Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

THựC TRạNG CÔNG TÁC XÃ HộI TRONG HOạT ĐộNG DạY NGHề CHO Hộ GIA ĐÌNH NGHÈO TạI XÃ QUANG TRUNG, HUYệN BÌNH DA, TỉNH LạNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 87 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em và được
sự hướng dẫn khoa học của T.S Nguyễn Thị Hương. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực, xuất phát từ tình hình thực tế
của địa bàn nghiên cứu và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước
đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và
chú thích nguồn gốc. Nếu có gì sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 13 tháng 6 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Hằng

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp
“Công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ gia đình nghèo tại xã
Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn” bên cạnh sự nỗ lực và cố
gắng của bản thân, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, sự
động viên tinh thần của gia đình, thầy cô, bạn bè và các cán bộ đang làm
việc tại xã Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn .
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, trước tiên em xin chân thành
cảm ơn Nhà trường cùng các thầy cô giáo Khoa công tác xã hội, Trường
Đại học Lao Động Xã hội đã quan tâm chỉ đạo và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến T.S Nguyễn Thị Hương, đã


tận tình hướng dẫn, luôn quan tâm, lắng nghe ý kiến, ủng hộ, động viên em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu và hoàn thành khóa luận
của mình.
Xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo xã Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh
Lạng Sơn và người dân xã đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp những thông
tin thực tế để em có thể hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã rất cố gắng, song khóa luận sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý Thầy cô và
những cá nhân quan tâm đến đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 13, tháng 6, năm 2017
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Hằng

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Ý nghĩa


1

CTXH

Công tác xã hội

2

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

3

PVS

Phỏng vấn sâu

4

BLĐTB&XH

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

5

HĐND

Hội đồng nhân dân


6

UBND

Ủy ban nhân dân

7

UBMTTQ

Ủy ban mặt trận tổ quốc

8

KT – XH

Kinh tế - xã hội

9

NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

10

ILO

Tổ chức lao động quốc tế


11

IFSW

Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc
tế

12

NASW

Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác
xã hội

13

WB

Ngân hàng thế giới

14

VOER

Thư viện học liệu mở Việt Nam

iv


DANH MỤC BẢNG BIỂU


v


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động dạy nghề gắn với giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế
- xã hội có tính toàn cầu, là sự quan tâm đặc biệt của mỗi một quốc gia trên
thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết là
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người
có công ăn, việc làm, được ấm no và được sống hạnh phúc”. Đối với các
nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam đào tạo nghề
là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích
cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi
thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối thiết thực,
hiệu quả trong công tác đào tạo và dạy nghề cho lao động, nhất là lao động
nông thôn cho các hộ gia đình nghèo, nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo nhiều việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhân
dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định rõ: "... Hoàn thiện pháp luật về dạy
nghề, ban hành chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, đào tạo giáo viên, hỗ trợ
cơ sở hạ tầng...nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo
nghề. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng dạy và học, gắn dạy nghề

với nhu cầu thực tế" [5, tr 227].
Mặt khác nước ta đang trong thời kỳ hội nhập mạnh mẽ, đặc biệt là
sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
(WTO) sẽ làm tăng cơ hội việc làm, sẽ xuất hiện những nghề mới ở các
lĩnh vực, khu vực mới. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá mạnh mẽ như
hiện nay sẽ xảy ra tình trạng mất việc làm ở một số lĩnh vực, khu vực trong
đó có khu vực nông thôn; một bộ phận nông dân mất đất sản xuất dẫn đến
mất việc làm trong khi đó việc đào tạo nghề còn nhiều bất cập, chưa phù
hợp với nhu cầu của thị trường lao động; mạng lưới cơ sở dạy nghề nói
chung tuy đã phát triển nhưng chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, trong khi
đó ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa số lượng cơ sở dạy
nghề rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu học nghề của đông
đảo lao động nông thôn; đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông
2


thôn thiếu về số lượng, chưa đạt chuẩn về trình độ, chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm quản lý dạy nghề; chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Trên địa bàn xã Quang
Trung những năm vừa qua, cùng với quá trình phát triển chung của cả
nước, kinh tế của xã đang phát triển sôi động, công tác đào tạo nghề và giải
quyết việc làm đang được chú trọng. Tuy nhiên, vấn đề dạy nghề cho hộ gia
đình nghèo thì đây vẫn còn là một vấn đề nan giải, nhất là trong thời gian
gần đây trên địa bàn xã triển khai nhiều chương trình, dự án trọng điểm của
quốc gia, của tỉnh. Một số nơi dạy nghề còn coi trọng số lượng, chưa quan
tâm đến chất lượng; đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của người học và
người sử dụng lao động cả về chất lượng và cơ cấu ngành, nghề và nhu cầu
của xã hội. Mạng lưới cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất,
trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu, đội ngũ cán bộ, giáo viên dạy nghề
thiếu về số lượng và yếu về nghiệp vụ; công tác kiểm tra, giám sát còn hạn

chế; nhận thức của nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền về vị trí chiến lược của
nông nghiệp, nông dân, nông thôn và vai trò của công tác dạy nghề cho hộ
gia đình nghèo chưa đầy đủ. Nhiều địa phương chưa quan tâm đầu tư đúng
mức đến công tác này; thiếu chính sách cụ thể để huy động các nguồn lực
xã hội phục vụ công tác dạy nghề cho hộ gia đình nghèo; sự phối hợp giữa
các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện chưa chặt chẽ…
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên tác giả đã chọn Đề tài
“Công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ gia đình nghèo tại xã
Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn” để thực hiện khóa luận tốt
nghiệp. Qua đó, nhằm phân tích thực trạng, đồng thời đề xuất những giải
pháp chiến lược trong công tác dạy nghề cho hộ gia đình nghèo tại xã
Quang Trung trong thời gian tới.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu nước ngoài
Từ năm 1991, khi nước ta bắt đầu chuyển dịch nền kinh tế theo hướng
thị trường và đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã thúc đẩy kinh
tế nước ta khởi sắc. Cùng với nó là thị trường lao động Việt Nam luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các đối tác nước ngoài, các công ty đầu tư vốn
vào Việt Nam. Chính vì vậy mà nguồn nhân lực Việt Nam rất được quan
tâm- trong giới khoa học cũng đã có rất nhiều những nghiên cứu về vấn đề
lao động- việc làm và dạy nghề.
3


Năm 2009, tổ chức Asia Found đã xuất bản cuốn Lao động và tiếp cận
việc làm . Đây là những báo cáo về thị trường lao động, việc làm, đô thị
hóa ở Việt Nam đến năm 2020, học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế. Trong cuốn
sách này, tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về vấn đề lao động và
đô thị hóa. Tác giả đã làm rõ tầm quan trọng của thị trường lao động trong
bối cảnh đô thị hóa và sự tăng trưởng của một nền kinh tế. Tác phẩm phần

lớn tập trung vào việc phân tích và so sánh giữa các nước trong khu vực
châu Á về vấn đề lao động và đô thị hóaKinh nghiệm của Việt Nam và so
sánh với các nước láng giềng như Trung Quốc, Ấn Độ và từ đó có những
khuyến nghị về chính sách việc làm và đô thị hóa thông qua các kế hoạch
trung hạn và dài hạn.[38,7]
Năm 2010, UNFPA có xuất bản cuốn” Tận dụng dân số “vàng” ở Việt
Nam, cơ hội, thách thức và gợi ý chính sách. Trong đó tập trung phân tích
cách tận dụng cơ hội dân số vàng với bốn mảng chính sách trong đó có
chính sách lao động, việc làm và nguồn nhân lực. Với chính sách này, tác
giả đã phân tích rất rõ về các cơ hội và thách thức trong vấn đề lao độngviệc làm của Việt Nam, và 12 đưa ra các gợi ý chính sách trong đó có nói
đến việc đa dạng hóa các ngành nghề ở nông thôn và thúc đẩy chất lượng
nguồn lao động ở đây.[39]
Là một trong những hoạt động của chương trình đổi mới Đào tạo nghề
Việt Nam, hợp tác phát triển Việt – Đức, các tác giả Christoph Ehlert và
GS.TS. Jochen Kluve thuộc tổ chức GIZ tại Việt Nam năm 2011 đã xuất
bản cuốn tài liệu Hướng dẫn thực hiện nghiên cứu lần vết và Sổ tay quản lý
dữ liệu khảo sát tại các cơ sở Đào tạo Nghề. Cuốn tài liệu này nhằm hỗ trợ
các cơ sở đào tạo nghề Việt Nam thực hiện các nghiên cứu lần vết về đánh
giá và quản lý số liệu khảo sát . Việc ra đời tài liệu này rất có ý nghĩa đối
với Việt Nam trong vấn đề quản lý nguồn nhân lực đã qua đào tạo nghề.
Đây là phương pháp hiệu quả để theo dõi tình hình các học viên sau khi tốt
nghiệp từ bất cứ cơ sở đào tạo nào. Nghiên cứu này cho phép thu thập
thông tin về khả năng đáp ứng yêu cầu thị trường lao động của học viên sau
khi tốt nghiệp về hiệu quả, mức độ phù hợp và chất lượng của dịch vụ đào
tạo cũng như về các kía cạnh khác liên quan đến đổi mới hệ thống và việc
định hướng cho một hệ thống giáo dục đào tạo nghề theo hướng thị trường
lao động.[40,4]

4



2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam.
Năm 2003, Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, UNICEF, Tổ chức Y tế thế
giới đã phói hợp tổ chức Điều tra quốc gia về bị thành niên và thanh niên
Việt Nam lần 1. Cuộc điều tra này đã tìm hiểu 12 vấn đề cơ bản của thanh
niên Việt Nam, trong đó có vấn đề lao động, việc làm và giáo dục nghề
nghiệp của thanh niên Việt Nam sau đó đã có những phân tích các khía
cạnh: tỉ lệ thanh niên làm việc, các loại việc làm, sự hài lòng về công việc,
học nghề của thanh niên.[2,4]
Khi bàn về vấn đề lao động- việc làm, tác giả Nguyễn Hữu Dũng cũng
đã có công trình nghiên cứu về Thị trường lao động và định hướng nghề
nghiệp cho thanh niên. Tác giả nghiên cứu về thực trạng thị trường lao
động, thực trạng 13 định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, dự báo cung
cầu thị trường lao động đến năm 2010 và đưa ra các giải pháp phát triển thị
trường lao động, định hướng nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho thanh
niên giai đoạn 2006-2010[7]
Bàn về vấn đề lao động nông thôn, tác giả Nguyễn Thị Lan có nghiên
cứu Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp- nông
thôn thời kì 2000-2008. Trong đó tác giả có chỉ ra các vấn đề sau: Tác giả
đánh giá chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn ở
Việt Nam; thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp- nông thôn;
đánh giá các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn và
tổng kết một số mô hình chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông
thôn trong thời kì qua.[21]
Một nghiên cứu của Viện Khoa học- Lao động năm 2009, Lao động
việc làm trong thời kì hội nhập. Trong bài nghiên cứu này các tác giả đã
phân tích về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và các vấn đề xã hội, nêu
lên thực trạng lao động và việc làm, các vấn đề xã hội đang nảy sinh trong
bối cảnh kinh tế hội nhập; dự báo tác động của tăng trưởng kinh tế hội nhập
đến lao động và việc làm trong khoảng từ năm 2011-2020.[37,4]

Cùng vấn đề, tác giả Bùi Tôn Hiến đã nghiên cứu về Thị trường lao
độngViệc làm của lao động qua đào tạo nghề. Trong đó tác giả nhấn mạnh
đến thực trạng sử dụng lao động qua đào tạo nghề trong các cơ sở sản xuất
kinh doanh, việc làm và thu nhập của lao động trong cơ sở sản xuất kinh
doanh, việc làm của học sinh tốt nghiệp từ trường dạy nghề. Từ đó tác giả
đã đưa ra một số những giải pháp phát triển lao động qua đào tạo nghề và
xây dựng hệ thống thông tin lao động của Việt Nam.[15]
5


Trong một nghiên cứu cụ thể về nhóm đối tượng phụ nữ học nghề:
“Nghiên cứu nhu cầu học nghề, hỗ trợ việc làm sau học nghề của phụ nữ và
đề xuất giải pháp phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề thuộc hội phụ nữ phục
vụ 14 triển khai đề án 295”- tác giả chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thị Lan
Hương đã đánh giá thực trạng dạy nghề, hỗ trợ việc làm cho phụ nữ sau
học nghề giai đoạn 2007-2016 trong đó chú ý đến đánh giá đào tạo nghề
dựa vào nhu cầu; dự báo nhu cầu học nghề hỗ trợ việc làm sau học nghề
của phụ nữ giai đoạn đến 2015 và tầm nhìn đến 2020. Tác giả có những
phát hiện mới khi đánh giá thực trạng năng lực dạy nghề của các cơ sở dạy
nghề thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ đồng thời đề xuất khuyến nghị cho việc
thiết kế các hoạt động dạy nghề tạo việc làm cho phụ nữ trong giai đoạn
tiếp theo của dự án 295.[14,10]
Tác giả Trần Thị Minh Ngọc cũng nghiên cứu về vấn đề việc làm
nhưng đối tượng nghiên cứu mà bà nói đến tập trung vào nông dân. Trong
đề tài Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, tác giả tập trung phân tích các
vấn đề chính sau: Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến sự biến
đổi việc làm vùng đồng bằng sông Hồng; Thị trường lao động vùng đồng
bằng sông Hồng dưới tác động của CHH-HĐH; Thu nhập của nông dân
vùng đồng bằng sông Hồng dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Sau khi phân tích các yếu tố trên, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng đến
năm 2020.[17,6]
Các tác giả Đỗ Đức Lưu, Phạm Văn Hùng có đề tài nghiên cứu chung
về Thực trạng và giải pháp phát triển dạy nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao
động đối với các vùng kinh tế trọng điểm. Trong đó có nói đến thực trạng
cung cầu lao động các vùng trọng điểm kinh tế, tình hình phát triển kinh tế
ở những nơi này và đưa ra các giải pháp phát triển các hình thức dạy nghề
gắn với nhu cầu sử dụng và tạo việc làm cho lao động ba vùng kinh tế trọng
điểm.[11]
Nhìn nhận vấn đề việc làm từ cách tiếp cận tâm lý, tác giả Vũ Dũng đã
có nghiên cứu về Việc làm, thu nhập của thanh niên hiện nay- Nhìn từ góc
độ tâm lý học. Ở nghiên cứu này tác giả đã mô tả thực trạng việc làm và
thu nhập của thanh niên nước ta trong 10 năm qua (2001-2010), phân tích
những khía cạnh tâm lý của việc làm và thu nhập của thanh niên hiện nay.

6


Từ đó tác giả đã đề xuất quan điểm và giải pháp giải quyết vấn đề việc làm
và thu nhập của thanh niên nước ta hiện nay.[6]
Trong đề tài cấp Bộ” Một số vấn đề cơ bản trong phát triển con người
Việt Nam giai đoạn 2011-2020” do tác giả Nguyễn Ngọc Mai làm chủ
nhiệm(2011) cũng đã phân tích về thực trạng việc làm, thất nghiệp của
nông dân trong đó chủ yếu là thanh niên nông thôn hiện nay.[20]
Bên cạnh các công trình nghiên cứu mang tính chất chuyên khảo thì
cũng có rất nhiều các bài báo công bố trên tạp chí về đề tài thanh niên với
việc làm, đặc biệt là lao động nông thôn với vấn đề dạy nghề. “ Định hướng
phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 20112020”, của Nguyễn
Bá Ngọc, tạp chí Khoa học Lao động và Xã hội, số 26, năm 2011có nói đến

việc để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phát triển mạnh hệ thống
dạy nghề đáp ứng nhu cầu phát triển về quy mô và cơ cấu nghề đào tạo cho
các ngành kinh tế và phổ cập nghề cho thanh niên.[18,8-9-10]
“Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam” của tác giả Thái Phúc Thành, tạp chí Khoa học Lao
động và Xã hội số 22, năm 2011 trong đó có chú ý đến ưu tiên đầu tư thích
đáng và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn cụ thể là
nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó chú ý nâng cao đến trình độ văn
hóa, ý thức nghề nghiệp cho người lao động, phát triển hệ thống các cơ sở
dạy nghề tại chỗ cho người lao động.[27, 5-6-7]
Có thể nhận thấy rằng các công trình nghiên cứu trên đã bàn rất nhiều
đến vấn đề lao động- việc làm và dạy nghề và chủ yếu đi theo hướng
nghiên cứu xã 16 hội học- đưa ra các chỉ báo về thực trạng, nguyên nhân và
từ đó đề xuất các giải pháp cho vấn đề đã nêu. Với luận văn này, vấn đề mà
người nghiên cứu tiếp cận không phải là mới, tuy nhiên tác giả không chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu về thực trạng, các yếu tố tác động đến vấn đề
dạy nghề cho đối tượng thanh niên. Yếu tố mới ở đề tài là tác giả tập trung
vào phân tích các vai trò của Công tác xã hội trong việc hỗ trợ các hộ gia
đình nghèo học nghề
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về công tác xã hội trong việc dạy nghề cho hộ gia
đình nghèo.
Nghiên cứu thực trạng, các yếu tố tác động công tác xã hội trong việc
dạy nghề cho hộ gia đình nghèo.
7


Đánh giá vai trò của Công tác xã hội trong việc dạy nghề cho các gia
đình nghèo ở xã Quang Trung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu về hệ thống lý thuyết liên quan đến công tác xã hội trong
việc dạy nghề cho gia đình nghèo
Nghiên cứu về thực trạng dạy nghề của các gia đình nghèo tại xã
Quang Trung
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học nghề của các
gia đình nghèo tại xã Quang Trung
5. Khách thể nghiên cứu
Điều tra 60 hộ nghèo tại xã Quang Trung.
Phỏng vấn sâu 4 Cán bộ văn hóa xã hội, lãnh đạo xã.
6. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ gia đình nghèo tại
xã Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Nội dung nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng và các hoạt động công tác xã hội trong việc dạy
nghề cho hộ gia đình nghèo tại xã Quang Trung, đánh giá kết quả đạt được,
những tồn tại và hạn chế từ đó đề xuất một số giải pháp để công tác xã hội
trong việc dạy nghề cho hộ gia đình nghèo đạt kết quả cao hơn.
7.2. Không gian nghiên cứu.
Xã Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn
7.3. Thời gian nghiên cứu.
Từ năm 2010 đến nay. (ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956), tỉnh Lạng Sơn bắt
đầu triển khai đề án vào năm 2010).

8


8. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này áp dụng để tra
cứu , tổng hợp các báo cáo tổng kết, thu thập các tài liệu sẵn có liên quan
đến vấn đề lao động- việc làm- và dạy nghề trên địa bàn nghiên cứu và một
số địa phương khác.
Phương pháp điều tra bảng hỏi: Điều tra bảng hỏi sẽ được tiến hành
trên mẫu với 60 trường hợp dành cho đối tượng là hộ gia đình nghèo các
nội dung liên quan đến lao động, việc làm và dạy nghề cho hộ gia đình
nghèo. Sau đó, tác giả sử dụng phần mềm thống kê toán học SPSS để sử lý
số liệu và phân tích tổng quan về thực trạng vấn đề đang nghiên cứu.
Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp tri giác có mục
đích, có kế hoạch một sự kiện, hiện tượng, quá trình (hay hành vi cử chỉ
của con người) trong những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau. Em sử dụng
phương pháp này nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể, kiểm tra, so
sánh và đánh giá hiệu quả cũng như biểu hiện của công tác dạy nghề cho hộ
gia đình nghèo.
Phương pháp phỏng vấn sâu: tiến hành 6 phỏng vấn sâu cá nhân
trong đó: 2 phỏng vấn sâu lãnh đạo địa phương, 2 phỏng vấn sâu cán bộ
văn hóa xã hội, 2 phỏng vấn sâu đại diện gia đình nghèo. Các kết quả của
việc điều tra bảng hỏi và phỏng vấn sâu sẽ giúp cho người nghiên cứu có tư
liệu để phân tích và đây cũng là những câu trả lời chân thực nhất về các vấn
đề liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu.
Là việc phân tích và diễn giải ý nghĩa của dữ liệu thu thập được thông
qua mẫu nghiên cứu và suy rộng ra cho tổng thể nghiên cứu. Khóa luận
ứng dụng phương pháp trên trong phân tích các số liệu, tài liệu nhằm đánh
giá kết quả công tác dạy nghề cho hộ gia đình nghèo tại xã Quang Trung.
9. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu, nội dung của
khóa luận gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội trong hoạt động dạy

nghề cho gia đình nghèo
CHƯƠNG 2: Thực trạng công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho
gia đình nghèo tại xã Quang Trung, huyện Bình Da, tỉnh Lạng Sơn.
CHƯƠNG 3: Kết luận, Giải pháp Khuyến nghị
9


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ CHO HỘ GIA ĐÌNH NGHÈO.
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1 1.1. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội (CTXH) được xem như là một nghề mang tính
chuyên nghiệp ở nhiều quốc gia từ gần thế kỷ nay. CTXH tồn tại và hoạt
động khi xuất hiện những vấn đề cần giải quyết như tình trạng nghèo đói,
bất bình đẳng giới, và giúp đỡ những thành phần dễ bị tổn thương như trẻ
mồ côi, người tàn tật, trẻ đường phố, trẻ bị lạm dụng…
Tuy nhiên ở Việt Nam, CTXH thường được nghĩ như là một việc làm
từ thiện. Để cho thấy CTXH không phải là công việc đơn giản như công tác
từ thiện, cần có cái nhìn đầy đủ ý nghĩa về CTXH. Có khá nhiều định nghĩa
khác nhau về CTXH, dưới đây là một số định nghĩa về CTXH:
Khái niệm 1: Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác
xã hội là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng
để nhằm nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện
chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu
của họ (Zastrow, 1996: 5).
CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và nhân
đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng
lực và cải thiện cuộc sống (Zastrow, 1999:..).
Khái niệm 2: Theo Cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội

thảo 2004): Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự
giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát
huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự
giải quyết vấn đề của mình.
Khái niệm 3: Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW)
tại Hội nghị Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên
nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối
quan hệ con người, sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm
giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý
thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở
những điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
10


Khái niệm 4: Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp
phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế
phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã
hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân
và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
Từ những khái niệm công tác xã hội trên bản thân em cũng tự rút ra
được cho mình một khái niệm công tác xã hội đó là một hoạt động chuyên
nghiệp để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi
phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện
thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. Công tác xã hội thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng
năng lực và giải phóng cho con người nhằm giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người
và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con
người với môi trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên
tắc căn bản của nghề.

1 1.2. Khái niệm nghề
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của trường ĐH KTQD thì khái niệm
nghề là một dạng xác định của hoạt động trong hệ thống phân công lao
động của xã hội , là toàn bộ kiến thức ( hiểu biết) và kĩ năng mà một người
lao động cần có để thực hiện các hoạt động xã hội nhất định trong một lĩnh
vực lao động nhất định
Còn bản thân em suy nghĩ, nghề đơn giản là một hoạt động, một cái
“cần câu cơm” , mà mỗi chủ thể sử dụng thông qua kiến thức, sức khỏe thể
chất để thực hiện một hoạt động nào đó tạo ra của cải hay tiền bạc.
1.1.3. Khái niệm dạy nghề.
Theo Cac_Mac công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần sau:
Một là :giáo dục trí tuệ
Hai là: Giáo dục thể lực như trong các trường Thể dục Thể thao hoặc
bằng cách huấn luyện quân sự
Ba là:dạy kí thuật nhăm giúp học sinh nắm được vững những nguyên
lí cơ bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công
cụ sản xuất đơn giản nhất (C.Mác Ph.ăng nghen. Tuyển tập xuất bản lần 2,
tập 16 trang 198)
11


Ở Việt Nam có tồn tại các khái niệm sau:
Theo giáo trình KTLĐ của trường ĐH KTQD thì khái niệm dạy nghề
được tác giả trình bày là :” Dạy nghề là quá trình trang bị kiến thực nhất
định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động,để họ có thể đảm nhận
được một số công việc nhất định”
Theo tài liệu của bộ LĐTB và XH xuất bản năm 2002 thì khái niệm
dạy nghề được hiểu :” Dạy nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao
động nhừng kiến thức ,kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao
động sau khi hoàn thành khoá học hành được một nghề trong xã hội”

Như vậy ,khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang bị những kiến
thức kĩ năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản .Điều này
thể hiện tính nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa,đề cao người lao động
ngay trong quan niệm về lao động chứ không chỉ coi lao động là một nguồn
“Vốn nhân lực “,coi công nhân như cái máy sản xuất .Nó cũng thể hiện sự
đầy đủ hơn về vấn đề tinh thần và kỉ luật lao động –một yêu cầu vô cùng
quan trọng trong hoạt động sản xuất vơí công nghệ và kĩ thuật tiên tiến hiện
nay
1.1.4. Khái niệm hộ gia đình nghèo
1.1.4.1. Khái niệm nghèo.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB)
Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh giá WB đã lựa chọn tiêu thức phúc
lợi với những chi tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học
hành, mặc, thuốc men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hóa lâu bền. Tuy
nhiên báo cáo về những số liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính
xác bởi phần lớn người lao động tự hành nghề.
WB đưa ra hai ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực
gọi là ngưỡng nghèo lương thực.
Ngưỡng nghèo thứ hai là bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi lương
thực gọi là ngưỡng nghèo chung.
Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều
tra mức sống 1998 là lượng lương thực, thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng
nhu cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày.
Người dưới ngưỡng đó thì là nghèo về lương thực.Dựa trên giá cả thị
12


trường để tính chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi
phí để mua rổ lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm.

Cách xác định nghèo chung:
Ngưỡng nghèo chung =(ngưỡng nghèo lương thực)+(ngưỡng nghèo
phi lương thực)
Ngưỡng nghèo được tính toán về phần phi lương thực năm 1998 là
503.038 đồng/người/năm từ đó ta có ngưỡng nghèo chung là 1.789871
đồng/người/năm.
Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO)
Về chuẩn nghèo đói ILO cho rằng để xây dựng rổ hàng hóa cho người
nghèo cơ sở xác định là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực phải phù hợp
với chế độ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm
người nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự
kết hợp thực phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người
nghèo thì phải thỏa mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcalo rẻ nhất.
ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo
lương thực thực phẩm 2100 kcalo, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ lương
thực trong rổ lương thực cho người nghèo với 75% từ gạo và 25% kcalo có
được từ các hàng hóa khác được gọi là các gia vị. Từ đó mức chuẩn nghèo
hợp lý là 511.000 đồng/người/năm.
Theo thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER)
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn
một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện
Theo quan điểm của Tổng cục thống kê việt Nam.
Tiêu chuẩn nghèo theo tổng cục thống kê Việt Nam được xác định
bằng mức thu nhập tính theo thời gian vừa đủ để mua một rổ hàng hóa
lương thực thực phẩm cần thiết duy trì với nhiệt lượng 2100
kcalo/ngày/người. Những người có mức thu nhập bình quân dưới ngưỡng
trên được xếp vào diện nghèo.
Theo quan điểm của Bộ lao động thương binh và xã hội.
Theo quan điểm của Bộ LĐTB&XH cho rằng nghèo là tình trạng của

một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản của
13


con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng khu vực.
Bộ laoLĐTB&XH đã đưa ra chuẩn nghèo dựa những số liệu thu thập
về hộ gia đình như sau:
Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập tùy theo vùng:
Vùng nông thôn, miền núi hải đảo là những hộ có thu nhập dưới 15kg gạo.
Vùng nông thôn đồng bằng trung du dưới 20 kg gạo
Vùng thành thị dưới 25 kg gạo.
a) Nghèo tuyệt đối
Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống như: nhu cầu
ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục.
b) Nghèo tương đối
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư, một cá nhân có
thu nhập thấp hơn mức thu nhập, mức sống trung bình của xã hội, do đó họ
thiếu cơ hội để tạo thu nhập, thiếu tài sản để tiêu dùng và dễ gặp tổn thương
khi gặp rủi ro.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được đáp ứng nhu cầu
sống cơ bản như: không đủ cơm để ăn, không đủ quần áo để mặc, không
được đi học, khám chữa bệnh …
1.1.4.2. Khái niệm gia đình:
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội.
Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu
tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa... Những mối liên hệ cơ bản của gia
đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ
khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con

rể... Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như: có đời sống
tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để
duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể
dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế
một cách tự nhiên, tự phát.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
14


sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều
8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
Luật hôn nhân gia đình năm 2004: Khái niệm này mới đề cập đến
những người sống chung với nhau trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi
dưỡng, còn những người sống chung với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn hoặc những người đã ly hôn nhưng sau đó lại tiếp tục sống
chung với nhau hay những người đồng tính sống chung với nhau như vợ
chồng sẽ không được gọi là gia đình.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau
về khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong
một sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau
dưới một mái nhà…
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia thành rất
nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia
đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy
đủ…
1.1.4.3. Khái niệm hộ gia đình.
Hộ gia đình hay còn gọi đơn giản là hộ là một đơn vị xã hội bao gồm
một hay một nhóm người ở chung và ăn chung (nhân khẩu). Đối với những
hộ có từ 2 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hay không có

quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung. Hộ gia đình không đồng nhất với
khái niệm gia đình, những người trong hộ gia đình có thể có hoặc không có
quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân hoặc cả hai.
Hộ gia đình được phân loại như sau:
Hộ một người (01 nhân khẩu) Là hộ chi có một người đang thực tế
thường trú tại địa bàn.
Hộ hạt nhân: Là loại hộ chỉ bao gồm một gia đình hạt nhân đơn (gia
đình chỉ có 01 thế hệ) và được phân tổ thành: Gia đình có một
cặp vợ chồng có con đẻ hoặc không có con đẻ hay bố đẻ cùng với con
đẻ, mẹ đẻ cùng với con đẻ.
Hộ mở rộng: Là hộ bao gồm gia đình hạt nhân đơn và những người có
quan hệ gia đình với gia đình hạt nhân. Ví dụ: một người cha đẻ cùng với
15


con đẻ và những người thân khác, hoặc một cặp vợ chồng với người thân
khác;
Hộ hỗn hợp: Là trường hợp đặc biệt của loại Hộ mở rộng.
Trong một nhà hay một căn hộ có thể có một hoặc nhiều hộ, mỗi hộ
được coi là một đơn vị điều tra. Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền
sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các
thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được cho chung, được
thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên trong gia đình thỏa
thuận là tài sản chung của hộ.
1.1.4.4. Khái niệm hộ gia đình nghèo.
Ngày 30-1, Thủ tướng ban hành Quyết định 09/2011/QĐ-TTg về
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015
Theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống. Hộ
nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000

đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là
hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000
đồng/người/tháng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính
sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác.
Như vậy khái niệm hộ gia đình nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt
bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản
xuất.
1.1.5. Khái niệm công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ
gia đình nghèo.
16


Dựa vào khái niệm công tác xã hội đó là một hoạt động chuyên
nghiệp để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hay khôi
phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện
thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. Công tác xã hội thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng
năng lực và giải phóng cho con người nhằm giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Dựa vào khái niệm dạy nghề là quá trình trang bị kiến thực nhất định
về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động,để họ có thể đảm nhận được
một số công việc nhất định
Dựa vào khái niệm hộ gia đình nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt
bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản
xuất.
Từ những khái niệm trên bản thân em tổng hợp và đúc kết lại thành
khái niệm công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ gia đình nghèo:

là hoạt động chuyên nghiệp, trong đó nhân viên công tác xã hội sự dụng
những kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghề nghiệp của mình nhằm trang
bị cho các hộ gia đình nghèo – những người có cuộc sống vất vả, khó khăn,
không được đáp ứng đày đủ csc điều kiện và nhu cầu sống cơ bản có những
kiến thức ,kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để họ sau khi hoàn thành
khoá học hành được một nghề trong xã hội, giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái, dễ chịu.
1.2. Biểu hiện công tác xã hội trong hoạt động dạy nghề cho hộ
gia đình nghèo.
Vấn đề giải quyết việc làm, hỗ trợ dạy nghề cho người lao động, đặc
biệt là lao động thuộc các hộ gia đình nghèo là một việc làm hết sức quan
trọng và cần thiết. Với vai trò là nhân tố thúc đẩy sự thay đổi, tiến bộ của
xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Công tác xã hội, cụ thể là
nhân viên công tác xã hội đang có những đóng góp tích cực, giữ vị trí, vai
trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong đó có vấn
đềdạy nghề cho các hộ gia đình nghèo. Hoạt động công tác xã hội trong hỗ
trợ dạy nghề cho hộ nghèo của nhân viên công tác xã hội được thể hiện qua
một số biểu hiện nổi bật sau:
1.2.1. Biểu hiện về giáo dục:
17


Nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) thông qua các hoạt động
truyền thông nhằm giáo dục, nâng cao nhận thức, thái độ của các hộ gia
đình nghèo về tầm quan trọng của giáo dục dạy nghề, tầm quan trọng của
trình độ, chuyên môn trong việc dạy và học nghề, thay đổi những nhận
thức, thái độ không tích cực của họ về việc làm và đào tạo nghề để có được
việc làm. Với trình độ văn hóa còn hạn chế, cộng thêm những yếu tố hạn
chế trong tiếp cận thông tin, một bộ phận lớn các hộ gia đình nghèo còn
chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học nghề, nâng cao trình độ

văn hóa, chuyên môn để có được việc làm ổn định, mang lại thu nhập đảm
bảo cuộc sống. Vì thế, hoạt động giáo dục của công tác xã hội trong vấn đề
này là rất quan trọng, là hoạt động cốt yếu đảm bảo sự hiệu quả của các
hoạt động hỗ trợ khác. Bởi lẽ, các hộ gia đình nghèo không chỉ có nhu cầu
được học nghề, được vay vốn để học tập, nâng cao trình độ chuyên môn
khi họ nhận thức được tầm quan trọng của điều đó đến quá trình tìm kiếm
việc làm, tự tạo việc làm của họ.
1.2.2. Biểu hiện về tham vấn.
Với biểu hiện là một nhà tham vấn, NVCTXH sẽ là người cung cấp
thông tin, chia sẻ kiến thức về các vấn đề liên quan đếnhoạt động dạy và
học nghề, các hoạt động, mô hình dạy nghề hiện có cho đối tượng để họ có
được sự định hướng và lựa chọn ngành, nghề phù hợp, đúng đắn. Để thực
hiện tốt hoạt động này, NVCTXH cần nắm bắt đầy đủ, chính xác các thông
tin về thị trường lao động việc làm ở địa phương và trên cả nước cũng như
thị trường lao động nước ngoài để đảm bảo các thông tin luôn cập nhật,
phục vụ nhu cầu thông tin về học nghề, việc làm, xuất khẩu lao động của
thanh niên. Hoạt động tham vấn là một hoạt động vô cùng quan trọng của
công tác xã hội, có tác động lâu dài đến vấn đề việc làm của thanh niên, bởi
lẽ nếu thông tin được cung cấp chính xác, thanh niên sẽ chọn lựa được
ngành nghề học phù hợp với bản thân, với nhu cầu của thị trường lao động,
của xã hội, đảm bảo tỷ lệ kiếm được việc làm, tự tạo việc làm thành công
của người học nghề cao hơn, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp,
thiêu việc làm của lao động nông thôn nói chung và các hộ gia đình nghèo,
người nghèo nói riêng. Ngược lại nếu thông tin được đưa ra trong quá trình
tham vấn, giới thiệu nghề không chính xác, không cập nhật sẽ dễ dẫn tới
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người học nghề ngay khi đã được
đào tạo nghề. Điều này không những ảnh hưởng trực tiếp đến người lao

18



động mà còn làm gia tăng những hệ lụy xã hội khác như : Thất nghiệp,
thiếu việc làm, mất cân đối trong cơ cấu lao động xã hội…
1.2.3. Biểu hiện là người kết nối:
Để hỗ trợ dạy nghề cho các hộ gia đình nghèo cần sự hỗ trợ từ nhiều
tổ chức, ban ngành khác nhau. Vì thế, NVCTXH sẽ là người kết nối, hỗ trợ
để các hộ gia đình nghèo có thể tiếp cận được với các nguồn lực đó, giúp
họ giải quyết khó khăn của mình trong vấn đề việc làm. Biểu hiện kết nối
của công tác xã hội trong việc hỗ trợ dạy nghề cho các hộ gia đình nghèo,
không chỉ thể hiện ở việc kết nối họ với các nguồn lực với các đơn vị cung
cấp dịch vụ đào tạo nghề, các ngân hàng cho vay vốn…mà còn là việc kết
nối các đơn vị, các nguồn lực đó với nhau, tạo thành một hệ thống cung cấp
dịch vụ, hỗ trợ toàn diện nhất về dạy nghề và tạo việc làm cho các hộ gia
đình nghèo.
1.2.4. Biểu hiện về hỗ trợ pháp lý.
Vấn đề dạy nghề cho lao động nông thôn nói chung và các hộ gia
đình nghèo nói riêng đã và đang được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Nhiều chính sách, chương trình về hỗ trợ tạo dạy nghề cho hộ gia đình
nghèo đã được đề ra. Tuy nhiên, một số trường hợp các hộ gia đình nghèo
lại chưa được tiếp cận với những chính sách này do thiếu thông tin hoặc
gặp những khó khăn trong việc làm thủ tục, hồ sơ pháp lý. Vì thế, công tác
xã hội trong hỗ trợ dạy nghề chocác hộ gia đình nghèo, sẽ đóng vai trò giúp
đỡ để các hộ gia đình nghèo có được sự hỗ trợ pháp lý cần thiết để có thể
tiếp cận với các chính sách, chương trình về đào tạo nghề và việc làm của
Nhà nước cũng như các tổ chức khác. Từ đó, các hộ gia đình có được
những nguồn lực, điều kiện cần thiết để giải quyết khó khăn của mình về
việc làm. Không những vậy, với hoạt động tư vấn, hỗ trợ pháp lý này, các
chính sách, chương trình hỗ trợ dạy nghề của Nhà nước và các tổ chức, đơn
vị khác sẽ đi vào cuộc sống một cách sâu rộng hơn, phát huy tối đa hiệu
quả của các chính sách đó.

1.2.5. Biểu hiện về huy động nguồn lực.
Để hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề khó khăn của họ, NVCTXH cần
huy động nguồn lực từ nhiều nguồn khác nhau, những nguồn lực mà
NVCTXH cần huy động trước tiên đó là nội lực của chính đối tượng, nhóm
đối tượng và cộng đồng đó. Bên cạnh đó, NVCTXH cũng sẽ huy động
những nguồn lực bên ngoài cho quá trình hỗ trợ đối tượng, bao gồm cả
19


nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần. Thứ sáu, NVCTXH đóng vai trò
là người biện hộ chính sách: Trong quá trình thực hiện các hoạt động công
tác xã hội trong hỗ trợ dạy nghề cho hộ nghèo, NVCTXH sẽ có những đề
xuất, kiến nghị và tham mưu với các cơ quan chức năng có thẩm quyền về
bổ sung, chỉnh sửa hay ban hành các chính sách liên quan hỗ trợ dạy nghề,
tạo việc làm cho các hộ gia đình nghèo. Nhờ đó, các luật pháp, chính sách
của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ dỵ nghề cho các hộ nghèo sẽ phát huy được
tính hiệu quả cao nhất, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, thiếu việc làm
hiện nay.
1.3.Mụch đích và ý nghĩa của hỗ trợ dạy nghề với hộ nghèo.
Hỗ trợ dạy nghề có ý nghĩa rất quan trọng với người có hoàn cảnh khó
khăn. Thông qua các hoạt động cụ thể của hỗ trợ dạy nghề nhằm hỗ trợ
những công việc phù hợp, đáp ứng đúng và đủ điều kiện, hoàn cảnh cho
những đối tượng yếu thế, những đối tượng gặp khó khăn cần được hỗ trợ
trong cuộc sống, nhằm giúp họ vượt qua khó khăn, vươn trải và có được sự
ổn định trong cuộc sống cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Hỗ trợ dạy nghề tạo điều kiện để những đối tượng yếu thế cũng có cơ
hội làm việc, tự tạo ra được một khoản thu nhập để trang trải cuộc sống,
giúp họ tự tin hơn trong cuộc sống. Thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước tới những người gặp khó khăn cần được hỗ trợ và là một chính sách
nhằm ổn định lao động, phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.


20


×