Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh soi và kết quả phẫu thuật ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.16 KB, 85 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là loại ung thư thường gặp ở nữ giới, đứng
hàng thứ ba trong các loại ung thư chung và đứng thứ tư trong số các nguyên
nhân gây tử vong ở phụ nữ trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung có
xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, đặc biệt tại các quốc gia nghèo gây
nên gánh nặng bệnh tật rất lớn đối với phụ nữ tại các quốc gia này [1],[2].
Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung được ghi nhận là loại ung thư có tỷ lệ
mắc và tử vong cao ở nữ giới. Theo ghi nhận tình hình mắc ung thư tại 6 tỉnh,
thành phố giai đoạn 2001-2004 cho thấy, ung thư cổ tử cung là một trong 5
loại ung thư phổ biến ở nữ giới [3]. Năm 2010, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung
là 13,6/100.000 dân đứng thứ 3 trong số các ung thư ở nữ giới [4].
Ung thư CTC là bệnh có thời gian tiến triển tự nhiên chậm, qua nhiều
giai đoạn, kéo dài 10-15 năm, do đó bệnh có thể dự phòng và phát hiện sớm
nhờ các phương pháp như Pap smear, khám phụ khoa với test acid acetic và
lugol, soi cổ tử cung kết hợp với test acid acetic và lugol, test HPV.
Tiên lượng bệnh ung thư cổ tử cung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai
đoạn bệnh, kích thước u, tình trạng di căn hạch, di căn xa, đặc điểm mô bệnh
học và tuổi bệnh nhân. Theo AJCC 2010 thời gian sống thêm toàn bộ giảm
dần theo giai đoạn, ở giai đoạn sớm (giai đoạn 0 và IA) thời gian sống toàn bộ
5 năm là 93%; giai đoạn IB 80%, IIA 63%... giai đoạn muộn có di căn xa tỉ lệ
này chỉ còn 15 %-16%. Xác định giai đoạn bệnhcó ý nghĩa quan trọng đối với
quá trình điều trị, giúp lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, đạt kết quả tốt
nhất và đưa ra tiên lượng. Chẩn đoán giai đoạn ung thư CTC thông thường
dựa vào khám lâm sàng, nội soi cổ tử cung và chụp cộng hưởng từ tiểu khung.
Nội soi cổ tử cung giúp xác định vị trí tổn thương, kích thước u, hình thái,
mức độ xâm lấn tại chỗ và định hướng sinh thiết. Chụp cộng hưởng từ tiểu


2



khung đánh giá được các yếu tố: Kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u
vào lớp cơ, vào đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận
(bàng quang, trực tràng), vào ống âm đạo, tình trạng hạch tiểu khung [5].
Các phương pháp điều trị UTCTC bao gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa
chất; trong ba phương pháp thì phẫu thuật và xạ trị chiếm ưu thế. Việc lựa
chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và cá thể bệnh nhân.
Ở giai đoạn sớm IA, IB1 có thể áp dụng phẫu thuật triệt căn; xạ trị triệt căn,
hoặc xạ trị kết hợp với phẫu thuật, các phương pháp này có thời gian sống
thêm tương đương nhau. Nhưng phẫu thuật triệt căn tỏ ra ưu việt hơn xạ trị
triệt căn như bảo tồn được buồng trứng, tránh được các tổn thương do xạ trị,
theo dõi tái phát sau điều trị dễ hơn, đánh giá tổn thương chính xác hơn [6].
Tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội cũng đã tiến hành điều trị triệt căn ung
thư cổ tử cung giai đoạn sớm (IA, IB1) bằng phẫu thuật. Nhưng còn rất ít đề
tài nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và kết quả phẫu thuật
cho giai đoạn bệnh này. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá đặc
điểm lâm sàng, hình ảnh soi và kết quả phẫu thuật ung thư cổ tử cung
giai đoạn sớm”với 2 mục tiêu:
1 Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, hình ảnh tổn thương ung thư cổ tử cung
giai đoạn IA, IB1 qua soi CTC tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội từ 1/2011 đến
6/2016.
2 Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn IA,IB1.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1. Giải phẫu - mô học cổ tử cung

1.1.Giải phẫu cổ tử cung
Cổ tử cung hình nón cụt gồm 2 phần: Phần trong âm đạo và phần trên âm
đạo, được ngăn cách bởi thành âm đạo.
- Phần âm đạo: Như một đĩa lồi (hay mõm cá mè) nhô vào âm đạo, với
một lỗ ở giữa gọi là lỗ ngoài tử cung. Ở phụ nữ chưa sinh đẻ lỗ ngoài là một
lỗ tròn, sau khi sinh thì nó là một khe ngang.
- Phần trên âm đạo: Giới hạn trên là thân tử cung, giới hạn dưới là vị trí
bám âm đạo.

Hình 1.1. Giải phẫu hệ sinh dục nữ
Nguồn: Internet


4

- CTC gồm: Mặt ngoài và ống cổ tử cung:
+ Mặt ngoài cổ tử cung (CTC) dễ dàng nhìn thấy khi thăm khám bằng
mỏ vịt hay khi soi cổ tử cung.

Hình 1.2. Mặt ngoài CTC
Nguồn: Internet
CTC gồm môi trước và môi sau, mặt ngoài CTC được phủ bởi biểu mô vảy
gồm nhiều hàng tế bào không sừng hóa, có bề dày ~ 5mm, trơn láng, hồng nhạt.
Ở tuổi dậy thì và hoạt động sinh dục chiều dài cổ tử cung chiếm 1/ 3 so
với thân tử cung.
+Ống CTC có hình trụ, kích thước 3cm x 2cm ở người chưa sinh đẻ và
3cm x 3cm ở người đã sinh.
Ống CTC được giới hạn bởi lỗ trong (nơi tiếp giáp giữa ống cổ tử cung
và buồng tử cung) và lỗ ngoài cổ tử cung.
Ống CTC được phủ bởi một lớp biểu mô trụ có tác dụng chế nhày. Chất

nhày cổ tử cung có tác dụng bảo vệ, chống vi khuẩn xâm nhập vào buồng tử
cung và góp phần bôi trơn âm đạo trong hoạt động tình dục.
Vị trí ranh giới giữa tế bào cổ ngoài (tế bào vảy) và cổ trong (tế bào trụ)
gọi là ranh giới vảy - trụ, ranh giới vảy - trụ so với lỗ ngoài phụ thuộc tuổi,
chu kỳ kinh, khi mang thai, và việc sử dụng thuốc tránh thai.


5

CTC được nuôi dưỡng bằng các động mạch nuôi tử cung và động mạch
âm đạo CTC.
Bạch huyết CTC được dẫn lưu theo ba hướng [7]:
+ Ra phía ngoài, trong mạc chằng rộng tới các hạch chậu ngoài.
+ Ra phía sau ngoài, dọc theo các mạch tử cung nối với các hạch chậu trong.
Ra phía sau, dọc theo các nếp tử cung trực tràng tới các hạch cùng.
Mạch máu và thần kinh
Các động mạch. Có hai động mạch chính động mạch buồng trứng và
động mạch tử cung.
Tĩnh mạch: Tĩnh mạch đổ vào các đám rối tĩnh mạch buồng trứng và tử
cung rồi đổ về tĩnh mạch chậu trong.
Bạch huyết: Bạch mạch ở CTC và TTC nối thông với nhau và đổ về
một thân chung chạy dọc bên ngoài động mạch TC và cuối cùng đổ về các
hạch bạch huyết của các động mạch chậu hoặc động mạch chủ bụng.
Thần kinh: Tách ra từ đám rối hạ vị dưới.

Hình 1.3. Mạch máu hệ sinh dục nữ
Nguồn: Internet


6


Liên quan
Ở mặt trước CTC dính vào mặt sau dưới bàng quang bởi một tổ chức
lỏng lẻo dễ bóc tách, còn ở mặt sau có phúc mạc phủ, qua túi cùng trực tràngtử cung CTC liên quan với trực tràng. Ở hai bên cổ, gần eo, trong đáy dây
chằng rộng động mạch tử cung bắt chéo phía trước niệu quản cách CTC độ
1,5 cm.

Hình 1.4. Cổ tử cung và cấu trúc liên quan
Nguồn: Atlas giải phẫu người
Các dây chằng Tử cung liên quan:
Dây chằng rộng là một nếp gồm hai lá phúc mạc liên tiếp với phúc mạc
ở mặt bàng quang và mặt ruột của TC bám từ hai bên tử cung và vòi trứng tới
thành bên chậu hông. Đáy dây chằng rộng có động mạch tử cung và niệu quản
đi qua, chỗ bắt chéo cách CTC 1,5 cm.
Dây chằng tử cung cùng là một dải mô liên kết và cơ trơn bám từ mặt
sau CTC ở gần hai bên rồi tỏa ra sau và lên trên đi hai bên trực tràng
độiphúc mạc lên tạo thành nếp trực tràng- tử cung. Nếp này là giới hạn bên


7

của túi cùng trực tràng - tử cung. Sau cùng dây chằng tử cung cùng bám
vào mặt trước xương cùng. Dây chằng ngang CTC (dây chằng Mackenrodt)
cũng là một dải mô xơ liên kết bám từ bờ bên CTC ngay phần trên vòm âm
đạo rồi đi ngang sang hai bên chậu hông ngay dưới đáy dây chằng rộng và
trên hoành chậu hông.
1.2. Cấu trúc mô học cổ tử cung
1.2.1. Biểu mô vảy
Phủ mặt ngoài cổ tử cung và âm đạo là biểu mô vảy không sừng hóa.
Các lớp tế bào trung gian và bề mặt CTC chứa glycogen. Biểu mô vảy CTC

có thể là nguyên thủy và hình thành trong thời kỳ phôi thai được gọi là biểu
mô vảy nguyên thủy, có màu hồng khi quan sát. Hoặc có thể hình thành về
sau do quá trình dị sản vảy, màu hồng trắng khi quan sát. Biểu mô vảy CTC
gồm nhiều hàng tế bào, không sừng hóa, có chiều dày khoảng 5mm. Bề dày
và các lớp tế bào này thay đổi phụ thuộc nồng độ Estrogen.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, niêm mạc âm đạo và CTC gồm 5 lớp tế bào:
- Lớp đáy C1: Gồm 1 hàng tế bào che phủ lớp đệm, nhân to và ưa kiềm.
- Lớp tế bào đáy nông C2: Gồm 2-3 hàng tế bào hình trụ hay hơi tròn,
nhân tương đối to, ưa kiềm.
- Lớp tế bào trung gian C3: Gồm những tế bào dẹt, nhân nhỏ, dài và dẹt,
các tế bào nối với nhau bằng nhiều cầu nối.
- Lớp sừng hóa nội của Dierks C4: Gồm những tế bào dẹt, nhân đông.
Lớp này rất nông nên khó quan sát trên tiêu bản.
- Lớp bề mặt C5: Gồm những tế bào to, dẹt, nhân đông. Thay đổi theo
chu kỳ dưới ảnh hưởng của hormon buồng trứng.
Các lớp tế bào âm đạo và CTC có đặc điểm:
- Giới hạn từ lớp này sang lớp khác rất từ từ.


8

- Càng đi lên phía bề mặt các lớp tế bào càng dẹt lại, nguyên sinh chất
càng lớn và nhân tế bào càng nhỏ.
Nhân tế bào các lớp dưới ưa kiềm, càng lên phía bề mặt càng ưa acid.
- Glycogen tăng dần từ lớp C3 đến lớp C5. Lớp trung gian và lớp bề mặt
rất giàu glycogen, bắt màu nâu hoặc đen khi bôi dung dịch lugol. Sự tích lũy
glycogen là hiện tượng trưởng thành bình thường của biểu mô vảy. Sự trưởng
thành bất thường được đặc trưng bởi sự thiếu hụt glycogen, đây là cơ sở ứng
dụng test Lugol.
Sự trưởng thành biểu mô vảy CTC phụ thuộc vào nồng độ estrogen. Thiếu

estrogen sẽ không trưởng thành hoàn toàn và không tích lũy glycogen.
1.2.2. Biểu mô trụ cổ tử cung
Gồm một hàng tế bào cao, tiết dịch nhầy và có nhiều rãnh gồ ghề, phủ
mặt trong ống cổ tử cung.
Giới hạn trên ống cổ tử cung, biểu mô trụ tiếp với biểu mô trụ của
buồng tử cung.
Giới hạn dưới, biểu mô trụ tiếp giáp với biểu mô vảy phủ mặt ngoài cổ
tử cung, vị trí này được gọi là ranh giới vảy - trụ. Ranh giới vảy - trụ có thể xa
hoặc gần lỗ ngoài cổ tử cung, thay đổi theo tuổi, con so hay con dạ hoặc tình
trạng hormon của người phụ nữ.
Nhìn mắt thường, biểu mô trụ sẽ thấy những nụ đỏ sẫm màu vì chỉ có
một lớp tế bào, mỏng hơn so với chiều dày của biểu mô vảy, bởi vậy có thể dễ
dàng nhìn thấy mạch máu ở dưới, trong tổ chức đệm.
Biểu mô tuyến tạo thành những nhung mao trong lòng ống cổ tử cung.
Biểu mô tuyến có thể tăng sinh tạo thành các polyp tuyến, dễ dàng quan sát
khi thăm khám bằng mỏ vịt hoặc soi cổ tử cung.
Tế bào biểu mô tuyến không chứa glycogen nên không bắt màu lugol.


9

Chất nhầy cổ tử cung được chế tiết bởi các tuyến ở ống cổ tử cung.
Chất nhày này loãng hay đặc phụ thuộc vào hormon buồng trứng. Do đó
chất nhầy CTC thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, thời điểm phóng noãn,
hay thời kỳ mang thai.
1.3. Soi cổ tử cung và các vấn đề liên quan
1.3.1. Lịch sử soi cổ tử cung
Năm 1600, Peeter Borell và Arnaud sáng chế ra gương lõm để phản
chiếu và hội tụ ánh sáng vào cơ quan cần quan sát.
Năm 1768, Arnaud, một thầy thuốc sản khoa người Pháp dùng đèn lồng

của kẻ trộm để chiếu sáng CTC.
Năm 1806, Bozzini tạo hệ thống truyền ánh sáng từ nguồn chiếu sáng
qua một ống vào âm đạo để quan sát CTC.
Năm 1879, Maximillian Nitze phát minh chế tạo ra ống soi bàng quang.
Nhờ phát minh bóng đèn đốt nóng bằng dây tóc Thomas Edison, nguồn sáng
của ống soi là một bóng đèn nhỏ đặt ở đầu trong ống soi làm mất nguy cơ
cháy nổ. Các nhà khoa học đã kết hợp tạo thành hệ thống quang học để quan
sát vật thể dưới nguồn sáng điện.
Năm 1900 - 1910, Otto Von Franque, Schauenstein, Pronai, Rubbin,
Schottlander đề cập đến một số tổn thương đại thể ở CTC mà có thể quan sát
bằng mắt thường.
Năm 1925, Hans Hinselmann người Đức đã dùng hệ thống quang học có
độ phóng đại lớn với một nguồn sáng mạnh để quan sát lớp biểu mô của CTC
và âm đạo mà chủ yếu là ở CTC và thủ thuật này được gọi là soi CTC.
Năm 1927, Schiller dùng Iode chấm vào CTC và âm đạo để phát hiện
những thương tổn tại chỗ (chứng nghiệm Lugol hay Schiller).
Năm 1952, Fourestier phát minh ra ánh sáng lạnh. Gọi là ánh sáng lạnh
vì nguồn sáng không gắn vào đầu trong ống soi mà được đặt ở ngoài cơ thể
nên các tạng được quan sát không bị làm nóng.


10

Năm 1957, Hội nghị quốc tế về Tế bào học tại Bruxelles đã xác định
tế bào học âm đạo và soi CTC là hai phương pháp hỗ trợ lẫn nhau trong
chẩn đoán những tổn thương lành tính, tổn thương bất thường hay ác tính
của CTC.
Ban đầu, hình ảnh soi CTC được thể hiện bằng màu nước. Sau đó, kỹ
thuật chụp ảnh trong soi CTC được coi là phương pháp chính để ghi lại hình
ảnh và có giá trị.

Nguyên lý soi CTC là sử dụng máy soi CTC gồm một hệ thống thấu kính
có thể phóng đại từ 40- 60 lần, nhưng thường sử dụng độ phóng đại từ 15 đến 20
lần, có tác dụng làm phóng đại lớp biểu mô âm đạo và CTC để có thể quan sát
được nhiều chi tiết một cách rõ ràng hơn so với quan sát bằng mắt thường.
1.3.2. Giá trị của phương pháp soi cổ tử cung.
Soi CTC là một phương pháp lâm sàng cho phép:
- Phát hiện các tổn thương lành tính, các tổn thương nghi ngờ và ung thư
cổ tử cung [8],[9],[10].
- Xác định vị trí các tổn thương và hướng dẫn sinh thiết đúng vị trí, giúp
cho chẩn đoán mô bệnh học chính xác hơn [11],[12],[13],[14].
Soi cổ tử cung có độ nhạy cao từ 79 %-100%, nhưng độ đặc hiệu thấp từ
28% - 62% [12]
Soi cổ tử cung kết hợp với phiến đồ âm đạo - CTC sẽ tăng khả năng phát
hiện bệnh và cho phép đánh giá quá trình lành bệnh sau điều trị và tiến triển
của các tổn thương cổ tử cung [11],[12],[9],[10]
Kết quả soi CTC được coi là không hoàn hảo nếu không nhìn rõ được
ranh giới vảy - trụ và toàn bộ mặt ngoài cổ tử cung.
1.3.3. Một số đặc điểm hình ảnh soi cổ tử cung trong tổn thương cổ tử
cung
1.3.3.1. Tổn thương do HPV


11

Khi một cơ thể nhiễm HPV, 80% các trường hợp chỉ là nhiễm thoáng
qua, không có triệu chứng và không cần điều trị. Phần lớn nhiễm HPV thoáng
qua kéo dài khoảng 8 tháng, 30% kéo dài 12 tháng và 9% kéo dài đến 2 năm;
20% gây tổn thương CTC [15],[11],[12],[10], các tổn thương đó gồm:
- Condyloma phẳng: Biểu hiện trên nội soi là tổn thương khảm, chấm
đáy, sừng hóa. Thỉnh thoảng trên bề mặt condyloma có nhiều vòng xoắn

giống như bề mặt não. Bề mặt tổn thương thường tăng sản dày đặc.
- Condyloma đỉnh nhọn: Tổn thương là các nhú sùi - giữa là mạch máu.
Các condyloma không bắt màu lugol.
Tổn thương có thể thấy cả ở cổ ngoài, vùng chuyển tiếp và thành âm đạo.
Đôi khi condyloma ở vùng chuyển tiếp có hình ảnh không rõ ràng với
những vùng lồi lên của nhung mao biểu mô trụ.
Tổn thương u nhú vùng biểu mô vảy cũng như ranh giới vảy – trụ, đều
trắng ra khi bôi acid acetic.
1.3.3.2. Tổn thương tiền ung thư cổ tử cung
Quan sát toàn bộ vùng chuyển tiếp để tìm vùng trắng acid acetic, có thể
thấy một hoặc nhiều vùng biểu mô acid, ranh giới không rõ, gần hoặc liên tiếp
với ranh giới vảy – trụ là những dấu hiệu của tổn thương CIN:
-

Tổn thương CIN mức độ thấp: Vùng biểu mô trắng acid acetic mỏng, nhẵn,

-

bờ còn rõ nét nhưng không đều.
Tổn thương CIN mức độ cao sẽ thấy vùng trắng acid acetic dày, mảng trắng
đục hoặc ghi trắng, bề mặt tổn thương không đều, ít trơn bóng, tổn thương có

-

thể lan tỏa vào ống cổ tử cung.
Những đặc điểm của mạch máu không bình thường: Tổn thương chấm đáy,

-

khảm. Đặc biệt là tìm thấy tổn thương này trong vùng trắng acetic.

Nếu hình ảnh chấm đáy, khảm ít, thưa, đôi khi là tổn thương CIN mức độ thấp
(CINI)


12

-

Nếu tổn thương chấm đáy, hoặc tổn thương khảm hoặc thấy cả hai trong vùng

-

biểu mô vảy trắng acid thường là CIN mức độ cao (CIN 2, 3).
Tổn thương CIN bề mặt không chứa glycogen nên không bắt màu lugol.
Tuy nhiên tất cả những hình ảnh trên mang tính chất gợi ý, để chẩn đoán
xác định tổn thương CIN cần dựa vào tế bào và mô bệnh học.
1.3.3.3.Ung thư cổ tử cung
* Giai đoạn vi xâm nhập: Soi cổ tử cung thấy:
- Mảng trắng acetic với những mạch máu không điển hình (khảm thô,
chấm đáy thô, lát đá, sừng hóa dày, thâm nhập xuống sâu quanh ống tuyến).
- Tổn thương rộng ở vùng chuyển tiếp.
- Tổn thương che lấp cả ranh giới vảy – trụ, mảng trắng như phấn hoặc
trắng xám, bờ rõ nét, cuộn lại dày đặc, tổn thương trắng rất nhanh khi bôi acid
acetic và trắng acetic tồn tại 2 - 4 phút [11],[12].
- Bề mặt tổn thương lồi lõm không đều, có thể chảy máu khi va chạm.
Hình ảnh mạch máu không điển hình có thể là dấu hiệu đầu tiên của xâm
lấn:

-


Mạch máu bị phá vỡ hình thành dạng khảm.
Mạch máu dài bất thường.
Mạch máu tăng sinh bất thường, kỳ quái: Không giảm khẩu kính đầu tận cùng
nhánh và nhánh bất thường, hình kẹp tóc rộng, sợi chỉ kỳ quái, hình vặn nút

-

chai, tua xoắn, hình rễ cây.
Mạch máu bất thường về sự phân bố, hướng đi và tăng khoảng cách giữa các
vòng mạch máu (biểu hiện khảm thô, lát đá, hoặc tổn thương phối hợp).
Ung thư nội biểu mô tuyến (AIS) hoặc ung thư biểu mô tuyến: Khó nhận
định và không có tiêu chuẩn rõ ràng để chẩn đoán khi soi cổ tử cung.
Hình ảnh gợi ý tổn thương tuyến:


13

-

Vùng trắng acetic xung quanh nhung mao trụ, bất thường bề mặt vùng trắng
acetic, hình nhú và mạch máu dạng cành cây hoặc rễ cây trong vùng biểu mô

-

-

trụ.
Một mảng trắng với những đốm đỏ trắng và những nhú sùi nhỏ, đồng thời có
thể có những đường xẻ khá sâu mở ra vùng biểu mô tuyến.
Ung thư tuyến xâm lấn:

+ Có thể thấy ở vùng trắng xám trong tổn thương trắng acetic với các
nhú sùi và mạch máu không điển hình dạng sợi hoặc hình chữ, dễ chảy máu
khi va chạm.
+ Cấu trúc nhung mao trụ bất thường với mạch máu không điển hình ở
lỗ ngoài CTC và ở gần vùng trắng acetic có rãnh sâu mở ra vùng tuyến.
* Giai đoạn xâm nhập: Soi cổ tử cung thấy khối u dạng sùi, loét, sùi
loét, lan rộng hoặc khu trú tại cổ tử cung.
1.4. Ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư hay gặp ở nữ giới. Bệnh tiến triển qua
nhiều năm, ước tính trên thế giới hàng năm có khoảng 1.4 triệu phụ nữ mắc
ung thư cổ tử cung và nhiều hơn gấp 2-5 lần (khoảng 7 triệu) phụ nữ có triệu
chứng tiền lâm sàng cần được phát hiện và điều trị [1],[16].
Theo kết quả của các tổ chức ghi nhận ung thư trên thế giới, ung thư cổ
tử cung đứng hàng thứ ba trong các loại ung thư chung, đứng thứ 2 trong các
ung thư ở nữ giới sau ung thư vú và đứng thứ tư trong số các nguyên nhân
gây tử vong ở phụ nữ trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung có xu
hướng gia tăng trong những năm gần đây, đặc biệt tại các nước nghèo và nếu
không có biện pháp can thiệp thì tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung sẽ tăng
25% trong vòng 10 năm tới. Trên 85% các trường hợp ung thư và tử vong xảy
ra ở các nước đang phát triển, nơi mà ung thư cổ tử cung được đánh giá là
một trong những nguyên nhân gây gánh nặng bệnh tật lớn tại cộng đồng các
quốc gia này[1],[16],[17].


14

Ở Việt Nam ung thư cổ tử cung thuộc top 5 các loại ung thư phổ biến ở
phụ nữ, phụ thuộc vào vùng miền và thời gian. Ở miền Nam ung thư CTC
đứng thứ 2 sau ung thư vú, miền Bắc ung thư CTC đứng thứ 3 sau ung thư vú
và dạ dày[18].

1.4.1. Các phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung là bệnh có tỷ lệ mắc cao, giai đoạn tiền lâm sàng kéo
dài và điều trị hiệu quả nếu bệnh được phát hiện sớm trong giai đoạn đầu do
đó sàng lọc ung thư cổ tử cung là một phương pháp hiệu quả nhằm hạn chế tỷ
lệ mắc và tử vong do ung thư cổ tử cung. Hiện nay, trên thế giới và tại Việt
Nam, các phương pháp sàng lọc ung thư cổ tử cung đang được thực hiện, bao
gồm: Phương pháp sàng lọc tế bào, quan sát cổ tử cung bằng mắt thường với
dung dịch Acid acetic 5% (phương pháp VIA), quan sát với lugol’s Iodine
(phương pháp VILI), xét nghiệm phát hiện ADN HPV [19]. Theo hướng dẫn
của Hội ung thư Mỹ ACS ( American Cancer Society) tiến hành sàng lọc theo
độ tuổi như sau:
Tất cả phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên bắt đầu khám sàng lọc ở tuổi 21.

- Phụ nữ từ 21- 29 tuổi nên được làm pap test 3 năm một lần. HPV test không
nên sử dụng để sàng lọc ở nhóm tuổi này.

- Phụ nữ từ 30 - 65 tuổi làm pap test 3 năm một lần. Hoặc nếu kết hợp pap test
và HPV test thì 5 năm một lần.

- Phụ nữ trên 65 tuổi được sàng lọc đều đặn theo hướng dẫn trên có kết quả
bình thường thì dừng sàng lọc. Với những phụ nữ được chẩn đoán có tổn
thương tiền ung thư nên tiếp tục được sàng lọc trong khoảng 20 năm sau.

- Những phụ nữ đã được cắt tử cung toàn bộ không phải do tổn thương ung thư
và tiền ung thư cổ tử cung thì không cần sàng lọc.


15

- Những phụ nữ đã cắt tử cung bán phần vẫn tiếp tục được sàng lọc.

- Những phụ nữ đã tiêm phòng HPV vẫn phải sàng lọc theo nhóm tuổi đã
khuyến cáo.

- Những phụ nữ nhóm nguy cơ cao: Nhiễm HIV, cấy ghép tạng, sử dụng thuốc
tránh thai DES nên được tiến hành sàng lọc thường xuyên hơn.
1.4.2.Sinh bệnh học
Các nghiên cứu gần đây về phân tử và dịch tễ học đã chứng minh mối
liên hệ rõ rệt giữa virut sinh u nhú ở người (Human Papilloma virut) với các
tổn thương loạn sản (Dysplasia), ung thư xâm nhập CTC. Có nhiều bằng
chứng cho thấy có sự liên quan giữa UTCTC và nhiễm HPV [15]. Nhiễm
HPV được coi là nguyên nhân gây ra 95% trường hợp UTCTC [15],[20],[8].
Sự sao chép ADN, các sản phẩm protein của HPV cũng được nhận diện trong
UTCTC xâm nhập và tổn thương loạn sản nặng [15]. Hiện nay có khoảng hơn
100 nhóm HPV đã được nhận dạng, các nhóm 16, 18, 31, 33, 45 thường có
liên quan với các tổn thương loạn sản nặng và UTCTC xâm nhập. HPV nhóm
18 có liên quan với ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô kém biệt hoá
cũng như tỷ lệ di căn hạch và khả năng tái phát bệnh. Các nghiên cứu cho
thấy HPV nhóm 16 liên quan với ung thư biểu mô tế bào vảy sừng hoá, có tỷ
lệ tái phát thấp hơn. Do nhận thấy có mối liên quan rõ rệt giữa nhiễm HPV và
nguy cơ mắc UTCTC nên hiện nay đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện và
đã tìm ra vắcxin chống HPV nhóm 16,18 nhằm làm giảm sự nhiễm HPV liên
tục cũng như giảm các tổn thương loạn sản. Ngoài nguyên nhân nhiễm HPV
đã được chứng minh rõ rệt thì một số yếu tố nguy cơ khác cũng làm tăng khả
năng mắc UTCTC: Hút thuốc lá làm cho việc bị nhiễm HPV kéo dài hơn và
giảm khả năng khỏi so với người không hút thuốc. Nguy cơ mắc UTCTC
cũng tăng lên ở những phụ nữ sinh hoạt tình dục sớm, có nhiều bạn tình,


16


những người có thai sớm, đẻ nhiều, gái mại dâm. Hành vi sinh hoạt tình dục
với nhiều bạn tình của nam giới cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc UTCTC
ở bạn tình nữ. Các nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV thấp hơn ở
những cộng đồng có tục cắt bao qui đầu và tương ứng là tỷ lệ mắc UTCTC
cũng thấp ở phụ nữ. Ngược lại UTCTC hiếm gặp ở những phụ nữ không lập
gia đình, những người tu hành, những người có đời sống tình dục không mạnh
mẽ [15],[11],[12],[13].
1.4.3. Mô bệnh học
Trên đại thể chỉ phát hiện được các tổn thương ung thư CTC xâm lấn,
còn ung thư CTC tại chỗ hoặc vi xâm lấn chỉ phát hiện được bằng vi thể nhờ
nội soi sinh thiết.
* Đại thể: Ung thư thể xâm lấn biểu hiện lâm sàng bằng nhiều hình thái:
- Hình thái sùi: Các nụ sùi dễ rụng, chảy máu, dễ nhiễm khuẩn, hình thái
này thâm nhiễm ít và lan tràn chậm.
- Hình thái loét: Tổn thương có bờ lõm sâu xuống, bờ rắn, nền có nhiều
nụ nhỏ, nhiều mủ. Hình thái này thâm nhiễm và lan tràn sâu, các phần phụ và
hệ bạch huyết bị di căn nhanh.
- Thể thâm nhiễm: Ung thư ăn sâu vào lớp đệm trong khi đó mặt ngoài
cổ tử cung vẫn bình thường, nhưng cổ tử cung đã thay đổi thể tích. Loại này
lan tràn và di căn nhanh.
- Hình thái ở ống cổ tử cung: Tổn thương trong ống CTC, thời gian đầu
chẩn đoán khó vì mặt ngoài CTC hầu như không thay đổi, nhưng ung thư có
thể đã xâm lấn ra mô đệm.
* Vi thể
- Ung thư biểu mô vảy vi xâm nhập: Khi tổn thương ung thư phá hủy
màng đáy xâm nhập vào lớp đệm với chiều sâu <3mm (IA1); chiều sâu xâm
nhập ~ 3-5mm (IA2).


17


- Ung thư biểu mô vảy xâm nhập: Từ năm 1975 tổ chức y tế thế giới có
những phân loại tỉ mỉ, nhìn chung là có 3 loại chính [11],[12]
- Ung thư biểu mô tế bào vảy: Chiếm 90-95% gồm nhiều loại:
+ Ung thư biểu mô tế bào vảy sừng hóa: Loại tế bào to có thể tạo thành
cầu sừng tế bào đa dạng, tiên lượng tốt.
+ Ung thư biểu mô tế bào vảy không sừng hóa, gồm 2 loại:
→ Tế bào lớn: Có nhiều nhân chia, thường tiên lượng xấu
→ Tế bào nhỏ: Ít đa dạng, nhiều nhân chia.
+ Ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung

- Ung thư biểu mô tuyến chiếm 5-10% xuất hiện từ lỗ trong cổ tử cung lan ra lỗ
ngoài CTC

- Ung thư biểu mô tuyến – vảy là loại pha biểu hiện ung thư cả tế bào ung thư
biểu mô tuyến và biểu mô vảy. Loại này ít gặp.
Ngoài ra còn có ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng (dạng trung thậnclear cell adenocarcinoma)
1.4.4. Lâm sàng
- Triệu chứng cơ năng:
+ Giai đoạn sớm thường không hoặc có ít triệu chứng, có cảm giác thay
đổi bất thường không rõ ràng. Bệnh tiến triển có thể không có triệu chứng.
+ Thông thường triệu chứng cơ năng là ra máu âm đạo bất thường, ra
máu sau giao hợp ít hoặc nhiều.
+ Ra khí hư màu vàng nhạt hoặc nhày máu, đặc biệt có thể ra khí hư rất
hôi ở bệnh nhân có hoại tử nhiều, nếu ra máu nhiều bệnh nhân sẽ mệt mỏi và
có hội chứng thiếu máu.


18


+ Giai đoạn muộn có thể đau vùng khung chậu, đau khi giao hợp, đái
máu do u xâm lân rộng xung quanh.
+ Các triệu chứng do u lan rộng, xâm lấn cơ quan lân cận gây ra như rò
đường âm đạo – tiết niệu, rò âm đạo – trực tràng.
- Triệu chứng thực thể:
+ Khám bằng mỏ vịt: Phát hiện tổn thương và cho phép đánh giá khách
quan hình thái (khối u dạng sùi loét, dạng thâm nhiễm: Cổ tử cung ngắn, thể
loét, thể sùi), kích thước tổn thương.
+ Thăm âm đạo, trực tràng: Thấy được tổn thương ở CTC về mật độ,
mức độ xâm lấn lân cận như dây chằng rộng, dây chằng tử cung cùng,
Parametre. Thấy đường rò vào bàng quang, trực tràng, xâm lấn xuống âm đạo.
1.4.5. Cận lâm sàng
Soi cổ tử cung: Cho phép phát hiện tổn thương vi xâm nhập đồng thời sinh
thiết chính xác tổn thương này. Với tổn thương xâm nhập giúp xác định hình thái
tổn thương, mức độ lan rộng, có hay không xâm lấn cùng đồ, âm đạo.
Xét nghiệm tế bào học: Sự có mặt các tế bào ác tính trên nền các mảnh
vụn hoại tử, máu và các tế bào viêm là đặc trưng của ung thư xâm nhập.
Thường là có thể phân biệt được ung thư tế bào vảy hay ung thư tế bào tuyến
trừ trường hợp kém biệt hóa. Tỷ lệ âm tính giả của phiền đồ tế bào học có thể
lên đến 50% vậy trên những bệnh nhân có triệu chứng mà kết quả tế bào âm
tính thì nên xem xét thận trọng.
Sinh thiết: Sinh thiết thương tổn mù hoặc dưới hướng dẫn nội soi.
Mô bệnh học: Là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán xác định đồng thời phân
loại các typ mô bệnh học, mức độ xâm lấn tại chỗ.


19

Siêu âm ổ bụng, tiểu khung: Đánh giá sơ bộ mức độ xâm lấn hạch tiểu
khung, di căn các tạng trong ổ bụng.

XQ phổi: Sơ bộ đánh giá tổn thương di căn.
Chụp cắt lớp vi tính, đặc biệt MRI tiểu khung Nhằm đánh giá chính
xác mức độ xâm lấn của khối u tới Parametre, các tạng trong tiểu khung và hệ
hạch chậu, hạch bịt, hạch cạnh động mạch chủ.
Các xét nghiệm sinh hóa máu, công thức máu: Giúp cho quá trình lên
kế hoạch điều trị.
Xét nghiệm chất chỉ điểm ung thư SCC: Có giá trị theo dõi, đánh giá
kết quả điều trị và tái phát.
Chẩn đoán xác định: Dựa vào triệu chứng lâm sàng và mô bệnh học các
mẫu sinh thiết tại cổ tử cung.
Chẩn đoán giai đoạn: Áp dụng cách xếp giai đoạn của Hiệp hội chống ung
thư quốc tế (UICC 2013) và của Hiệp hội sản phụ khoa quốc tế (FIGO 2008).

TNM
Tx
T0
Tis
T1
T1A
T1A1
T1A2
T1B
T1B1
T1B2

FIGO

T2

II


T2A

IIA

0
I
IA
IA1
IA2
IB
IB1
IB2

Tổn thương ung thư
Không đánh giá được u nguyên phát
Không có bằng chứng về khối u nguyên phát
Ung thư tại chỗ
Ung thư khu trú tại cổ tử cung
Ung thư xâm lấn tiền lâm sàng
Xâm nhập dưới lớp màng đáy ≤3mm, rộng ≤ 7mm
Xâm nhập dưới màng đáy ≤ 5mm, rộng ≤ 7mm
Tổn thương khu trú ở CTC chưa lan đến các túi cùng
Đường kính lớn nhất của tổn thương ≤ 4cm
Đường kính lớn nhất của tổn thương >4cm
Ung thư xâm lấn quá CTC nhưng chưa lan đến khung
xương chậu hay chưa tới 1/3 dưới âm đạo.
Chưa xâm lấn Parametre



20

T2A1
T2A2
T2B

IIA1
IIA2
IIB

T3

III

T3A

IIIA

T3B

IIIB

T4

IVA

U có kích thước ≤ 4cm
U có kích thước > 4cm
Xâm lấn Parametre
Ung thư ăn lan đến thành khung chậu hoặc tới 1/3 dưới

âm đạo hoặc dẫn đến thận ứ nước.
Ung thư ăn lan đến 1/3 dưới âm đạo, không lan đến
khung chậu.
Ung thư lan đến thành khung chậu hoặc gây thận ứ nước
hoặc mất chức năng.
Ung thư xâm lấn bàng quang trực tràng hoặc lan ra ngoài
khung chậu.

Di căn hạch vùng (Gồm hạch quanh CTC, parametre, hạch hố bịt, hạch
chậu gốc, chậu trong, chậu ngoài, trước xương cùng)
Nx
N0
N1

Không đánh giá được di căn hạch vùng.
Không di căn hạch vùng
Di căn hạch vùng

Di căn xa
Mx
M0
M1

IVB

Không đánh giá được di căn xa.
Không có di căn xa
Di căn xa

Khi có di căn hạch ngoài khung chậu như hạch cạnh động mạch chủ

được xếp loại M1.
1.4.6.Điều trị: Các phương pháp điều trị ung thư CTC bao gồm: Phẫu thuật
triệt căn, xạ trị triệt căn, kết hợp xạ trị - phẫu thuật, kết hợp xạ trị- hóa trị.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị căn cứ vào giai đoạn bệnh, thể trạng bệnh
nhân, tuổi bệnh nhân, với mục tiêu thời gian sống thêm và chất lượng cuộc
sống sau điều trị là tốt nhất.
Điều trị phẫu thuật ung thư CTC
Phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ triệt căn là phương pháp điều trị chuẩn
cho UTCTC giai đoạn IB và IIA trong một thời gian dài. Phẫu thuật cắt tử
cung đơn thuần chỉ đem lại kết quả thấp, bởi vì nguy cơ xâm lấn UTCTC theo


21

dây chằng tử cung và hệ thống hạch tiểu khung. Năm 1905, Wertheim đã đề
ra phương pháp phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ triệt căn, đem lại hiệu quả điều
trị tương đối tốt. Năm 1944 Meigs đã cải biên phương pháp phẫu thuật cắt tử
cung toàn bộ triệt căn với diện cắt dây chằng rộng đủ rộng và nạo vét hạch
chậu gọi là kỹ thuật phẫu thuật Wertheim - Meigs. Kỹ thuật phẫu thuật này
thành một nguyên tắc điều trị và đã được áp dụng cho mọi giai đoạn từ sớm
nhất tới giai đoạn cuối. Với mỗi giai đoạn phẫu thuật có các mức cắt bỏ và
nạo vét hạch khác nhau [21],[22],[23].
Nguyên tắc phẫu thuật: Wertheim - Meigs gồm:
- Phẫu thuật cắt tử cung mở rộng đường bụng: Cắt tử cung toàn bộ; cắt
parametre; cắt dây chằng tử cung cùng; cắt ống âm đạo.
- Vét hạch chậu bịt 2 bên
Năm 1974 Piver Rutledge và Smith chia phẫu thuật cắt tử cung triệt căn
thành 5 typ:
Typ I: Cắt tử cung toàn bộ đơn thuần:
+ Cắt tử cung toàn bộ ngoài cân -mạc CTC

+ Cắt âm đạo sâu quá phần bám của CTC vào âm đạo.
+ Cắt parametre ở rìa ngoài của tử cung và âm đạo.
+ Không bóc tách niệu quản.
Typ II: Động mạch tử cung được cắt và thắt ngang qua chỗ bắt chéo với
niệu quản, việc cắt sâu xuống phần trên của âm đạo tùy thuộc vào tổn thương
âm đạo đi kèm, hoặc mức độ ung thư xâm lấn xuống âm đạo. Vét hạch chậu
tùy trường hợp.
Typ III: Tương tự mô tả của Meigs (1944) khi đó động mạch tử cung
được cắt và thắt sát gốc nguyên thủy. Do đó có thể cắt rộng được Parametre
hai bên, cắt âm đạo 1/3 trên, nạo vét hạch chậu.


22

Typ IV: Niệu quản được tách rời khỏi Parametre, tới sát chỗ vào bàng
quang, cắt cả động mạch bàng quang trên, Parametre hai bên được cắt sát
vách chậu, ¾ chiều dài âm đạo sẽ được cắt đi. Để cắt Parametre sát thành tiểu
khung phải phẫu tích động mạch chậu trong, đôi khi cả tĩnh mạch chậu trong.
Typ V: Thường được dùng trong các ca tái phát tại trung tâm tiểu khung,
thường đòi hỏi cắt rộng rãi hơn, cắt niệu quản cắm lại vào đáy bàng quang,
cắt một phần các tạng khác liên quan như bàng quang trực tràng.
Vét hạch: Phẫu thuật Wertheim khi khởi đầu tác giả chỉ lấy hạch chọn
lọc có nghĩa là chỉ lấy đi những hạch phì đại, sau đó Meigs vét hạch chậu có
hệ thống. Vét hạch có hệ thống là vét tất cả các hạch dọc theo:
+ Động mạch chậu ngoài
+ Động mạch chậu gốc
+ Động mạch chậu trong
+ Hạch vùng trước xương cùng
Một số tác giả còn tiến hành vét hạch dọc động mạch chủ bụng đến tận
tĩnh mạch thận trái, còn một số tác giả chỉ tiến hành vét hạch khi kiểm tra thấy

có hạch dưới tĩnh mạch chậu, hạch hố bịt.
Một số trung tâm còn đang nghiên cứu vét hạch theo bản đồ: Tức là sinh
thiết hạch cửa trong mổ để quyết định có vét hạch hay không (Tiêm Tc99
Mibi trước mổ vào CTC tại 2 hoặc 4 điểm sau đó tìm hạch trong mổ bằng đầu
dò Gamma Prob rồi sinh thiết tức thì hạch gác, nếu hạch di căn thì vét hạch
triệt căn, nếu hạch chưa di căn thì không cần vét hạch) thường chỉ định cho
những bệnh nhân ở giai đoạn IA, IB1 mà kích thước tổn thương nhỏ hơn 2cm
[22],[24].
Các biến chứng phẫu thuật
- Biến chứng trong mổ:


23

+ Chảy máu: Do diện phẫu tích lớn trong thời gian dài, các mạch hố
chậu bố trí bất thường.
+ Sốc: Hậu quả của cuộc mổ kéo dài, mất máu liên tục.
+Tổn thương cơ quan lân cận: Bàng quang hay trực tràng dễ bị tổn
thương trong quá trình bóc tách tổn thương ung thư. Đặc biệt niệu quản liên
quan dễ bị tổn thương đoạn 1/3 dưới.
- Biến chứng sau mổ
+ Rò niệu quản
+ Biến chứng của tình trạng chuyển dòng tiết niệu.
+ Bí đái: Bàng quang tụt xuống trong hố chậu làm nước tiểu bị ứ đọng
và dễ nhiễm khuẩn.
+ Tắc ruột
+ Nhiễm khuẩn dẫn tới huyết khối tắc mạch.
+ Hình thành nang bạch huyết, đây là biến chứng thường gặp nhất: Hiện
tượng túi bạch huyết tại hố chậu.
Lợi ích của phương pháp phẫu thuật:

- Có thể bảo tồn được buồng trứng nhất là ở phụ nữ trẻ, điều mà xạ trị không
làm được dù có nhiều tiến bộ về kỹ thuật.
- Có thể tránh các tổn thương do xạ trị gây ra.
- Theo dõi tái phát và điều trị tái phát sau khi phẫu thuật dễ dàng hơn so với
điều trị xạ trị triệt căn.
- Cho phép đánh giá chi tiết và chính xác các tổn thương của bệnh, tổn thương
tại chỗ, mức độ xâm lấn, các di căn hạch qua đó lựa chọn các phương pháp
điều trị và điều trị bổ trợ thích hợp.
Điều trị ung thư CTC giai đoạn IA: Để điều trị UTCTC giai đoạn IA
phụ thuộc vào nhu cầu sinh đẻ của người bệnh:
- Chỉ định điều trị:


24

Đối với phụ nữ không còn trẻ, không có nhu cầu sinh con:
+ Giai đoạn IA1: Cắt tử cung toàn bộ
+ Giai đoạn IA2: Cắt tử cung mở rộng (phẫu thuật Wertheim typ 2 + vét
hạch chậu)
Đối với phụ nữ trẻ, có nhu cầu sinh con:
+ Giai đoạn IA1: Khoét chóp CTC
+ Giai đoạn IA2: Khoét chóp CTC + vét hạch chậu hai bên.
Sau phẫu thuật kiểm tra bằng mô bệnh học diện cắt và hạch:
+ Nếu không còn ung thư diện cắt và hạch: Theo dõi
+ Còn ung thư tại diện cắt: Cắt tử cung toàn bộ.
+ Di căn hạch chậu: Xạ trị hệ hạch chậu 50-55Gy
Điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn IB và IIA
* Phương pháp phẫu thuật triệt căn áp dụng cho những trường hợp khối
u còn nhỏ:
- Chỉ định: Phụ nữ trẻ cần bảo tồn buồng trứng.

Kích thước u ≤ 2cm.
- Phương pháp phẫu thuật: Phương pháp Wertheim typ III
.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu


25

Tất cả bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn IA, IB1 được điều trị tại
bệnh viện Ung bướu Hà Nội từ 1/2011- 6/2016. Sau sàng lọc hồ sơ có 40
bệnh nhân được chọn phù hợp các tiêu chuẩn sau:
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học là ung thư cổ tử cung.
- Được soi cổ tử cung theo quy trình được Hội đồng khoa học Bệnh viện
thông qua.
- Được chụp MRI tiểu khung đánh giá mức độ lan rộng tổn thương.
- Ung thư CTC giai đoạn IA, IB1 theo phân loại FIGO 2008, chưa có di
căn hạch.
- Kích thước u ≤ 2 cm
- Được điều trị triệt căn bằng phương pháp phẫu thuật đơn thuần
Weitherm – Meigs typ II với giai đoạn IA và typ III với giai đoạn IB1, tại
bệnh viện Ung bướu Hà Nội từ 1/2011- 6/2016; diện cắt được làm sinh thiết
tức thì.
- Chưa can thiệp trước đó.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
- Có bệnh ung thư khác hoặc bệnh nội khoa nặng kèm theo.
- Hồ sơ lưu trữ không đầy đủ.

- Các trường hợp ung thư tại cổ tử cung nhưng mô bệnh học thuộc loại di
căn từ nơi khác đến, ung thư CTC loại sarcom, lympho, melanoma.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả phân tích hồi cứu. Sử dụng tư liệu trong hồ sơ bệnh
án, và các lần khám lại, thông tin thu thập theo mẫu bệnh án thiết kế sẵn
2.2.2. Mẫu nghiên cứu


×