Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN: Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.51 KB, 17 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
I/. Đặt vấn đề:
Môn Ngữ văn cũng nh bất cứ bộ môn nào khác là mục tiêu chung của bậc học.
Môn Ngữ văn trớc hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói
lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan diểm t tởng, tình cảm cho học
sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn thuộc nhóm công cụ, vị trí đó nói lên mối
quan hệ giữa Ngữ văn và môn học khác. Xuất phát từ những căn cứ đó nên Ngữ
văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trờng THCS: góp
phần hình thành những con ngời có học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ ra
đời, hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con ngời có ý thức tự tu
dỡng (...) Đó là những con ngời biết rèn luyện để có tính tự lập, có t duy sáng tạo,
bớc đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trớc hết là
trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt nh một công
cụ để t duy và giao tiếp.
Chúng ta đã biết chơng trình Ngữ văn đã khẳng định lấy quan điểm tích hợp
làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chơng trình, biên soạn sách giáo khoa và
lựa chọn các phơng pháp giảng dạy
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chơng trình và sách giáo
khoa lần này là đổi mới phơng pháp dạy và học. Sách giáo khoa Ngữ văn đã cố
gắng tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện phơng pháp hoạt động hoá
của ngời học, trong đó giáo viên đóng vai trò ngời tổ chức hoạt động của học sinh,
mỗi học sinh đều đợc hoạt động, đều đợc bộc lộ mình và đợc phát triển.
Trong bài viết này, xin đợc nói đến một hoạt động trong nhiều hoạt động của giờ
Tiếng Việt: Hoạt động luyện tập trong giờ Tiếng Việt
II/. Nội dung
A/. Cơ sở lí luân:
Theo hớng đổi mới phơng pháp, đặc biệt là phơng pháp dạy thực hành Tiếng Viêt,
học sinh phát biểu học thuộc các khái niệm, định nghĩa, các phơng thức sử dụng
từ, câu, điều đó cha chứng tỏ các em đẫ nắm đợc tri thức, càng cha có cơ sở nào
thể hiện năng lực Tiếng Việt của mình. Hoạt động luyện tập trong giờ Tiếng Việt
đóng vai trò quyết định trong việc nắm tri thức và hình thành kĩ năng của học sinh.


Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
1
Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
Luyện tập thực hành trong phân môn tiếng Việt cũng nh các bộ môn khoa học
khác, có tác dụng làm cho học sinh nắm vững khái niệm, hiểu sâu sắc khái niệm
hơn. Bằng thực hành học sinh đợc trực tiếp hoạt động, các em có điều kiện tự
mình phát hiện lại tri thức, vận dụng tri thức vào giải quyết các hiện tợng từ, câu
trong ngôn ngữ và lời nói. Thông qua quá trình vận dụng và phát hiện này mà tri
thức của các em đợc chính xác, củng cố và khắc sâu hơn.
Mặt khác, kĩ năng chỉ có thể đợc hình thành khi biết cách hành động theo
những phơng thức hành động. Thực hành luyện tập, các em có điều kiện vận dụng
từ ngữ, câu vào hoạt động lời nói của mình, nâng trình độ tiếng mẹ đẻ từ tự phát
lên tự giác. Rèn luyện năng lực phân tích, nâng cao năng lực viết và nói sao cho
phù hợp với những quy tắc ngữ pháp thích hợp với hoàn cảnh giao tiềp,đạt đợc
trình độ trong sáng và chuẩn mực. Có điều kiện để tập sử dụng từ ngữ đạt hiệu quả
diễn đạt, hiểu và đánh giá đợc giá trị thẩm mĩ của từ ngữ trong ngôn bản, biết tạo
lập ra những văn bản đạt hiệu quả giao tiếp. Điều đó cũng có nghĩa giúp các em
học tốt phân môn Văn học và phân môn Tập làm văn và cả các môn học khác theo
hớng tích hợp.
B/. Thực trạng:
Nhìn chung so với SGK chỉnh lí trớc đây của THCS, số giờ Tiếng Việt đợc
rút xuống. Nội dung học tập vẫn là các vấn đề cơ bản của tiếng Việt nh: cấu tạo từ,
từ loại, nghĩa của từ, các biện pháp tu từ, câu và các kiểu câu v.v nhng kiến thức đ-
ợc trình bày hết sức gọn gàng, nhẹ nhàng, dễ hiểu, đặc biệt là tăng cờng luyện tập,
thực hành.
Tổ chức cho học sinh luyện tập là một việc làm khó. Khó vì thực tế muôn
màu muôn vẻ so với lí thuyết, khó vì có thể gặp nhiều tình huống bất ngờ, khó vì
sách giáo khoa không có lời giải.
Không chỉ vậy, trong giờ Tiếng Việt, giáo viên thờng giành nhiều thời gian
cho lí thuyết, xem nhẹ thực hành. Thời gian giáo viên giành cho thực hành rất ít,

thậm chí hết giờ mà học sinh vẫn cha giải quyết xong những bài tập cơ bản cho
nên học sinh không kịp củng cố lại kiến thức vừa học, cha có thời gian rèn kĩ năng
nên việc nắm bài của các em rất hời hợt. Khi giao tiếp hoặc khi tạo lập văn bản
nhiều em còn lúng túng.
Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
2
Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
Về hoạt động luyện tập, giáo viên cha có nhiều hình thức hoạt động phong
phú, hình thức hoạt động còn nhàm chán cha hấp dẫn nên cha lôi cuốn đợc các em.
Về phía học sinh các em còn coi nhẹ hoạt động luyện tập trên lớp, cha tập
chung cao độ vào việc giải quyết các bài tập theo sự hớng dẫn của thầy cô. Sau
mỗi phần bài tập các em cha có thói quen tự củng cố và chốt lại kiến thức cần nhớ,
cha tự đặt câu hỏi bài tập ấy lu ý ta điều gì? rèn kĩ năng gì? Chính vì vậy mà hiệu
quả cha cao.
C/. Mô tả các giải pháp:
1/. Nhận thức về khái niệm tổ chức hoạt động
- Nói Tổ chức hoạt động là nói đến vai trò của ngời thầy. Giáo viên bằng
câu hỏi và tình huống, đa học sinh vào trạng thái hoạt động. Nhìn vào tiết học thấy
đợc sự làm việc của thầy và làm việc của học sinh, giáo viên xuất hiện ít nh một
ngời đạo diễn từ xa làm chủ tất cả và bao quát tất cả
- Hoạt động luyện tập là hoạt động thứ hai trong giờ Tiếng Việt sau hoạt
động phân tích mẫu-sau khi giáo viên giúp các em rút ra những kết luận cơ bản
nhất nêu trong phần ghi nhớ. Luyện tập để nhận diện hoặc phân tích giá trị biểu
hiện của các hiện tợng, các đơn vị ngôn ngữ; thực hành dùng từ, đặt câu, dựng
đoạn hoặc chữa các lỗi về từ, câu và đoạn.
2/. Tổ chức hoạt động luyện tập trên lớp:
- Tổ chức cho học sinh luyện tập là một việc làm không mấy đơn giản. Bởi
vậy trớc khi lên lớp, giáo viên phảI chuẩn bị chu đáo và phải hoàn thành một số
việc sau:
- Giáo viên phải xác định đợc các dạng bài tập, mục đích yêu cầu của

chúng.
- Giải trớc cẩn thận các bài tập dự kiến sẽ luyện tập, dự kiến các tình huống
có thể xảy ra.
- Vạch kế hoạch về biện pháp tiến hành các bài tập.
3/. Những tình huống và câu hỏi cần thiết của giáo viên để đa học sinh
vào trạng thái hoạt động nói chung và hoạt động luyện tập tiếng Việt nói riêng.
Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
3
Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
Phần đặt vấn đề, tôi đã nói đến nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chơng
trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phơng pháp giảng dạy là quan
điểm tích hợp. Xin đợc nhắc lại cụ thể hơn nh sau:
- Hiểu theo nghĩa thứ nhất: tích hợp là một phơng hớng nhằm phối hợp một
cách tối u các quá trình học tập riêng rẽ, các môn học, phân môn khác nhau theo
những hình thức, mô hình, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, yêu
cầu cụ thể khác nhau.
- Hiểu theo nghĩa thứ hai: tích là tích cực, phải phát huy tối đa tính tích cực, tính
sáng tạo của học sinh, chủ thể của quá trình chiếm lĩnh tri thức ở tất cả mọi khâu
từ chuẩn bị bài, su tầm tài liệu, phất biểu trong tổ nhóm, trong việc phân tích mẫu
hay luyện tập; mỗi học sinh đều đợc hoạt động, đều đợc bộc lộ hết mình và đợc
phát triển.
a. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo trên, các tình huống mà giáo viên đa ra
cần đật yêu cầu:
- Học sinh giải quyết bài tập bằng nhiều cách thức.
- Học sinh biết sử dụng kiến thức của bài học trớc, phân môn trớcđể giải
quyết vấn đề của phân môn, phần kiến thức này. Giáo viên lợi dụng cơ hội này,
củng cố kiến thức trớc đã học.
- Để tạo hứng thú học tập, có dịp tự giác trình bày ý kiến, tình cảm chân thật
, giáo viên nên phát huy tác dụng của kênh hình minh hoạ sách giáo khoa, qua bộ
t liệu văn học của trung tâm nghe nhìn giáo dục, kết hợp với âm nhạc và mĩ thuật

để kiến thức bài học đ ợc khắc sâu trong học sinh bằng hình thức các trò chơi
ngôn ngữ, học mà chơi, chơi mà học, vui sinh động mà vẫn hiểu bài, nhớ bài.
b. Các câu hỏi thờng đặt ra cho từng bài tập tiếng Việt, sâu khi học sinh đọc
bài tập:
Trớc khi làm bài: - Yêu cầu của bài tập (1,2,3,...)
- Để giải quyết đợc yêu cầu này em cần sử
dụng kiến thức cơ bản nào của phần ghi nhớ?
- Cách làm bài?
Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
4
Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
Sau khi làm bài: - Hãy nhận xét bài làm của bạn?
- Vì sao đúng (sai)
* Nếu giải quyết bài tập bằng kênh hình, tranh ảnh câu hỏi thờng đặt ra:
- Tranh (ảnh, hình đoạn phim) này của văn bản nào? Nội dung trong bức
tranh (đoạn phim, hình )?
- Từ việc quan sát hãy đặt câu (viết đoạn ...)
4/. Hình thức hoạt động luyện tập :
Phơng pháp dạy học mới cố gắng khắc phục tình trạng suốt giờ học chỉ có
thầy hỏi trò trả lời đơn điệu và thiếu dân chủ. Đặc biệt là trong khoảng thời gian
của tiết học dành cho hoạt động luyện tập (2/3 thời lợng với tiết học tiếng Việt).
Học sinh phải đợc thảo luận, tranh luận theo tất cả các chiều quan hệ: thầy - trò,
trò - thầy, trò- trò. Các hoạt động nói chung và hoạt động luyện tập thờng theo các
hình thức :
- Làm việc độc lập.
- Làm việc theo nhóm.
- Làm việc theo lớp.
Chọn hình thức hoạt động nào cho bài tập nào là do giáo viên căn cứ vào yêu cầu
cụ thể của bài tập. Thông thờng khi gặp những câu hỏi, bài tập có tính khái quát
tổng hợp thì nên tổ chức hoạt động theo nhóm học sinh.

5/. Hớng dẫn học sinh luyện tập theo một số dạng bài tập .
Thông thờng các bài tập sách giáo khoa đa ra thờng thuộc về các loại sau:
thực hành nhận diện, phân tích; bài tập tạo lập và bài tập sửa chữa.
a. Bài tập nhận diện, phân tích :
Đây là một loại bài tập cho sẵn một ngữ liệu và yêu cầu phân tích, xác định,
nhận diện một số yếu tố về từ ngữ, ngữ pháp. Loại bài tập này có mục đích làm
sáng tỏ và củng cố, phát triển một số khái niệm của tiếng Việt đã đợc tiếp thu từ
bài học lí thuyết. Có thể, trong ngữ liệu cho sẵn của bài tập , khái niệm đợc biểu
Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
5
Sáng kiến kinh nghiệm - Tổ chức hoạt động trong giờ Tiếng Việt
hiện trong nhiều nhiều vẻ. Học sinh cần phải dựa vào những đặc trng cơ bản của
khái niệm để nhận diện và phân tích khái niệm.
Loại bài tập này thờng gồm hai phần: phần trình bày yêu cầu, phần dẫn ngữ
liệu. Yêu cầu có thể đợc diễn đạt bằng nhiều cách nh: tìm, xác định, cho biết, phân
tích, tìm hiểu ...Đồng thời có thể kết hợp thêm các yêu cầu khác nh giải thích, lí
giải, so sánh.
Với bài tập này, khi luyện tập, giáo viên cần hớng dẫn học sinh thực hiện các
bớc sau:
- Căn cứ vào đặc trng khái niệm của tiếng Việt.
- Vận dụng vào ngữ liệu của bài tập để xác định đối tợng cần nhận diện phân
tích
- Phân tích đối tợng tìm đợc để xác định đặc điểm của nó, xem nó có đấp ứng
đặc trng của khái niệm lí thuyết không từ đó có thể củng cố thêm khái niệm.
Ví dụ: B ài tâp 1của bài 20 trang 31 SGK Ngữ văn 8 tập 2 yêu cầu: câu
nào là câu cầu khiến trong các đoạn trích sau:
a. Thôi, im cái điệu hát ma dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Đây là loại bài tập nhận diện kiểu câu, có thể tiến hành nh sau:
- Giáo viên gợi ý để học sinh nhớ lại hoặc nhắc lại hình thức và chức năng
của câu cầu khiến.

- Vận dụng vào đoan trích, tìm câu cầu khiến đó là: Thôi, im cái điệu hát ma
dầm sùi sụt ấy đi.
- Phân tích : Về mặt hình thức câu trên có sử dụng từ cầu khiến thôi và
ngữ điệu cầu khiến, ngoài ra cuối câu đợc kết thúc bằng dấu chấm.
Về mặt chức năng: câu Thôi , im cái điệu hát ma dầm sùi sụt
ấy đi.dùng để yêu cầu.
b/. Bài tập tạo lập (sáng tạo)
Bài tập tạo lập là loại bài tập yêu cầu học sinh tự mình tạo nên (nói hoặc
viết) sản phẩm ngôn ngữ theo một yêu cầu nào đó. Việc thực hiện những bài
Nguyễn Thị Kim Lanh - THCS Nhân Hoà
6

×