới, tương tác giữa các giá trị văn hóa giữa cộng
đồng di dân với môi trường xã hội tại nơi đến. Từ đó đưa đến những tiếp xúc và
giao lưu văn hóa, cùng với quá trình thích nghi với môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội, đưa đến những biến đổi các thực hành văn hóa và quan niệm về giá trị,
chuẩn mực và các khuôn mẫu văn hóa của cộng đồng. Mặt khác, quá trình này cũng
làm nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó là sự hội nhập của người di cư trong môi

trường sống mới, yêu cầu phân tích vai trò, vị thế cũng như những khó khăn mà
người di cư gặp phải trong quá trình thích ứng với môi trường đang hàng ngày thay
đổi cuộc sống của họ.
Thời gian gần đây có một dự án di dân và TĐC được báo chí cũng như các
nhà nghiên cứu quan tâm bởi sự nổi tiếng của cộng đồng di dân cũng như sự nổi
tiếng của môi trường sinh thái mà cộng đồng này sinh sống. Đó là cộng đồng ngư
dân vạn chài vịnh Hạ Long. Cộng đồng này đã có một quá trình sinh sống lâu dài
trong môi trường sinh thái vịnh Hạ Long. Các giá trị văn hóa cùng tổ chức xã hội
của cộng đồng đã được hình thành và phát triển để thích ứng với điều kiện tự nhiên,
1


xã hội, kinh tế đặc thù này. Xu hướng di sản hóa trong những năm gần đây đã dẫn
đến việc cộng đồng này phải rời bỏ môi trường sống của mình để đảm bảo cho sự
bền vững của di sản Vịnh Hạ Long, kì quan thiên nhiên thế giới của Việt Nam bằng
“Đề án di dời nhà bè trên vịnh Hạ Long” của chính quyền tỉnh Quảng Ninh. Được
thụ hưởng một số quyền lợi nhưng việc bị tách ra khỏi không gian sống quen thuộc
đã tạo ra những hệ quả về mặt văn hóa – xã hội bắt nguồn từ việc thay đổi không
gian sống và sinh kế của cộng đồng. Hiện nay, sau 2 năm chuyển lên bờ, nhiều vấn
đề của dự án này đã xuất hiện đã được phản ánh trên báo chí và phần lớn ngư dân
đã quay trở lại khai thác biển. Điều này thôi thúc cần có những nghiên cứu khoa học
để đánh giá hiệu quả, hệ quả của chính sách để có những điều chỉnh và hỗ trợ cộng
đồng ngư dân kịp thời trong việc ổn định cuộc sống, đảm bảo sinh kế bền vững và
hội nhập văn hóa với cộng đồng dân cư đô thị ở trên bờ.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Biến đổi văn hóa của cộng
đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” với mong muốn truyền tải
lịch sử hình thành, phát triển và biến đổi văn hóa của một cộng đồng, thông qua đó
đánh giá những phương diện tích cực, hạn chế của một giai đoạn văn hóa hiện nay
trong tổng thể tiến trình lịch sử văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long
làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn này.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Nhóm các công trình nghiên cứu về di dân và tái định cƣ, thích ứng với
môi trƣờng:
Di dân là một chủ đề được các học giả và những người làm chính sách ở Việt
Nam quan tâm. Những nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề như: di dân với vấn
đề kinh tế; di dân với vấn đề xã hội; di dân với các vấn đề về chính trị, chính sách
và hướng tiếp cận di dân và vấn đề tái định cư, môi trường. Thường những công
trình này tập trung vào quá trình di dân tự do nông thôn – đô thị do lực đẩy ở khu
vực nông thôn từ áp lực dân số, thiếu thốn cơ sở hạ tầng, cuộc sống nghèo nàn; do
sự chênh lệch về mức thu nhập giữa lao động ở khu vực nông thôn và đô thị tạo ra
lực hút về kinh tế, lực hút về chính trị đối với người dân nông thôn mong muốn đổi
đời và phát triển kinh tế gia đình. Những công trình theo hướng này như “Di dân
trong nước: vận hội và thách thức đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt
2


Nam”, “Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” của tác giả Đặng
Nguyên Anh (2005), Di dân và bảo trợ xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ sang
kinh tế thị trường của Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (2008), Trần Đình Hằng
với đề tài cấp Bộ (Bộ Văn hóa Thể thao và Du Lịch) “Bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số vùng di dân tái định cư ở miền Trung do xây dựng các công
trình thủy điện” (2014),“Sự hòa nhập lối sống đô thị của dân nhập cư tại Tp. Hồ
Chí Minh” của Lê Sĩ Hải (2016)... cũng tập trung vào phân tích những tác động về
kinh tế, dân số, an sinh xã hội và quá trình thức ứng của người di cư trong môi
trường sống mới, chỉ ra thách thức trong hoạch định chính sách di dân để vừa thúc
đầy tăng trưởng kinh tế vừa duy trì ổn định xã hội. Trong đó, công trình của Trần
Đình Hằng có giá trị tham khảo cao về mặt lý luận với việc trình bày các lý thuyết
về di dân, biến đổi sinh kế và văn hóa, cùng với đó là những mô tả thay đổi văn hóa
của các cộng đồng “dân tộc thiểu số”, qua đó đề xuất một số biện pháp trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số vùng di dân TĐC miền

Trung do xây dựng các đập thủy điện. Những phân tích trong công trình này cho
thấy, việc “cưỡng bức” các cộng đồng tộc người khu vực miền Trung, vốn sinh
sống lâu đời trong môi trường thung lũng, dồn họ vào các khu TĐC với môi trường
tự nhiên khác biệt và mở rộng điều kiện giao thương là một cú hích với lực tác động
mạnh mẽ, đột ngột, làm biến đổi sinh kế, biến đổi văn hóa của cộng đồng. Biến đổi
sinh kế được phân tích gắn với biến đổi môi trường tự nhiên, là hiện tượng mang
tính quy luật khi thay đổi môi trường tự nhiên. Bên cạnh những mặt tích cực, chính
sách di dân “cưỡng bức” này cũng đã để lại nhiều hệ quả về mặt văn hóa do không
chú trọng đến yếu tố văn hóa, thiếu những đánh giá trên góc độ nhân học văn hóa,
dân tộc học.
Công trình “Dân số, định cư và môi trường” của tác giả Nguyễn Đình Hòe
(2001) là công trình với hướng tiếp cận di dân với vấn đề tái định cư và môi trường.
Cuốn sách có chương 3 tập trung vào phân tích tác động tới môi trường của di dân
và tái định cư và khẳng định “Di cư và định cư giúp xã hội sử dụng được nguồn tài
nguyên đa dạng của trái đất, làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi động quá
trình văn minh trên cơ sở hội nhập các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài
nguyên. Tuy nhiên, định cư cũng có thể thất bại cả về phương diện xã hội lẫn
3


phương diện môi trường do thiếu cân nhắc mối quan hệ giữa động lực dân cư và
môi trường cư trú. Khả năng thành công của định cư tăng lên nhờ công tác quy
hoạch hợp lý, xử lý tốt mối quan hệ sinh thái học và khai thác hợp lý tài nguyên môi
trường. Đánh giá môi trường, hiểu cặn kẽ thuận lợi và khó khăn của vùng đất sẽ
định cư đóng vai trò chủ chốt trong việc xác lập mô hình định cư” [20,29]. Trong
chương này, tác giả Nguyễn Đình Hòe còn phân tích rõ những nguyên tắc môi
trường tái định cư và những vấn đề kinh tế - xã hội của tái định cư. Những phân tích
khái quát tầm lý thuyết có kèm theo những ví dụ cụ thể là nguồn tham khảo hữu ích
để chúng tôi áp dụng phân tích trong luận văn này.
Bên cạnh đó, một số bài viết như “Công tác tái định cư thủy điện Sơn La

dưới góc độ phong tục và tập quán canh tác của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc”
của nhóm tác giả Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Thị Vòng (2011)... in trong tạp chí
Khoa học và Phát triển của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện
nông nghiệp), luận văn “Tái định cư và sự thay đổi đời sống của nhóm Đan Lai
(Thổ) ở vườn Quốc gia Pù Mát” của Bùi Minh Thuận (2010) cũng phân tích những
tác động của tái định cư tới sự thay đổi phong tục tập quán của cộng đồng bị ảnh
hưởng và đề ra một số chính sách cụ thể. Những công trình này cũng đã có những
phân tích về hạn chế của những chính sách khi chỉ chú trọng tới vấn đề kinh tế mà
bỏ qua vấn đề đảm bảo văn hóa, sinh kế cho phát triển bền vững của tộc người..
- Nhóm các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa:
Trên bình diện lý thuyết, “biến đổi văn hóa” đã được đề cập đến trong những
công trình của các lý thuyết gia kinh điển với các thuyết Tiến hóa luận, Truyền bá
luận, Tiếp biến văn hóa; Cấu trúc – chứng năng, Sinh thái học văn hóa, sinh thái
học nhân văn... Các lý thuyết này cung cấp những lập luận và khung phân tích để
chứng minh sự biến đổi văn hóa với các cách giải thích về nguyên nhân khác nhau
như: sự tiến hóa theo thang bậc phát triển, có văn hóa thấp, văn hóa cao; do tiếp
xúc, giao lưu, trao đổi, truyền bá, gây ra những biến đổi về mô thức văn hóa; do sự
thích ứng với môi trường...
Ở Việt Nam, trong bối cảnh CNH – HĐH và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đã
nở rộ các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa, trong đó tập trung vào khu vực
nông thôn đang vận động với xu hướng đô thị hóa. Những công trình này tập trung
4


nghiên cứu các khuynh hướng, các khuôn mẫu và giá trị văn hóa trong một xã hội
chuyển đổi như “Câu chuyện làng Giang” do tác giả Lương Hồng Quang chủ biên;
Nguyễn Thị Phương Châm với công trình “Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện
nay (trường hợp làng, Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh)... Trong những công trình trên, các tác giả ngoài việc mô tả những động
thái trong biến đổi văn hóa ở nông thôn Việt Nam, từ văn hóa thường ngày đến các

sinh hoạt cộng đồng như tôn giáo, hội hè, dòng họ, phường hội... còn chỉ ra xu
hướng biến đổi văn hóa phụ thuộc vào yếu tố phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác,
biển đổi văn hóa có tính độc lập và đôi khi độc lập với yếu tố biến đổi kinh tế. Đặc
biệt, công trình của Nguyễn Thị Phương Châm còn là một bản tổng hợp, giới thiệu
các luận điểm về biến đổi văn hóa từ các lý thuyết nghiên cứu văn hóa trên thế giới.
Những thông tin như vậy có giá trị tham khảo rất lớn trong luận văn này.
Bên cạnh đó, biến đổi văn hóa còn là chủ đề của nhiều khóa luận, luận văn,
luận án liên quan đến những biến đổi chung, cụ thể. Ví dụ về biến đổi chung như
Khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch sử (ĐHKHXHNVHN) của Trần Thanh Hoa (2004)
“Biến đổi văn hóa của một cộng đồng làng ven đô (trường hợp thôn Yên Duyên,
phường Yên Sở, quận Hoàng Mai, Hà Nội)”, biến đổi một loại hình cụ thể với luận
án “Biến đổi văn hóa gia đình ở vùng tái định cư huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh” của
Nguyễn Thị Nguyệt (2015) (NCS của Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt
Nam)...
Như vậy, qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thông qua 3 nhóm công trình
nêu trên, có thể đưa ra một mối liên hệ phân tích: Di dân, dù là di dân tự do hay di
dân “cưỡng bức” đều đưa đến những thay đổi về môi trường sống, là cú hích tạo ra
những biến đổi về sinh kế, văn hóa để thích ứng, đối phó và xa hơn nữa là hòa nhập
vào môi trường sống với với những thách thức mới.
-

Về con ngƣời và văn hóa của cƣ dân vạn chài Hạ Long:

Văn hóa ngư dân vạn chài Hạ Long dù có nét riêng nhưng cơ bản cũng mang
những nét văn hóa chung của cư dân miền biển do quy định của môi trường tự
nhiên và hoạt động kinh tế, chưa kể do sự di cư, hòa trộn của các nhóm ngư dân từ
các vùng khác nhau. Bởi vậy, khi nghiên cứu con người, văn hóa của cư dân vạn
chài Hạ Long không thể bỏ qua những công trình nghiên cứu chung về văn hóa ngư
dân. Trong số này có thể kể ra như: “Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam”, “Vai trò của
5



môi trường biển đảo trong việc hình thành tính cách người miền biển” của Nguyễn
Duy Thiệu. Nghiên cứu trên cho thấy vai trò của môi trường biển trong việc hình
thành những lối sống, tập quán, tín ngưỡng của ngư dân cũng như phác thảo những
nét cơ bản về văn hóa của họ.
Riêng về văn hóa ngư dân vạn chài Hạ Long, đề tài này xuất hiện trên những
bài báo quảng bá về du lịch Hạ Long, các luận văn về phát huy di sản phục vụ du
lịch, sách địa chí của tỉnh Quảng Ninh và một số sách của Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Quảng Ninh. Chẳng hạn, Địa chí Quảng Ninh (tập 2) trong mục Thủy
sản có nhắc tới lịch sử nghề cá ở Quảng Ninh, trong đó có điểm qua một số làng
Hùng Thắng, Tuần Châu, Thành Công... Nội dung này mô tả quá trình phát triển
nghề cá của Quảng Ninh nói chung theo diễn trình lịch sử và chỉ tập trung mô tả cải
tiến kỹ thuật đánh bắt cùng việc nâng cao mức sống của ngư dân. Trong tập 3 của
Địa chí Quảng Ninh, tại mục Văn học, Nghệ thuật, Phong tục tập quán, có nhắc tới
những nét văn hóa riêng của ngư dân vạn chài của tỉnh Quảng Ninh nói chung và
Hạ Long nói riêng. Những thông tin này chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt
trong phong tục tập quán của ngư dân Vạn chài với những người Việt ở trên bờ do
hoàn cảnh sống khác biệt và giới thiệu loại hình nghệ thuật của dân cài như Hát
cưới trên thuyền, Hát chèo đường. Tuy vậy, thông tin còn ít và giản lược. Nói
chung, các thông tin từ địa chí cung cấp đã khái quát được quá trình hình thành
cộng đồng cư dân chài ở Hạ Long, sự thay đổi địa danh hành chính, phương thức
quản lý của làng chài qua các thời kỳ, cung cấp một số thông tin về đặc điểm dân
số, phong tục, văn hóa và một số nội dung khác liên quan.
Tác phẩm “Di sản văn hóa làng chài thủy cư trên Vịnh Hạ Long” của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh xuất bản năm 2003 cũng đã đề cập
tới mảng văn hóa của cộng đồng cư dân biển Quảng Ninh một cách sơ lược, khái
quát. Vào năm 2010, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xuất bản cuốn sách chuyên
khảo “Di sản văn hóa làng chài vịnh Hạ Long” phục vụ công tác nghiên cứu, quảng
bá du lịch. Đây là những công trình được đầu tư và trình bày khá công phu và

phong phú về tư liệu, cung cấp những thông tin về các giá trị văn hóa truyền thống
của ngư dân vạn chài Hạ Long và một số vùng khác ở Yên Hưng (Quảng Yên),
Cẩm Phả, Móng Cái... Liên quan đến cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long, sách
này cung cấp hơn 100 bài dân ca giao duyên tiêu biểu của ngư dân làng chài vịnh
6


Hạ Long và kịch bản phục dựng sinh hoạt hát giao duyên, hát đám cưới trên thuyền
của làng chài Cửa Vạn; Lễ hội đình Giang Võng...
Cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long cũng là khách thể nghiên cứu được
nhiều khóa luận, luận văn của sinh viên, học viên các trường đại học, đặc biệt là
khối trường liên quan tới lĩnh vực du lịch. Trong số này, có thể kể đến “Đời sống
ngư dân thủy cư vùng Vịnh Hạ Long” của Nguyễn Thị Thùy Dương, khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành lịch sử Văn hóa, khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (ĐHQGHN) năm 2001. Khóa luận này đã mô tả lịch sử cộng đồng,
đời sống kinh tế, văn hóa khá chi tiết, cung cấp cái nhìn tổng quát về đời sống của
ngư dân vạn chài Hạ Long. Đây là một tư liệu điền dã dân tộc học có ích khi so
sánh những biến đổi về sinh kế - văn hóa của ngư dân vạn chài Hạ Long hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp năm 2015 “Xây dựng đời sống văn hóa của ngư dân làng chài
Vịnh Hạ Long tại khu tái định cư phường Hà Phong, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh” của Nguyễn Thị Minh Huyền, sinh viên khoa Quản lý văn hóa, trường
Đại học Văn hóa Hà Nội cũng có những thông tin hữu ích về một số vấn đề đời
sống văn hóa hiện tại tại khu tái định cư nhưng bởi theo hướng quản lý văn hóa, nên
đời sống văn hóa được mô tả liên quan chủ yếu tới các thiết chế văn hóa cơ sở, đời
sống văn hóa cơ sở như cưới xin, tang ma... Luận văn “Làng chài Cửa Vạn thành
phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh” của Trần Thu Thảo (Đại học Thái Nguyên) đã trình
bày được khá chi tiết về lịch sử hình thành, quá trình sinh sống, tương tác để sản
sinh ra những đặc trưng của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long như về cơ bản,
nội dung này cũng không khác nhiều so với khóa luận “Đời sống ngư dân thủy cư
vùng Vịnh Hạ Long” của Nguyễn Thị Thùy Dương. Điểm mới của luận văn là có đề

cập đến quá trình chuyển cư của người dân và phản ánh một số khó khăn của người
dân trên khu TĐC nhưng còn khái quát và chưa tập trung vào những biến đổi các
thực hành văn hóa và sự thích ứng của người dân trong môi trường sống mới. Một
số khóa luận, luận văn khác tập trung giới thiệu giá trị di sản của cộng đồng ngư
dân làng chài với mục đích quảng bá du lịch, phát huy tiềm năng di sản nhân văn
của Hạ Long.
Có khá nhiều bài báo mạng có đề cập tới văn hóa của ngư dân vạn chài Hạ
Long và chủ yếu nhằm quảng bá du lịch. Những bài viết này thường ở dạng bài viết
7


ngắn, giới thiệu một cách tổng quan hoặc giới thiệu một loại hình văn hóa nào đó
nhằm thu hút du khách. Hiện tại, trên báo VOV online () có hai
số báo phản ánh hiện trạng đời sống của ngư dân vạn chài Hạ Long ở khu TĐC
nhưng những thông tin phản ánh còn sơ lược, tập trung vào một số vấn đề nổi cộm
như mất an ninh trật tự, hiện tượng người ngoài cộng đồng đến “cướp” nhà TĐC
của ngư dân.
Qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu, chúng tôi thấy công việc nghiên cứu về văn
hóa của ngư dân vạn chài Hạ Long từ khi họ chuyển tới một không gian sống mới
trên đất liền hiện chưa có công trình nào cụ thể, tập trung vào tìm hiểu những biến
đổi ngoại trừ một vài bài báo mạng phản ánh tình trạng hiện thời tại “phố làng
chài”. Một phần lý giải cho điều này là bởi chính sách này của tỉnh Quảng Ninh mới
thực hiện được gần hai năm. Do đó, đây là khoảng trống khoa học mà chúng tôi lựa
chọn thực hiện với những mục tiêu nghiên cứu cụ thể được thể hiện qua nội dung
luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là nghiên cứu quá trình biến đổi văn hóa của
cộng đồng ngư dân vạn chài trên vịnh Hạ Long bắt nguồn từ việc thay đổi môi
trường sống và sinh kế.
Để làm được điều đó, luận văn tập trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:

- Đánh giá những thay đổi về không gian sống và sinh kế tác động đến đời
sống văn hóa của người dân trong môi trường sống mới.
- Nhận diện những biến đổi về văn hóa của một giai đoạn văn hóa trong tổng
thể tiến trình lịch sử văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long.
- Chỉ ra những thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển của ngư dân
tại khu tái định cư.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là những biến
đổi văn hóa của cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long trong quá trình thay đổi môi
trường sống và sinh kế do tác động của chính sách di dân. Trong đề tài này, khách
thể nghiên cứu sẽ là cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long tại khu TĐC.
- Phạm vi nghiên cứu:
8


+ Thời gian nghiên cứu: Những biến đổi hiện tại được quan sát, nhận định
trên cơ sở nghiên cứu của tôi trong thời gian điền dã thực tế trong những đợt khảo
sát vào tháng 4-5-7/2016. Giai đoạn văn hóa trước đây tôi nghiên cứu dựa trên cơ
sở kế thừa những ghi chép về văn hóa cộng đồng ngư dân vạn chài của các công
trình đi trước và thông qua phỏng vấn ngư dân tại khu TĐC.
+ Không gian nghiên cứu: Không gian nghiên cứu chính là khu TĐC làng
chài thuộc Khu phố 8, phường Hà Phong, Tp. Hạ Long, nơi sinh sống của các hộ
dân chài khi chuyển lên bờ. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý tới không gian định
cư nguồn cội, nơi cộng đồng hình thành, gắn bó, tương tác với môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội để hình thành các giá trị văn hóa của mình.
5. Giả thuyết khoa học
Chính sách đưa ngư dân vạn chài Hạ Long lên khu TĐC là một yếu tố bước
ngoặt trong lịch sử phát triển cộng đồng, tạo lực tác động làm thay đổi không gian
sống và các thực hành sinh kế và khiến cộng đồng này về cơ bản đã mất đi bản sắc
và gặp nhiều khó khăn, thách thức trong cuộc sống mới.

6. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1.

Cách tiếp cận

Tiếp cận biến đổi văn hóa dựa trên sự thay đổi về môi trường sống và phân
tích sinh kế như một yếu tố tác động đến biến đổi văn hóa.
6.2.

Phương pháp nghiên cứu



Phương pháp điền dã dân tộc học: Việc đến địa bàn và thâm nhập vào

cộng đồng là một yếu tố quan trọng trong một cuộc nghiên cứu. Do đó, cần nắm rõ
phương pháp điền dã dân tộc học để tránh được những khúc mắc với chính quyền
địa phương cũng như học cách tạo thiện cảm với cộng đồng để thuận lợi cho việc
khai thác thông tin. Phương pháp này được nghiên cứu trên một địa bàn cụ thể. Do
đó cũng có thể coi phương pháp này đồng nghĩa với nghiên cứu trường hợp.


Phương pháp phân tích tài liệu: Các tài liệu được sử dụng bao gồm

các tài liệu liên quan đến du lịch và sinh kế - văn hóa, tài liệu liên quan đến địa bàn
nghiên cứu. Các tài liệu này được thu thập, khai thác từ hệ thống thư viện Quốc gia,

9



thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Ban quản lý
Vịnh Hạ Long...
Trên đây là hai phương pháp chính trong nghiên cứu này và chúng được thực
hiện thông qua các kỹ thuật chủ yếu sau:
Quan sát: Bao gồm quan sát không tham gia và quan sát tham gia. Phương
pháp quan sát không tham gia giúp tác giả có cái nhìn tổng quan về việc người dân
thực hiện sinh kế và thực hành văn hóa như thế nào. Từ đó thấy được có những loại
hình sinh kế gì, cách người dân thực hiện sinh kế và thực hành văn hóa ra sao cũng
như dễ dàng quan sát được những thay đổi về đời sống vật chất của họ. Quan sát
tham gia giúp tác giả có cơ hội trải nghiệm việc thực hiện vai trò của người trong
cuộc, để hiểu được khó khăn họ gặp phải cũng như hiểu được tâm lý người trong
cuộc về ước muốn, tiếng nói tham gia của họ.
Phỏng vấn: Được sử dụng để phỏng vấn những người dân vạn chài ở vùng
tái định cư để có những thông tin cần thiết về đời sống văn hóa, xã hội cũng như
công việc của họ.
Thống kê: Được sử dụng để thu thập các số liệu cần thiết làm cơ sở để chứng
minh cho một số nhận định có trong luận văn.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài có những đóng góp nhất định trong việc mô tả văn hóa, sinh kế của
cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ Long và chỉ ra xu hướng biến đổi trong bối cảnh
sống mới của người dân. Từ đó cho thấy chính sách của tỉnh Quảng Ninh về di dân
và TĐC đã đem lại cho cộng đồng ngư dân những gì, cộng đồng được gì và mất gì.
Ngoài ra, đề tài này cũng sẽ cố gắng tìm hiểu nguyện vọng, tiếng nói của cộng đồng
đối với sự phát triển của chính họ.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu ( 10 trang), Kết luận 3 trang), Tài liệu tham khảo (7
trang), Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về cộng đồng ngư dân vạn chài Hạ
Long (26 trang)
Chương 2. Quá trình chuyển cư và những biến đổi văn hóa (30 trang)

Chương 3. Những thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển (17 trang)
10


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƢ DÂN
VẠN CHÀI HẠ LONG
1.1. Di dân và tái định cƣ
1.1.1. Khái niệm
Di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật, một cấu thành
gắn với sự phát triển [6, tr.13], một hiện tượng nhân khẩu học chịu tác động tổng
hòa của nhiều yếu tố khác nhau như tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị, tôn giáo, tâm
lý...[64, tr.63]. Hiện tượng này tạo ra những tác động tới sự phân bố dân cư, phân
bố lại lao động và các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vậy, đây là một chủ đề
được quan tâm nghiên cứu và chú trọng trong hoạch định chính sách, đưa đến việc
có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau.
Vào năm 1958, Liên Hợp Quốc định nghĩa: “Di dân là sự di chuyển trong
không gian của con người giữa một đơn vị địa lý hành chính này vào một đơn vị
hành chính khác, kèm theo sự thay đổi chỗ ở thường xuyên trong khoảng di dân xác
định”. Cách giải thích này chưa chú ý đến vấn đề thời gian di dân, bởi vậy vào năm
1973 Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm di dân dài hạn và di dân ngắn hạn. Di dân
dài hạn là người di dân đến nơi ở mới từ 12 tháng trở lên, ngược lại di dân ngắn hạn
dưới 12 tháng [11, tr.9-10].
Theo Đặng Nguyên Anh, di dân theo nghĩa rộng là “sự chuyển dịch bất kỳ
của con người trong không gian và thời gian nhất định, kèm theo thay đổi nơi cư trú
tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân
cư”; di dân theo nghĩa hẹp là “sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến
một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một khoảng thời gian
nhất định. Khái niệm này khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển và thiết lập nơi
cư trú mới” [6, tr.36].

Trong công trình Di dân tự do đến Hà Nội, thực trạng và giải pháp quản lí,
Hoàng Văn Chức cho rằng: di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với
lịch sử phát triển của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và
sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội giữa các vùng, các quốc gia trên
thế giới. Di dân làm thay đổi bức tranh phân bố dân cư trên trái đất, nó ảnh hưởng
11


tới sự phân bố loại lao động theo lãnh thổ và ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề
kinh tế - xã hội, cũng như môi trường [11, tr.8]. Tác giả cũng đưa ra các cách hiểu
theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp của thuật ngữ “di dân”. Theo đó, với nghĩa rộng: di dân
được hiểu là sự chuyển động cơ học của dân cư. Như vậy, bất cứ sự chuyển động
nào của con người trong không gian gắn với sự thay đổi theo vị trí lãnh thổ cũng
được coi là di dân. Theo nghĩa hẹp: Di dân được hiểu là sự chuyển dịch của dân cư
theo lãnh thổ, sự phân bố lại dân cư. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự chuyển dịch
nào của dân cư cũng là di dân, mà di dân là sự di chuyển của dân cư ra khỏi biên
giới đất nước hay ra khỏi lãnh thổ hành chính mà họ đang cư trú, gắn với việc thay
đổi chỗ ở của họ [11, tr.9].
Còn theo Nguyễn Đình Hòe, di cư ( hay di dân) là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh
viễn. Đối với nơi ở cũ, người di cư được gọi là người xuất cư (out – migrant) còn
nơi đến gọi họ là dân nhập cư (in – migrant). Tác giả cũng khẳng định rằng, di dân
là một quá trình khách quan, gây biến động lớn về xã hội và tác động đáng kể đến
tài nguyên và môi trường, đặc biệt là nơi tiếp nhận người di cư [21, tr.17].
Nhìn chung, di dân gắn với việc con người chuyển khỏi nơi cư trú thường
xuyên đến một nơi xác định với một khoảng cách giữa hai không gian gọi là độ dài
di chuyển và phải thay đổi nơi cư trú, thiết lập nơi cư trú mới. Dấu hiệu rõ ràng nhất
của di dân là sự dịch chuyển dân số: làm tăng dân số cơ học ở nơi đến và làm giảm
dân số cơ học ở nơi đi. Cũng cần chú ý đến vấn đề thời gian của di dân. Tùy theo
từng loại hình di dân mà thời gian có thể là vài tuần, vài tháng thậm chí là vĩnh
viễn. Ngoài ra có thể nhận biết di dân qua một đặc điểm nữa đó là sự di chuyển nơi

ở và thay đổi nơi làm việc, nghề nghiệp, các hoạt động sinh sống hằng ngày và thay
đổi các mối quan hệ xã hội.
Hiện tượng di dân xuất phát từ những lực đẩy từ vùng gốc nơi đang sinh
sống khiến cư dân phải chuyển cư, từ lực hút bởi sự hấp dẫn của nơi đến hoặc do cả
hai yếu tố này. Tuy vậy, có trường hợp thuần túy chỉ từ lực đẩy tại nơi đi, đó là
những cuộc di dân có yếu tố “cưỡng bức”, chẳng hạn như từ chính sách của chính
quyền như trường hợp di dân khỏi lòng hồ thủy điện.
Về phân loại loại hình di dân, có thể dựa vào các tiêu chí khác nhau, tùy mục
đích và hướng tiếp cận của nhà nghiên cứu hoặc nhà hoạch định chính sách.
12


Xét theo tiêu chí tổ chức, di dân có hai loại:
+ Di dân có tổ chức: là hình thái dịch chuyển dân cư theo sự quản lý điều
chỉnh, tổ chức, thay đổi cấu trúc dân số, nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị,
kinh tế, văn hóa của Nhà nước. Nói chung, loại hình di dân này gắn với chính sách
của chính quyền, thậm chí mang tính chất “cưỡng bức”. Ví dụ như di dân phục vụ
dự án thủy điện Sơn La, ban đầu đã gặp phải nhiều sự phản đối của cộng đồng tộc
người vì gây tác động tới mức xáo trộn đời sống kinh tế, văn hóa tộc người. Dẫn
theo Mitchell (1985), Hoàng Văn Chức giải thích việc di dân của con người dựa
vào: các yếu tố liên quan đến môi trường tự nhiên như năng suất đất đai, khí hậu,
điều kiện môi trường; các yếu tố về kinh tế như các cơ hội việc làm, sự tương quan
giàu - nghèo; các yếu tố cản trở hay thúc đẩy người dân ra đi và các yếu tố chính trị
như vấn đề pháp luật khuyến khích hay bắt buộc họ phải di chuyển đến một nơi
nhất định hay bất cứ đâu [11, tr.16].
+ Di dân tự do: các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng di cư theo ý muốn
chủ quan của mình. Trường hợp này có thể gặp ở các thành phố lớn, nơi người di cư
tự do đến, đi để thực hiện các mục đích kinh tế, giáo dục... của mình. Loại hình di
dân tự do này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm phân tích trong bối cảnh chênh
lệch về mức sống và các điều kiện kinh tế - xã hội giữa nông thôn – đô thị để chỉ ra

những tương tác nông thôn – đô thị và những tác động đến những vấn đề kinh tế,
văn hóa, xã hội
Nếu xét theo không gian, có thể chia di dân thành các loại hình: Di dân nông
thôn – nông thôn; Di dân nông thôn – đô thị; Di dân đô thị - đô thị; Di dân đô thị nông thôn. Trong đó phổ biến là loại hình Di dân nông thôn - đô thị;. Hiện nay, có
nhiều người dân từ các vùng nông thôn chuyển lên các thành phố lớn, các trung tâm
để tìm kiếm việc làm, gây dựng cuộc sống.
Nếu xét tiêu chí về tính chất, có thể chia thành di dân tự nguyện và di dân ép
buộc. Di dân tự nguyện là trường hợp người di cư được thực hiện việc di chuyển
theo đúng nguyện vọng của mình. Di dân ép buộc hay cưỡng bức là loại hình di dân
trái với ý muốn, nguyện vọng của người di cư. Có thể do sức ép về chính sách hoặc
các sức ép khác để buộc cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng phải rời bỏ nơi
cư trú của mình.
13


Ngoài ra, xét theo tiêu chí thời gian, di dân có thể được phân chia thành các
bộ phận sau:
+ Di dân “con lắc”: là kiểu di cư luân chuyển nông thôn – đô thị mà người
di cư không nhất thiết phải thay đổi chỗ ở. Loại hình di dân này xuất hiện ngày càng
nhiều bởi quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Quá trình này một mặt mở rộng
ảnh hưởng của tính đô thị và làm thay đổi diện mạo vật chất của những làng quê
ven đô, mặt khác tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp cho nông dân. Những người
nông dân này vẫn ở lại làng quê nhưng thường xuyên di chuyển giữa nông thôn –
đô thị. Mật độ dân số cao ở vùng đồng bằng và chênh lệch đô thị - nông thôn là
nguyên nhân cơ bản của các hiện tượng này
+ Di dân tạm thời: người di cư có thay đổi chỗ ở, chỗ làm việc nhưng mang
tính chất tạm thời, có thể di chuyển chỗ khác hoặc quay lại nơi ở ban đầu.
+ Di dân theo mùa vụ: người di cư tranh thủ mùa nông nhàn để đến các đô
thị hoặc các địa phương có các điểm du lịch nổi tiếng hoặc lễ hội lớn để tranh thủ
tìm kiếm công việc, cải thiện kinh tế.

+ Di dân lâu dài: Sự thay đổi nơi cư trú này mang tính chất ổn định, lâu dài.
Họ chỉ trở về nơi xuất cư để thăm viếng nhưng không có ý định quay trở lại quê gốc
sống nữa [27].
Như vậy, nếu xét các tiêu chí về di dân nêu trên thì có thể sắp xếp việc di dân
làng chài Hạ Long thuộc vào các loại hình: di dân có tổ chức bởi chính sách tổ chức
lại không gian dân cư theo hướng nông thôn (cụ thể là dân cư từ các làng chài) – đô
thị (khu TĐC nằm trong không gian đô thị Hạ Long), mang tính chất “cưỡng bức”
và là di dân lâu dài, thậm chí là di dân vĩnh viễn. Như vậy, ngư dân phải chuyển đổi
không gian sống và rời bỏ nơi cư trú đã gắn bó hàng trăm năm, nơi đã biến thành
quê hương, là môi trường sinh thái mà ngư dân tương tác, qua đó tạo nên những giá
trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo của mình. Về cơ bản, việc đưa ngư dân lên bờ sẽ giúp
cho những nhà quản lý dễ dàng kiểm soát về dân số cũng như môi trường Vịnh Hạ
Long, hơn là việc đầu tư cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật để đảm bảo xử lý tốt
rác thải từ sinh hoạt của ngư dân.

14


1.1.2. Tái định cư và các vấn đề văn hóa – xã hội
TĐC là việc thiết lập một chỗ ở mới cho một cộng đồng đã di cư khỏi nơi cư
trú trước đây của họ. Đối với cộng đồng du cư, có thuật ngữ “định cư” để chỉ việc
cộng đồng này lập cư tại một địa điểm xác định.
Theo Nguyễn Đình Hòe, TĐC cũng là một đặc thù của quá trình dân cư
trong lịch sử nhân loại. Hiện tượng này giúp xã hội sử dụng được nguồn tài nguyên
đa dạng của trái đất, làm tăng khả năng tải của lãnh thổ và khởi động quá trình văn
minh trên cơ sở hội nhập các nền văn hóa và kinh nghiệm sử dụng tài nguyên.
Nhưng TĐC cũng đưa đến những thất bại, gây ra những hậu quả về phương diện xã
hội và môi trường nếu thiếu cân nhắc mối quan hệ giữa động lực dân cư và môi
trường cư trú. Đòi hỏi phải có sự quy hoạch hợp lý, xử lý tốt mối quan hệ sinh thái
học và khai thác hợp lý tài nguyên môi trường [21, tr.29]. Về phương diện văn hóa,

TĐC cũng đặt ra các vấn đề trong khả năng hội nhập về văn hóa, phong tục tập
quán giữa cộng đồng nhập cư và cộng đồng địa phương. Thậm chí, các dự án TĐC
có nhiều khả năng sẽ thất bại nếu người nhập cư không có những kinh nghiệm để
thích ứng với môi trường sinh thái tại khu TĐC, không có các kỹ thuật và hoạt động
canh tác tương tự và không có các kinh nghiệm quản lý môi trường cũng như lối
sống phù hợp ở môi trường mới [21, tr.34]. Khu vực TĐC hiếm trường hợp có điều
kiện sinh thái giống quê hương của người chuyển cư, do đó cần hướng dẫn, có các
cơ chế, chính sách hỗ trợ người chuyển cư trong việc sử dụng tài nguyên, môi
trường của nơi ở mới và hội nhập văn hóa với môi trường văn hóa – xã hội xung
quanh. Đồng thời, cũng cần có những hình thức tuyên truyền, vận động, hướng dẫn
cộng đồng địa phương biết cách ứng xử, không định kiến, tôn trọng và hòa nhập với
văn hóa của cộng đồng định cư.
Khi thực hiện dự án TĐC, ngoài việc đánh giá chi phí cho di dân và xây
dựng khu TĐC, “ngoài những chi phí và hoàn bị nơi đến, điều quan trọng là đo
lường, dự báo và có phương án phù hợp, cái giá phải trả về mặt tinh thần, sự cắt rời
các mối quan hệ, thói quen, tập quán có khả năng tạo nên những cú sốc văn hóa khi
phải rời bỏ quê cũ”. “Con người sống trong không gian quen thuộc, họ có tức thì và
thường xuyên sự hiểu biết gắn với môi trường sống, dễ dàng điều chỉnh mọi sự cố
bất thường, thì đến vùng đất mới, điều đó họ hoàn toàn không thể sớm có được.
15


Kiến thức về nơi ở mới của người di dân luôn gặp phải nhiều thử thách, trải nghiệm
lâu dài mới có thể nhận biết được những điểm thuận lợi, bất lợi. Sự lúng túng,
hoang mang tại nơi ở mới trong giai đoạn đầu là điều dễ hiểu”.[20, tr.16]
Một vấn đề cần quan tâm là sự phai nhạt các giá trị văn hóa làm nên bản sắc
của cộng đồng chuyển cư và quá trình biến đổi văn hóa. Hay nói cách khác, đó là sự
tan rã và biến mất cộng đồng về mặt văn hóa. Hiện tượng này không hiếm trong các
dự án TĐC như trường hợp người Thái sau TĐC thủy điện Sơn La, người Katu sau
TĐC thủy điện A Vương (Quảng Nam)[54][20]... Nguyên nhân chính theo các phân

tích là sự thay đổi môi trường sống và các điều kiện, phương thức sản xuất và sự
cộng cư xen kẽ với cộng đồng bản địa. Các thực hành văn hóa và sinh kế được sáng
tạo trong mối tương tác giữa con người và môi trường được tích lũy qua hàng trăm
năm sẽ phải biến dạng bởi cần một quá trình thích ứng dần với bối cảnh sống mới.
Cũng cần chú ý đến những nhóm tuổi khác nhau trong cộng đồng di dân. Người già
thường thiệt thòi và khó hòa nhập vào môi trường mới bởi họ đã tích lũy kinh
nghiệm để thích ứng với môi trường sống cũ một cách sâu sắc.
Ở một khía cạnh khác, vấn đề đảm bảo sinh kế sau TĐC cũng cần được quan
tâm nhằm tạo ra được những điều kiện về mặt vật chất để làm cơ sở đảm bảo cho sự
ổn định của cộng đồng di cư.
Sinh kế là kế sinh nhai, tức là các hoạt động, các công việc giúp tạo ra tiền
bạc, vật chất để duy trì cuộc sống. Theo từ điển tiếng Việt, sinh kế là cách thức, kế
sách thực hiện kiếm sống. Trong tiếng Anh, từ livelihood (sinh kế) được định nghĩa
“a means of earning money in order to live (phương tiện, cách thức kiếm tiền để
sống)” (Oxford Advanced Learner’s Dictionary). Theo định nghĩa của DFID
(Department for International Development – Bô ̣ Phát triển Quốc tế Anh), “sinh kế
bao gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và
các hoạt động cần thiết để kiếm sống”. Dù hiểu thế nào thì khái niệm sinh kế cũng
đều có mẫu chung là “kiếm sống”, tức là phương tiện để đảm bảo, duy trì cho cuộc
sống con người.
Để nghiên cứu sinh kế, các học giả thường sử dụng khung phân tích sinh kế
bền vững bởi lý thuyết này được đánh giá là “mô ̣t cách phân tić h toàn diê ̣n về phát
triể n và giảm nghèo . Cách tiếp cận này giúp chúng ta hiể u đươ ̣c viê ̣c con người sử
16


dụng các loại vốn mình có để kiếm sống

, thoát nghèo, hay tránh bị rơi vào đói


nghèo như thế nào , vì nó không chỉ minh họa các chiến lược tìm kiếm thu nhập, mà
nó còn phân tích và lý giải v ề việc tiếp cận, sử dụng và phân phối các nguồ n lực mà
các cá thể và hộ gia đình sử dụng để biến các nguồn lực đó thành sinh kế” [40, 10].
Sinh kế bền vững có thể được hiểu như sau: “Một sinh kế sẽ phải tùy thuộc vào khả
năng và của cải (cả nguồn lực vật chất và xã hội) và những hoạt động mà tất cả là
cần thiết để mưu sinh. Sinh kế của một người hoặc của một gia đình chỉ có thể là
bền vững khi họ có thể đương đầu và phục hồi trước những căng thẳng và biến
động, và tồn tục được hoặc nâng cao thêm các khả năng và của cải của mình hiện
này và của cả trong tương lai mà không làm tổn hại đến các nguồn lực môi trường”
[66, tr.104]. Như vậy, yếu tố bền vững liên quan đển khả năng đương đầu trước
khủng hoảng và phục hồi sau khủng hoảng. Bởi cuộc sống có nhiều bối cảnh dễ tổn
thương như việc thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, thậm chí là một căn bệnh hiểm
nghèo xuất hiện cũng tác động mạnh mẽ đến kinh tế của cá nhân, gia đình, do đó,
sinh kế không chỉ là việc lo những vấn đề trước mắt mà còn phải tạo tích lũy, làm
công cụ bảo đảm cho cuộc sống.
Về cơ bản, khung phân tích sinh kế bền vững gồm 5 điểm chính: Bối cảnh dễ
bị tổn thương; Nguồn vốn sinh kế; Chính sách, tiến trình và cơ cấu; Các chiến lược
sinh kế; Kết quả sinh kế. Mô hình sau đây sẽ cụ thể hóa khung phân tích này:

Nguồn:DFID (2001)

Trong đó:
Vốn sinh kế (capital) là những năng lực vật chất và phi vật chất mà con người
có được để đảm bảo cho hoạt động sinh kế. Theo khung phân tích sinh kế bền vững,
vốn này gồm 5 loại: vốn nhân lực, vốn xã hội, vốn vật chất, vốn tự nhiên và vốn tài
chính. Như vậy, vốn vừa là cái hữu hình, cụ thể, cũng vừa là những thứ vô hình như
năng lực của con người. Trong đó:
17



- Vốn nhân lực (Human capital) là những kĩ năng, kiến thức, sức khỏe và
những năng lực của con ngươi giúp họ có thể theo đuổi chiến lược sinh kế. Có thể
hiểu nguồn vốn này trên khía cạnh chất lượng nguồn lao động.
- Vốn xã hội (Social capital) thường được hiểu là những mối quan hệ xã hội,
các mạng lưới, các nhóm tạo điều kiện cho người dân có thể theo đuổi sinh kế và
đảm bảo lợi ích của mình.
- Vốn vật chất (Physical capital) bao gồm cơ sở hạ tầng, hàng hóa sản xuất để
bổ trợ sinh kế.
- Vốn tự nhiên (natural capital) nhắc đến các nguồn tài nguyên như đất đai,
nước, các loại khoáng sản,… nói chung là các yếu tố từ tự nhiên có khả năng phục
vụ cho các hoạt động và khả năng sinh kế.
- Vốn tài chính (Financial capital) bao gồm các nguồn tài chính có sẵn để con
người tiếp tục hoạt động sinh kế, bao gồm khoản tiền dự trữ hiện tại, khoản tiết
kiệm hay khả năng huy động, tiếp cận các nguồn tín dụng từ người thân, bạn bè, các
tổ chức tín dụng.
Với mỗi chiến lược sinh kế khác nhau, các nguồn vốn có vai trò khác nhau.
Ví dụ đối với nông nghiệp thì nguồn vốn đất đai là yếu tố quan trọng bậc nhất. Việc
thu hồi đất nông nghiệp do đó đã gây ra những tác động mạnh mẽ đến sinh kế và
cuộc sống nông dân. Tuy nhiên, đối với một cộng đồng làm nghề chài lưới, nguồn
vốn tự nhiên mà cụ thể ở đây là trữ lượng thủy hải sản, khả năng phục hồi của các
loài cá, tôm lại là một nguồn vốn quan trọng. Tuy vậy, thậm chí một vùng đất nông
nghiệp, nơi mà người nông dân có thể mở rộng đất đai và đàn gia súc cũng vẫn dễ
bị tổn thương do nhiều yếu tố khác như việc thiếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã
hội. Theo nhiều nghiên cứu, nguồn vốn xã nhân lực lại là một yếu tố đóng vai trò
quan trọng trong việc xóa bỏ vòng luẩn quẩn do nghèo đói gây ra. Một số nghiên
cứu thì chỉ ra tầm quan trọng của mạng lưới xã hội, các mối quan hệ xã hội trong
việc cộng đồng thực hiện chiến lược sinh kế và duy trì khả năng sinh kế của mình.
Do đó, cần có những sự nghiên cứu cụ thể để đánh giá tầm quan trọng của các loại
vốn.
Nguồn vốn sinh kế không bất biến, nó có thể thay đổi theo xu hướng tăng lên

hoặc giảm đi trong tương lai.

18


×