Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

KHẢO sát rối LOẠN ACID URIC máu ở BỆNH NHÂN lọc MÀNG BỤNG LIÊN tục NGOẠI TRÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.69 KB, 83 trang )

11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lọc màng bụng là một trong ba phương pháp điều trị thay thế thận suy ở
bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn cuối (BTMGĐC) [1]. Đây là phương pháp
sử dụng chính màng bụng của bệnh nhân làm màng lọc máu [2]. Ra đời từ
những năm 70 của thế kỷ XX, phương pháp này ngày càng được chú ý, đặc
biệt tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo dữ liệu hàng năm của Hoa Kỳ
năm 2012, tỷ lệ bệnh nhân lọc màng bụng tương đối cao tại Hồng Kông (73%
bệnh nhân BTMGĐC), Mexico (50% bệnh nhân BTMGĐC).
Đầu những năm 2000, lọc màng bụng bắt đầu được đưa vào sử dụng tại
Việt Nam để điều trị cho bệnh nhân BTMGĐC. Đến năm 2006 có khoảng 461
bệnh nhân lọc màng bụng tại các trung tâm ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội [3]. Hiện nay, lọc màng bụng đang tiếp tục được phát triển tại Việt Nam
với số lượng khoảng 1700 bệnh nhân (năm 2014).
Trên thế giới có nhiều phương thức lọc màng bụng, mỗi phương thức
thích hợp cho từng đối tượng bệnh nhân khác nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam
hầu hết bệnh nhân được sử dụng phương thức lọc màng bụng liên tục ngoại
trú với ưu điểm thao tác dễ dàng, không phải dùng máy, bệnh nhân ít phải đến
trung tâm lọc máu [4], hiệu quả điều trị tốt và chi phí chấp nhận được [5].
Acid uric máu là một yếu tố ngày càng được quan tâm trong nhiều
chuyên ngành y học. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng tăng acid uric có liên
quan với nguy cơ tim mạch ở cộng đồng và ở bệnh nhân bệnh thận mạn [6],
[7], liên quan với tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân thận nhân tạo [8], [9], cũng như
có thể gây tổn thương chức năng nội mạc [10], [11] và gây giảm nhanh chức
năng thận tồn dư [12], dẫn đến giảm chất lượng của lọc màng bụng. Do đó
acid uric máu cũng là một yếu tố cần được quan tâm kiểm soát ở bệnh nhân


22


bệnh thận mạn chưa hoặc đang được điều trị thay thế thận. Trên thế giới đã có
nhiều nghiên cứu về acid uric máu ở bệnh nhân lọc màng bụng, tuy nhiên ở
Việt Nam còn tương đối ít các nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài với hai mục tiêu:
1

Khảo sát rối loạn nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân lọc màng bụng
liên tục ngoại trú.

2

Tìm hiểu một số yếu tố liên quan với nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân
lọc màng bụng liên tục ngoại trú.


33

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1 . BỆNH THẬN MẠN VÀ BỆNH THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI
Năm 2002, định nghĩa và phân loại hệ thống cho bệnh thận mạn tính đã
được trình bày bởi hiệp hội Thận học Hoa Kỳ (NKF KDOQI - The National
Kidney Foundation Disease Outcomes Quality Initiative), năm 2004 định
nghĩa và phân loại được bổ sung và trình lại bởi hội Thận học quốc tế và năm
2012 đã được hội đồng về cải thiện tiên lượng bệnh thận toàn cầu (Kidney
Disease: Improving Global Outcomes - KDIGO) bổ sung [13].
1.1.1. Định nghĩa bệnh thận mạn
Bệnh thận mạn được xác định khi có một trong hai tiêu chuẩn
Có những tổn thương cấu trúc và chức năng thận kéo dài > 3 tháng, kèm
theo hoặc không kèm theo giảm mức lọc cầu thận được biểu hiện bằng:

- Tổn thương tại nhu mô thận được phát hiện qua sinh thiết thận.
- Có bằng chứng của tổn thương thận qua xét nghiệm máu (hội chứng
ống thận), nước tiểu (protein niệu) hoặc bằng chẩn đoán hình ảnh.
Và/ hoặc
Mức lọc cầu thận < 60ml/phút/1.73m2 da, kèm hoặc không kèm bằng
chứng của tổn thương thận.
Bệnh nhân sau ghép thận cũng được xếp loại là mắc bệnh thận mạn tính
và được thêm ký hiệu T (Transplantation) trong phân loại.
1.1.2. Các giai đoạn bệnh thận mạn
Mức lọc cầu thận là chỉ số tốt nhất đánh giá chức năng thận. Năm 2012,
hội Thận học Hoa Kỳ hướng dẫn chia bệnh thận mạn thành 5 giai đoạn dựa
vào sự giảm mức lọc cầu thận, đồng thời đưa ra khuyến cáo về hành động
khác nhau cho mỗi giai đoạn của bệnh thận mạn. Mức lọc cầu thận có thể
được tính bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên thường sử dụng
công thức ước lượng MDRD hoặc tính mức lọc cầu thận qua nồng độ
Creatinin huyết thanh (Công thức Cockcroft – Gault)


44



Công thức tính mức lọc cầu thận theo MDRD:
MLCT (ml/ph/1,73m2) = 186,3 x (creatinin máu)-1,154 x (tuổi)-0,203
Nhân với 0,742 nếu là nữ. Tuổi tính theo năm
Creatinin máu tính theo mg/dl. Trong đó 1mg/dl~88,5µmol/l creatinin



Công thức Cockcroft – Gault

Hệ số k = 1 (đối với nam) và k = 0,85 (đối với nữ)
Ccre: Nồng độ Creatinin máu (µmol/l)
W: Trọng lượng cơ thể (kg)
Bảng 1.1. Các giai đoạn bệnh thận mạn [13]
MLCT
Giai đoạn
Mô tả
(ml/ph/1.73m²
Hướng xử trí
)
Chẩn đoán xác định và
Tổn thương thận
điều trị các bệnh nền phối
với MLCT bình
hợp, làm chậm sự tiến triển
Giai đoạn 1
≥ 90
thường hoặc
của bệnh thận và giảm
tăng
nguy cơ tiến triển bệnh lý
tim mạch.
Tương tự như giai đoạn 1
MLCT giảm
Giai đoạn 2
60 – 90
và ước tính sự tiến triển
nhẹ
của bệnh thận.
MLCT giảm

Đánh giá và tiến hành điều
Giai đoạn 3
30 – 59
trung bình
trị các biến chứng
Chuẩn bị kiến thức cho
MLCT giảm
Giai đoạn 4
15 – 29
bệnh nhân về vấn đề điều
nặng
trị thay thế thận.
Cần được điều trị thay thế
thận suy. Bệnh nhân được
Giai đoạn 5
MLCT giảm
áp dụng một trong các biện
(giai đoạn
< 15
rất nặng
pháp điều trị thay thế lâu
cuối)
dài như lọc máu hoặc ghép
thận.


55

1.1.3. Các phương pháp điều trị thay thế bệnh thận mạn giai đoạn cuối
Hiện nay trên thế giới có 3 phương pháp điều trị thay thế thận ở bệnh nhân

bệnh thận mạn giai đoạn cuối
- Thận nhân tạo chu kỳ: máu của bệnh nhân được đưa qua một hệ thống
máy ngoài cơ thể, ở đó chất độc của cơ thể được thải loại xuyên qua một màng
bán thấm. Bệnh nhân thường được lọc máu định kỳ tại trung tâm lọc máu.
- Lọc màng bụng chu kỳ (thẩm phân phúc mạc chu kỳ): trao đổi giữa
dịch lọc được đưa vào ổ bụng và máu thông qua màng bụng. Bệnh nhân có
thể tự thực hiện tại nhà hay nhờ vào máy tự động.
- Ghép thận: ghép một thận của người khác vào cơ thể bệnh nhân kèm theo
việc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch suốt đời để chống thải ghép thận. Thận
ghép có thể lấy từ người cho thận còn sống hoặc từ người cho đã chết não.
1.2 . LỌC MÀNG BỤNG
1.2.1. Định nghĩa
Lọc màng bụng là phương pháp sử dụng màng bụng của chính người
bệnh như một màng bán thấm để đào thải một số sản phẩm của quá trình
chuyển hóa các chất, trong đó có ure, creatinin và một số chất điện giải ra
ngoài cơ thể.
1.2.2. Giải phẫu và sinh lý vận chuyển chất qua màng bụng
Màng bụng có hai lá: lá thành và lá tạng. Lá tạng bao bọc các tạng ở
bụng và tiểu khung, lá thành bao phủ mặt trong thành bụng, chậu hông và cơ
hoành. Khoang màng bụng là một khoang ảo có bề mặt là tế bào trung biểu mô
rồi đến mô liên kết, tế bào, mao mạch. Ở người lớn, diện tích của màng bụng
khoảng 22.000 cm2, lớn hơn so với diện tích của cầu thận (khoảng 18.000 cm2).
Lưu lượng máu đến màng bụng khoảng 60 ml/phút. Do màng bụng có
các lỗ lọc với nhiều kích thước khác nhau nên màng bụng như một máy lọc,
cho phép một số chất qua lại. Màng bụng là hàng rào tác động trực tiếp đến sự
vận chuyển chất tan và nước với 3 loại kích thước lỗ lọc:


66


- Lỗ lớn: có đường kính từ 20 – 40 nm, một số các phân tử protein được
vận chuyển qua lỗ này bằng đối lưu.
- Lỗ nhỏ: có đường kính từ 4 – 6 nm, cho một số các chất hòa tan có trọng
lượng phân tử nhỏ như ure, creatinin, acid uric, natri, kali…đi qua
- Lỗ siêu nhỏ: có đường kính < 0,8 nm chỉ cho nước đi qua.
1.2.3. Nguyên lý của lọc màng bụng
Sự vận chuyển các chất qua màng bụng gồm hai cơ chế chủ yếu: khuếch
tán và siêu lọc.
- Cơ chế lọc do khuếch tán: Nhờ chênh lệch nồng độ giữa một bên là máu,
một bên là dịch lọc. Các chất có nồng độ cao hơn ở máu và có khả năng
khuếch tán qua màng (ure, creatinin, acid uric, kali, gardenal…) thì được
chuyển sang khoang ổ bụng có chứa dịch lọc. Ngược lại, những chất tương tự
có nồng độ cao hơn ở dịch lọc lại được chuyển sang máu. Sự chênh lệch nồng
độ của một chất nào đó ở hai phía màng bụng càng lớn thì tốc độ vận chuyển
của chất đó từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp sẽ càng lớn.
+ Màng bụng là một màng bán thấm chỉ cho các tiểu phân tử nhỏ (ure,
creatinin, phosphat và một số chất độc) đi qua chứ không cho các phân tử lớn
(protein, albumin, hồng cầu…) đi qua.
+ Sự trao đổi này còn phụ thuộc vào diện tích bề mặt màng bụng, sự
tưới máu của màng bụng và số lượng lỗ lọc trên một đơn vị diện tích bề
mặt của màng.
- Sự siêu lọc nhờ áp lực thẩm thấu
+ Nước được rút ra khỏi cơ thể dưới ảnh hưởng của sự chênh lệch áp lực
thẩm thấu. Sự chênh lệch áp lực thẩm thấu này được tạo ra do sự hiện diện của
glucose với nồng độ cao trong dịch lọc. Sự di chuyển của glucose vào máu
chậm hơn các chất điện giải (natri, clo). Vì vậy, dịch lọc màng bụng vẫn ưu
trương hơn so với huyết tương và dẫn đến rút nước từ huyết tương ra dịch lọc
màng bụng. Sự chênh lệch nồng độ của glucose tăng nhiều ở giai đoạn đầu, sau
đó giảm dần trong quá trình lọc nên hiệu quả rút nước giảm dần theo thời gian.



77

+ Sự siêu lọc của màng bụng phụ thuộc vào:





Chênh lệch về nồng độ của các chất tạo áp lực thẩm thấu như glucose
Diện tích bề mặt màng bụng.
Tính thấm của màng bụng .
Chênh lệch áp lực thuỷ tĩnh giữa mao mạch màng bụng và trong ổ
bụng: sự chênh lệch càng lớn thì khả năng rút nước càng cao. Bình
thường áp lực ở mao mạch màng bụng khoảng 20mmHg, cao hơn áp
lực trong ổ bụng (7mmHg).

1.2.4. Dịch lọc màng bụng
Từ khi phương pháp lọc màng bụng được sử dụng đến nay đã có nhiều
cải tiến trong pha dịch lọc.
Dịch lọc màng bụng phải đáp ứng được một số yêu cầu sau:
- Thích hợp để điều chỉnh các thay đổi về hoá sinh của dịch cơ thể, có hệ
thống đệm để điều chỉnh rối loạn toan - kiềm của máu.
- Thích hợp để điều chỉnh thể tích dịch cơ thể như giảm phù hoặc phòng
ngừa sự hấp thụ nước từ dịch lọc vào máu gây ngộ độc nước.
- Dịch lọc màng bụng phải vô khuẩn, không độc, không kích thích,
không gây phản ứng và phải hoà hợp sinh học với màng bụng [4].
Bảng 1.2. Thành phần các chất trong dịch lọc màng bụng
Loại dịch
Glucose (g/L)

Natri (mmol/L)
Calci (mmol/L)
Magie (mmol/L)
Clo (mmol/L)
Lactat (mmol/L)
Áp lực thẩm thấu (Osmol/kg)
pH


1,5%
15
132
1,75
0,75
102
35
304
5,5

2,5%
25
132
1,75
0,75
102
35
390
5,5

4,25%

42,5
132
1,75
0,75
102
35
480
5,5

Glucose trong dịch lọc tạo áp lực thẩm thấu cho siêu lọc. Tuy nhiên,
glucose có một số nhược điểm: dịch chứa glucose cần có độ pH thấp để
tránh thuỷ phân glucose trong quá trình vô khuẩn bằng nhiệt, nồng độ cao


88

glucose có thể dẫn đến glycosyl hoá protein ảnh hưởng xấu đến cấu trúc và


chức năng màng bụng [14].
Natri máu là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến huyết áp và tình trạng dịch.
Nồng độ natri trong dịch lọc từ 132 mmol/L phù hợp với nồng độ natri



trong cơ thể do đó nó không làm giảm hay tăng natri.
Nồng độ calci trong dịch lọc là 1,75 mmol/L tạo nên bilan (+) với dịch lọc
1,5%; bilan trung tính với dịch 2,5% và bilan (-) với dịch lọc 4,25%. Dịch




càng ưu trương thì vận chuyển calci cùng với siêu lọc càng nhiều.
Trong dịch lọc màng bụng không có kali, do đó kali từ huyết tương sang dịch



lọc (vận chuyển 38 - 48mmol kali/ngày), vì vậy không gây tăng kali máu.
Hệ thống đệm trong dịch lọc là hệ lactat. Acetat không được dùng vì nguy
cơ làm giảm hiệu quả lọc. Hệ đệm chuẩn chứa một nửa L-lactat và một
nửa D-lactate. Khi hấp thu L-lactate được chuyển hoá bởi lactat
dehydrogenase và D-lactat được chuyển hoá bởi aspecific dehydrogenase.
Tốc độ và tỷ lệ chuyển hoá cao nên làm giảm nguy cơ tăng lactat máu.
Gần đây người ta nghiên cứu thay thế lactat bằng pyruvat với ưu điểm
giảm thuỷ phân qua con đường yếm khí. Cả pyruvat và lactat đều là chất
đệm sinh lý. Hệ thống đệm bằng bicacbonat cho một dung dịch trung tính
dễ hoà hợp sinh học với tế bào trung biểu mô của màng bụng [15] nhưng
khó đóng gói do bicacbonat kết hợp với calci tạo thành calci bicacbonat
kết tủa.

1.2.5. Các hình thức lọc màng bụng
- Lọc màng bụng ngoại trú liên tục (Continuous Ambulatory Peritoneal
Dialysis - CAPD): bệnh nhân được thay dịch 3 - 5 lần/ngày (thông thường 4
lần/ngày), mỗi lần đưa vào ổ bụng 1 - 3 lít dịch (thông thường 2 lít). Ổ bụng
luôn có dịch để thực hiện quá trình trao đổi chất và nước. Dịch lọc được đưa
vào ổ bụng, lưu 4 - 6 giờ, sau sự trao đổi các thành phần trong dịch lọc và máu,


99

dịch có chứa các chất thải được dẫn lưu vào túi chứa dịch ra theo nguyên lý

trọng lực, không cần máy bơm dịch.
Đây là phương pháp thông dụng nhất của lọc màng bụng (chiếm xấp xỉ
90% trên toàn thế giới và 100% ở bệnh viện Bạch Mai nói riêng và Việt Nam
nói chung) vì ưu điểm hiệu quả điều trị tốt, bệnh nhân ít phải đến trung tâm
lọc máu, không cần sử dụng máy, thao tác dễ, chi phí chấp nhận được [5]
- Lọc màng bụng liên tục bằng máy (Continuous Cycling Peritoneal
Dialysis - CCPD): sử dụng máy chu kỳ tự động để tiến hành 3 - 5 lần lọc
trong đêm khi bệnh nhân ngủ. Buổi sáng bệnh nhân tiến hành một lần lọc với
thời gian lưu trữ kéo dài suốt cả ngày.
- Lọc màng bụng gián đoạn về đêm (Nocturnal intermitten Peritoneal
Dialysis - NIPD): thay dịch nhanh trong suốt ban đêm và ổ bụng được giữ
khô trong suốt ban ngày. Loại lọc màng bụng này rất thích hợp với bệnh nhân
màng bụng có tính thấm cao và chức năng thận chưa suy hoàn toàn.
- Lọc màng bụng ngắt quãng (Intermittent Peritoneal Dialysis - IPD)
được thực hiện cho bệnh nhân cấp tính hoặc mạn tính 3 lần/tuần trong 24h
thay 20 - 60 lít dịch lọc.
- Lọc màng bụng theo kiểu thủy triều (Tidal Peritoneal Dialysis - TPD):
40 - 60% thể tích trong lần lọc bằng máy đầu tiên để lại trong ổ bụng. Sự trao
đổi, thay thế chỉ diễn ra ở phần còn lại của thể tích.
Những chế độ lọc ngắt quãng thường cần nhiều dịch với thời gian ngâm
dịch ngắn để loại bỏ dịch và chất tan tốt hơn.
1.2.6. Chỉ định và chống chỉ định
1.2.6.1. Chỉ định
- Suy thận cấp:


10
10

Vô niệu, phù

Ure máu > 30mmol/l
• Creatinin máu > 800mmol/l
• Kali máu > 6,5mmol/l
• Natri máu < 120mmol/l
• Kiềm dư < 10mmol/l
- Ngộ độc cấp: đặc biệt do barbiturate



- Suy thận mạn: khi MLCT < 15ml/phút
1.2.6.2. Chống chỉ định:
- Tuyệt đối:


Viêm phúc mạc có dính



Màng bụng mất khả năng siêu lọc



Thoát vị (cơ hoành, rốn, thành bụng) không hồi phục sau phẫu thuật.

- Tương đối


Viêm đại tràng




Viêm ruột



Thị lực kém



Rối loạn tâm thần



Một số tình trạng trong ổ bụng (đã phẫu thuật, thận đa nang, khối u)

1.2.7. Ưu, nhược điểm
1.2.7.1. Ưu điểm
- Y học:
+ Thích hợp với bệnh nhân có bệnh tim mạch do huyết động ổn định,
giảm các rối loạn nhịp, kiểm soát tốt huyết áp [16]
+ Duy trì chức năng thận còn lại lâu hơn [17]
+ Giảm nguy cơ mất máu so với thận nhân tạo


11
11

+ Không cần dùng thuốc chống đông
- Xã hội
+ Tự thực hiện được

+ Kỹ thuật đơn giản, đào tạo nhanh
+ Giá thành thấp hơn so với lọc máu, có thể thực hiện được tại nhà [18]
1.2.7.2. Nhược điểm
- Y học
+ Màng bụng bị tổn thương
+ Viêm màng bụng
+ Mất nhiều protein qua dịch lọc có thể gây thiểu dưỡng [16]
+ Tăng áp lực trong ổ bụng
+ Có thể ứ trệ nước, điện giải
- Xã hội
+ Bắt buộc thực hiện hàng ngày
+ Ảnh hưởng đến môi trường, gia đình
+ Ảnh hưởng đến lao động và công tác
1.2.8. Biến chứng của LMB
- Biến chứng sớm:
+ Đau bụng
+ Chảy máu trong ổ bụng
+ Thủng tạng
+ Biến chứng liên quan đến catheter: chảy máu, nhiễm trùng, dò dịch,
di chuyển catheter…[19]
+ Tắc dịch vào, ra
+ Nhiễm khuẩn: viêm màng bụng hoặc nhiễm khuẩn huyết.
- Biến chứng muộn
+ Nhiễm trùng: nhiễm trùng chân catheter, nhiễm trùng đường hầm,
viêm màng bụng, nhiễm trùng máu.
+ Ứ nước, tăng thể tích tuần hoàn
+ Rối loạn điện giải: tăng hoặc giảm Natri, Kali
+ Thoát vị cơ hoành, thoát vị thành bụng, phù bộ phận sinh dục ngoài.
+ Đau lưng, đau bụng, xơ hoá phúc mạc.
+ Tim mạch: tăng huyết áp, suy tim trái, bệnh mạch vành, viêm động

mạch chi dưới, phình động mạch chủ…
+ Suy dinh dưỡng: đây là nguy cơ chính của LMB lâu dài [16]


12
12

+ Rối loạn chuyển hoá calci, phospho, loãng xương.
+ Amylose các cơ quan, viêm đa rễ thần kinh, biến loạn tâm thần
1.3 . LIÊN QUAN ACID URIC VỚI BỆNH THẬN
Acid uric có trọng lượng phân tử 169 dalton, là sản phẩm cuối cùng của
quá trình thoái biến các bazơ purin (adenin và guanidin) nội sinh hoặc ngoại
sinh nhờ tác dụng của men xanthin dehydrogenase từ gan, ruột. Purin ngoại
sinh đóng vai trò quan trọng trong việc tạo acid uric. Acid uric là một acid yếu
nên thường bị ion hoá thành muối urat hoà tan trong huyết tương. Phần lớn
acid uric trong máu ở dạng tự do, chỉ có khoảng < 4% gắn với protein huyết
thanh.

1.3.1. Chuyển hoá của acid uric
Purine mới được tổng hợp
(300 - 600mg/ngày)
Purine từ nguồn thức ăn
(600mg/ngày)

Các Purine nucleotid

Các Nucleotid

Các Base purine


Nước tiểu

Acid Uric

(400 - 1000mg/ngày)

(1200mg/ngày)

Ruột
(100 - 200mg/ngày)


13
13

Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển hóa acid uric: thể tích dịch ngoại
bào, số lượng và pH nước tiểu, lượng urat và hormon, một số thuốc, khối
lượng vận động và chế độ ăn.
1.3.1.1. Các nguồn chính tạo acid uric trong cơ thể
- Thoái giáng các chất có nhân purin từ nguồn thức ăn (600 mg/ngày).
- Từ nguồn acid uric nội sinh do quá trình thoái biến các acid nucleic
của cơ thể (300 - 600 mg/ngày).
- Tổng hợp các purin theo con đường nội sinh. Trong đó acid uric được
tạo ra do quá trình thoái giáng chiếm khoảng 20%, 80% là do tổng hợp.
1.3.1.2. Các con đường thải trừ chính của acid uric trong cơ thể
- Qua nước tiểu (400 - 1000mg/ngày): Ở thận, acid uric được lọc qua
cầu thận, 95% lượng lọc được tái hấp thu ở các ống lượn gần, rồi được bài
xuất tích cực ở các ống lượn xa. Acid uric hoà tan trong nước tiểu hơn trong
nước. pH nước tiểu ảnh hưởng đến sự hoà tan acid uric. pH càng kiềm càng
thuận lợi cho việc thải acid uric và ngược lại nước tiểu càng toan càng khó

khăn cho việc đào thải acid uric.
Công thức tính hệ số thanh thải acid uric
Nồng độ acid uric nước tiểu (mg/dL) * Thể tích nước tiểu (ml/ph)
Nồng độ acid uric huyết thanh (mg/dL)
Hệ số thanh thải này cho phép đánh giá khả năng thải trừ acid uric của
từng cá thể
Hệ số thanh thải acid uric phụ thuộc vào:


Mức lọc cầu thận



Khả năng tái hấp thu của các ống thận gần



Khả năng bài xuất của các ống thận xa

- Qua đường tiêu hóa (100 - 200mg/ngày): mặc dù đây là con đường
thải trừ yếu, tuy vậy có thể thấy acid uric trong dịch mật, dịch vị, và các dịch
tiết của ruột.
1.3.2. Nguyên nhân thay đổi nồng độ acid uric máu


14
14

Bình thường lượng acid uric trong cơ thể người luôn được duy trì ở
mức ổn định do quá trình tổng hợp và thải trừ acid uric luôn cân bằng.

Giá trị bình thường [20]: Nam: 202 - 416µmol/l (3,4 - 7mg/dl)
Nữ: 143 - 399 µmol/l (2,4 - 6,7mg/dl)
1.3.2.1. Nguyên nhân gây giảm nồng độ acid uric máu
-

Hoà loãng máu

-

Hội chứng tiết hormone bài niệu không thích hợp (SIADH)

-

Thiếu enzym Xanthin oxydase

-

Tổn thương các ống lượn gần

-

Hội chứng Fanconi

-

Các thuốc: benzbromaron, allopurinol, probenecid, cortison, salicylat
phenilbutazon, acid ascorbic…

-


Bệnh Wilson, Celiac, Hodgkin…

-

To đầu chi
1.3.2.2. Nguyên nhân tăng nồng độ acid uric máu
Bảng 1.3. Nguyên nhân gây tăng nồng độ acid uric máu
Tăng sản xuất acid uric
1. Tiên phát.
2. Phá hủy tổ chức (sau
hóa, xạ trị)
3. Gia tăng chuyển hóa
tế bào (Lơxêmi cấp, u
lympho).
4. Thiếu máu tan máu
(sốt rét, hồng cầu hình
liềm, thiếu G6PD).
5. Thức ăn nhiều purin.
6. Béo phì
7. Nhịn đói.

Giảm đào thải qua thận
1. Suy thận.
2. Nghiện rượu cấp
3. Tổn thương ống lượn
xa.
4. Toan lactic.
5. Suy tim ứ huyết.
6. Thuốc gây giảm thải
acid uric qua nước tiểu

- Lợi tiểu
- Liều thấp: Aspirin,
probenecid,
phenylbutazon

Nguyên nhân khác
1. Tăng bạch cầu đơn
nhân nhiễm trùng cấp.
2. Nhiễm độc thai nghén
và tiền sản giật.
3. Suy cận giáp trạng
4. Suy giáp
5. Nhiễm độc
6. Chấn thương


15
15

1.3.3. Acid uric và tổn thương các cơ quan
1

Một số cơ chế bệnh sinh của acid uric lên các cơ quan
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, mối tương quan giữa bệnh gút với tăng huyết

áp, đái tháo đường và bệnh thận cũng như các bệnh lý tim mạch khác đã được
biết đến. Các tác giả Mahomed F. A., Haig A. M. và Davis N. S. là những
người đầu tiên đưa ra giả thuyết tăng acid uric gây ra tăng huyết áp và bệnh
thận [21]. Cho đến nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu đánh giá
mối tương quan giữa acid uric với các biến cố tim mạch bao gồm tăng huyết

áp, hội chứng chuyển hóa, bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não, tiền sản giật
và cả bệnh thận [22], [23]. Một số cơ chế bệnh sinh của acid uric lên các cơ
quan được biết đến gồm:
- Tế bào cơ trơn mạch máu và tế bào cơ tim tổng hợp và phóng thích
adenosine làm giãn tế bào cơ trơn mạch máu và giãn tiểu động mạch, đặc biệt
khi có tình trạng thiếu oxy hoặc thiếu máu mô.
Tế bào cơ trơn mạch máu trong tim tổng hợp adenosine tại chỗ và nhanh
chóng bị thoái giáng thành acid uric do tác dụng của lớp nội mạc. Nhờ nồng
độ pH thấp ở khoảng gian bào và điện thế âm ở màng tế bào nên acid uric
được hình thành sẽ vào ngay trong lòng mạch.
Khi có thiếu máu cục bộ cũng làm gia tăng hoạt động oxide hóa xanthin
và tổng hợp acid uric, do đó tăng acid uric có thể là một dấu ấn của tình trạng
thiếu máu cơ tim. Mặc dù vậy cơ chế bệnh sinh của acid uric trên hệ tim mạch
còn chưa rõ, trong đó tăng acid uric có liên quan đến những ảnh hưởng không
tốt trên: chức năng lớp nội mạc mạch máu, sự oxide hóa, sự kết dính tiểu cầu,
sự xuất huyết và kết tụ [24], [25].
- Acid uric thúc đẩy oxide hóa C-LDL trong tiến trình xơ vữa động
mạch, kích thích kết dính bạch cầu hạt vào lớp tế bào nội mạch và giải phóng
các gốc tự doperoxide và superoxide. Do đó acid uric gây tác động xấu đến


16
16

lớp nội mạc thông qua hoạt hóa bạch cầu và tăng sự tương quan giữa acid uric
với nồng độ chất gây viêm. Acid uric đi qua tế bào nội mô đã bị rối loạn chức
năng sẽ lắng đọng tinh thể bên trong mảng xơ vữa. Những tinh thể này gây ra
phản ứng viêm tại chỗ và hình thành mảng xơ vữa, lắng đọng tinh thể càng
nhiều khi nồng độ acid uric càng cao [25].
- Vai trò của acid uric trong rối loạn chức năng nội mạc và đáp ứng viêm

toàn thân: trong thực nghiệm khi truyền acid uric vào cơ thể người gây rối
loạn chức năng nội mạc và allopurinol cải thiện chức năng lớp nội mạc ở bệnh
nhân suy tim hoặc đái tháo đường. Acid uric kích thích bạch cầu tạo cytokine
và tế bào cơ trơn mạch máu tạo chemokin. Điều này gợi ý vai trò trung gian
của acid uric và xanthin oxidase trong đáp ứng viêm toàn thân.
1.3.3.2. Một số bệnh lý liên quan đến acid uric:
- Tăng huyết áp: khoảng ¼ bệnh nhân tăng huyết áp có tăng acid uric
máu và tăng acid uric máu không triệu chứng là yếu tố độc lập gia tăng nguy
cơ tăng huyết áp. Bệnh nhân tăng huyết áp có sự giảm dòng máu đến thận làm
tăng hấp thu urat. Ngoài ra, tăng huyết áp gây ra bệnh vi mạch làm thiếu máu
mô tại chỗ dẫn đến tăng lactat máu và do đó ngăn bài tiết urat ở ống lượn gần,
đồng thời làm tăng tổng hợp acid uric bởi ATP bị thoái giáng thành adenin và
xanthin cũng như có sự tăng tạo xanthine oxidase.
- Bệnh mạch vành: nồng độ acid uric tăng cao ở nhóm bệnh nhân bệnh
mạch vành so với người khỏe mạnh. Mối liên quan được giải thích theo 2
cách như sau:
+ Tăng acid uric là hậu quả của quá trình bệnh lý: acid uric có hoạt tính
chống oxid hóa do đó ở người bệnh tim mạch sẽ gia tăng acid uric để chống lại
peroxid lipid, vì thế tăng acid uric được giải thích là hậu quả của quá trình bệnh lý.
+ Ngược lại nếu giải thích ở phương diện tăng acid uric là nguyên nhân
gây nên bệnh tim mạch: acid uric ảnh hưởng lên chức năng lớp nội mạc mạch


17
17

máu, oxide hóa LDL và peroxidelipid vì vậy tăng kết dính tiểu cầu, tạo huyết
khối gây ra các bệnh lý tim mạch. Acid uric cao kích thích phóng thích các
gốc tự do, hoạt hóa các tế bào viêm và sự kết dính phân tử do quá trình viêm
gây tổn thương lớp nội mạc mạch máu. Cơ chế này được khẳng định lại bởi

những nghiên cứu trên bệnh nhân suy tim mạn: có mối tương quan acid uric
và phản ứng viêm mạn và với CRP, là yếu tố quan trọng trong nhồi máu cơ
tim, đột quỵ và tử vong do mạch máu.
- Suy tim: acid uric là yếu tố nguy cơ tim mạch và có giá trị tiên đoán tử
vong ở bệnh nhân suy tim. Tăng acid uric có giá trị tiên đoán tử vong cũng
như tiên đoán xuất hiện các biến cố tim mạch ở bệnh nhân suy tim hoặc bệnh
nhân bệnh mạch vành [26]. Tăng acid uric máu là yếu tố dự hậu xấu cho suy
tim trung bình và nặng, tuy nhiên tăng acid uric có liên quan đến độ nặng của
suy thận ở nhóm bệnh nhân này, do đó khó mà phân định một cách rõ ràng vai
trò của suy thận hay vai trò của tăng acid uric ảnh hưởng đến tiên lượng trên
nhóm bệnh nhân này.
- Hội chứng chuyển hóa và đái tháo đường: acid uric đóng vai trò quan
trọng trong hội chứng chuyển hóa. Trước đây sự tăng acid uric trong hội
chứng chuyển hóa nghĩ là do cường insulin, bởi vì insulin làm giảm tiết acid
uric ở thận. Tuy nhiên tăng acid uric thường xuất hiện trước cường insulin,
béo phì và đái tháo đường.
- Bệnh lý liên quan đến giảm acid uric: khi acid uric giảm thấp có thể
ảnh hưởng đến các bệnh thoái hóa thần kinh. Do đặc tính bảo vệ thần kinh
nên một số giả thuyết đề nghị làm tăng acid uric trong quá trình điều trị bệnh
đa xơ cứng (MS), tổn thương tủy sống. Thực nghiệm trên chuột trong bệnh đa
xơ cứng, sử dụng acid uric làm giảm và ngăn ngừa triệu chứng viêm não tủy
dị ứng. Ứng dụng trong điều trị viêm não tủy dị ứng, đa xơ cứng với inosin,
tiền chất của acid uric mang đến hiệu quả.


18
18

1.3.4. Acid uric và bệnh thận mạn
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng có mối quan hệ qua lại

giữa acid uric và bệnh thận.
- Suy thận ảnh hưởng đến nồng độ acid uric máu: trong điều kiện bình
thường, 2/3 lượng acid uric trong cơ thể được thải trừ qua thận, 1/3 được thải
trừ qua ruột, mật. Với pH sinh lý, acid uric tồn tại chủ yếu ở dạng urat. Tại
thận, urat được lọc dễ dàng bởi các cầu thận và sau đó tái hấp thu bởi các tế
bào ống lượn gần, tế bào ống thận bài tiết khoảng 10% acid uric. Tế bào
ống thận không thể tái hấp thu urat khi thiếu enzym vận chuyển URAT1
(mã hoá bởi gen SLC22A12). Gần đây, GLUT9 (được mã hoá bởi gen
SLC2A9), một thành viên của gia đình vận chuyển glucose, đã được đề
xuất như một yếu tố điều hoà nồng độ acid uric máu. Tăng acid uric được
định nghĩa là sự tích tụ của acid uric máu vượt quá điểm hoà tan trong
nước và phát triển do sản xuất thừa, giảm bài xuất hoặc cả hai. Những yếu
tố chính dẫn đến tăng nồng độ acid uric máu trong suy thận là: giảm mức
lọc cầu thận, dùng lợi tiểu, tăng sức kháng mạch thận, kháng Insulin. Tuy
nhiên, khi chức năng thận giảm, acid uric được đào thải tăng qua đường
tiêu hóa, do đó có thể nồng độ acid uric máu chỉ tăng nhẹ ở bệnh nhân có
bệnh thận mạn tính.
- Vai trò của acid uric với bệnh thận: tăng acid uric máu dẫn đến sự
lắng đọng các tinh thể urat tại ống góp của thận, các tinh thể urat có khả năng
kết dính trên bề mặt các tế bào biểu mô thận và gây ra một phản ứng viêm cấp
tính ở các dòng tế bào, ngoài ra làm tăng nguy cơ hình thành sỏi thận. Các
hiệu ứng trên đã được chứng minh là làm giảm mức lọc cầu thận.
Ngoài cơ chế hình thành các tinh thể urat trong bệnh thận, ảnh hưởng
của acid uric có thể do acid uric gây rối loạn chức năng nội mô, xơ hoá nội
mô ống thận bằng cách kích hoạt hệ thống rennin-angiotensin-aldosteron,
kích hoạt các tế bào sản xuất phospholipase A2 và yếu tố viêm, các cytokine,
yếu tố hoại tử u…


19

19

1.3.5. Màng bụng và khả năng lọc acid uric
Acid uric có trọng lượng phân tử nhỏ, do đó cơ chế lọc acid uric là cơ
chế khuếch tán nhờ vào sự chênh lệch nồng độ acid uric giữa khoang dịch
thẩm phân và khoang máu ở mao mạch phúc mạc cũng như hệ bạch mạch
trong phúc mạc. Acid uric khuếch tán từ nơi có nồng độ cao sang nơi có nồng
độ thấp, vì vậy acid uric sẽ khuếch tán từ máu sang dịch lọc không chứa acid
uric trong khoang màng bụng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ khuếch tán acid uric:
- Chênh lệch nồng độ giữa hai khoang.
- Lưu lượng máu tại mao mạch màng bụng: ở người huyết áp bình
thường, tốc độ máu ở mạch phúc mạc 70 - 100 ml/phút. Tốc độ máu càng cao
quá trình khuếch tán càng lớn và ngược lại.
- Trọng lượng phân tử: acid uric là một chất tan có trọng lượng phân tử
169 Daltons, creatinin có trọng lượng 113 Daltons, cả 2 chất này đều được lọc
qua màng bụng. Trong nghiên cứu của Boen về sự thay đổi nồng độ một số
chất trong quá trình lọc màng bụng cho kết quả: tỷ lệ % nồng một số chất
trong dịch màng bụng so với nồng độ trong máu sau khi ngâm dịch 30 phút
trong khoang phúc mạc trung bình như sau: creatinine 37%, acid uric 38%.
Trong thời gian trung bình của lọc máu là 35¼ h với 79,2 lít lọc vào khoang
màng bụng và 79,4 lít ra thì có khoảng 4677 mg creatinine, 4010 mg axit uric
được loại bỏ qua quá trình lọc; độ thanh thải qua màng bụng trung bình là:
creatinine 14 ml/phút, acid uric 15,3 ml/ph [27].
- Sức kháng của màng bán thấm: màng bụng dày, xơ sẽ giảm khả năng
khuếch tán.
1.3.6. Sơ lược một số nghiên cứu về nồng độ acid uric ở bệnh nhân lọc
màng bụng.



20
20

1.3.6.1. Trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về nồng độ acid uric máu ở bệnh
nhân lọc màng bụng.
Park J. T. và cs. Nghiên cứu trên 134 bệnh nhân lọc màng bụng cho kết
quả nồng độ acid uric máu trung bình tại thời điểm khởi đầu lọc màng bụng là
394,3 ± 89,2µmol/l, nồng độ acid uric máu cao thường gặp ở bệnh nhân lọc
màng bụng và liên quan đến giảm chức năng thận còn lại của bệnh nhân [28].
Xia X. nghiên cứu trên 985 bệnh nhân lọc màng bụng ở Trung Quốc
cho kết quả nồng độ acid uric máu là 416,4 ± 77,3µmol/l và nghiên cứu này
cho thấy rằng nồng độ acid uric máu là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với tỷ
tỷ lệ tử vong tim mạch ở bệnh nhân lọc màng bụng [29].
Dong J. và cs. nghiên cứu trên 2193 bệnh nhân lọc màng bụng cho kết
quả nồng độ acid uric máu trung bình là 381,3 ± 111,2µmol/l. Đồng thời
nghiên cứu cho thấy tăng mỗi 60µmol/l nồng độ acid uric máu thì tỷ lệ tử
vong chung tăng 1,05 lần, nguy cơ tử vong do bệnh lý tim mạch tăng 1,12 lần
sau khi đã được hiệu chỉnh bởi tuổi, giới và cỡ mẫu…[30].
1.3.6.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu về mối liên quan giữa acid uric và các bệnh
lý tim mạch, thận, hội chứng chuyển hoá đang ngày càng được quan tâm, tuy
nhiên nghiên cứu về nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân lọc màng bụng chưa
có nhiều.
Năm 2009, Châu Ngọc Hoa và cs nghiên cứu trên 736 đối tượng có và
không có tăng huyết áp cho kết quả: nồng độ acid uric máu có tương quan
thuận, chặt với dày thất trái (r = 0,61), phân độ THA (r = 0,7), đạm niệu vi thể
(r = 0,63) và creatinin máu (r = 0,63) [31].
Năm 2013, Nguyễn Văn Hoàng nghiên cứu trên 305 bệnh nhân trên 40
tuổi, đến khám và điều trị tại bệnh viện tỉnh Phú Yên đủ tiêu chuẩn chẩn đoán



21
21

hội chứng chuyển hoá theo IDF - 2006 cho kết quả: nồng độ acid uric nhóm
bệnh có tăng huyết áp cao hơn nhóm không có tăng huyết áp (367,82 ±
113,53 so với 273,17 ± 91,1 p<0,001); tỷ lệ bệnh nhân tăng acid uric trong
nhóm bệnh có tăng huyết áp là 27,56% so với nhóm không có tăng huyết áp
tỷ lệ này là 1,64% [32].
Năm 2010, Hoàng Bùi Bảo và cs. có nghiên cứu về mối tương quan
giữa nồng độ acid uric máu với nồng độ creatinin máu ở bệnh nhân suy thận
mạn giai đoạn cuối đang lọc màng bụng liên tục ngoại trú.
Năm 2012, Trần Nhân Thắng và Nguyễn Tiến Phương nghiên cứu sự
thay đổi nồng độ acid uric trong dịch lọc màng bụng tại thời điểm đầu, sau 1h,
2h, 3h, 4h, 5h và 6h ngâm dịch Dianeal Calcium 2,5% cho thấy nồng độ acid
uric máu tăng nhanh trong quá trình lọc màng bụng. Sau 6h, nồng độ acid uric
trong dịch lọc màng bụng đạt 357,3 ± 52,18; tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nồng
độ acid uric trong máu (417,8 ± 20,1) [33].


22
22

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn lựa bệnh nhân
Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh thận mạn giai đoạn cuối đang được

điều trị thay thế thận bằng phương pháp lọc màng bụng liên tục ngoại trú tại
khoa Thận - tiết niệu bệnh viện Bạch Mai.
- Bệnh nhân lọc màng bụng từ 12 tháng trở lên.
- Tuổi: ≥ 16 tuổi.
- Giới: không phân biệt nam, nữ.
- Bệnh nhân được xét nghiệm acid uric máu trong vòng 1 tháng đầu, sau
6 tháng và 12 tháng lọc màng bụng.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân mắc các bệnh cấp tính trong các thời điểm theo dõi như:
nhiễm trùng cấp, nhồi máu cơ tim, xơ gan, suy giáp, cường giáp, chấn thương,
phẫu thuật…
- Có các bệnh lý ác tính kèm theo: ung thư
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu


23
23

Nghiên cứu mô tả loạt bệnh, hồi cứu và tiến cứu, theo dõi dọc bệnh
nhân đang được điều trị lọc màng bụng ngoại trú chu kỳ tại khoa Thận - tiết
niệu bệnh viện Bạch Mai.
2.2.2. Thời gian và địa điểm tiến hành
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2014 đến tháng 6/2015 tại khoa
Thận - tiết niệu bệnh viện Bạch Mai.

2.2.3. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện: lựa chọn tất cả các bệnh nhân đang điều trị thay
thế thận suy bằng phương pháp lọc màng bụng ngoại trú tại khoa Thận - tiết

niệu Bệnh viện Bạch Mai đáp ứng tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
2.2.4. Cách thức tiến hành
- Thu thập số liệu từ hồ sơ bệnh án theo bệnh án thiết kế mẫu.
- Lấy các chỉ số lâm sàng, cận lâm sàng tại thời điểm trong 1 tháng đầu, sau
6 tháng và 12 tháng lọc màng bụng.
- Quy ước
+ T0: là thời điểm trong 1 tháng đầu lọc màng bụng liên tục ngoại trú
(gọi là thời điểm khởi đầu lọc màng bụng)
+ T1: là thời điểm sau lọc màng bụng liên tục ngoại trú 6 tháng
+ T2: là thời điểm sau lọc màng bụng liên tục ngoại trú 12 tháng.
2.2.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu:
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều được thu thập các thông tin hành
chính, lâm sàng, cận lâm sàng theo mẫu bệnh án nghiên cứu.


24
24

Bảng 2.1. Các biến số, chỉ số nghiên cứu
Biến số, chỉ số

Định nghĩa, đơn vị tính

Phân loại biến

Tuổi

Tính theo ngày bắt đầu LMB

Định lượng


Giới

Nam, nữ

Định tính

Nguyên nhân ESRD

Phân loại

Thời gian lọc màng bụng

Tháng

Định lượng

Phù

Có, không

Định tính

Nước tiểu

ml/24h

Định lượng

Dịch dư


Tổng lượng dịch đưa vào/24h Định lượng
tổng lượng dịch ra/24h (ml/24h)

Chỉ số BMI

Cân nặng/(chiều cao)² (kg/m²)

Định lượng

Huyết áp tâm thu

mmHg

Định lượng

Huyết áp tâm trương

mmHg

Định lượng

Huyết áp trung bình

mmHg

Định lượng

Hemoglobin


g/L

Định lượng

Ure

mmol/L

Định lượng

Creatinin

µmol/L

Định lượng

Acid uric

mmol/L

Định lượng

Ferritin

ng/mL

Định lượng

Cholesterol


mmol/L

Định lượng

Triglyceride

mmol/L

Định lượng

LDL-C

mmol/L

Định lượng

HDL-C

mmol/L

Định lượng

Protein

g/L

Định lượng

Albumin
g/L

2.2.6. Phương tiện nghiên cứu

Định lượng

- Hồ sơ bệnh án ngoại trú bệnh nhân lọc màng bụng liên tục ngoại trú.
- Bệnh án thiết kế mẫu.


25
25

- Xét nghiệm công thức máu được làm tại khoa Huyết học bệnh viện
Bạch Mai.
- Xét nghiệm sinh hóa máu được làm tại khoa Sinh hóa bệnh viện
Bạch Mai.
* Định lượng acid uric:
- Cách lấy bệnh phẩm: Bệnh nhân được lấy máu vào buổi sáng, trước ăn,
sau khi bệnh nhân xả dịch lọc buổi sáng. Bệnh phẩm được lấy đúng kỹ thuật
vào ống tiêu chuẩn. Ly tâm trước khi tiến hành kỹ thuật. Có thể sử dụng huyết
thanh hoặc huyết tương chống đông bằng heparin. Bảo quản ở 2 - 8ºC trong
vòng 5 ngày, ở - 20ºC được 6 tháng. Rã đông một lần.
Để bệnh phẩm, chuẩn, control ở nhiệt độ phòng (20 - 25ºC) và lắc đều
trước khi tiến hành XN.
- Acid uric được định lượng theo phương pháp Enzyme so màu
Uric Acid + 2H2O + O2

Uricase

Allatoin + CO2 + H2O2


2H2O2 + H+ + TOOS + 4-aminophenazone

Peroxidase

Hợp chất màu đỏ + 4H 2O

Sản phẩm màu được đo ở bước sóng 546nm.
- Kết quả định lượng acid uric có thể bị biến đổi khi trong huyết thanh có
một số chất: cystin, phenol, vitamin C, tryptophan, tyrosin. Bệnh phẩm lấy
vào ống chống đông bằng EDTA có thể làm giảm kết quả khoảng 7%.
- Tại bệnh viện Bạch Mai, acid uric được phân tích trên máy xét nghiệm
Cobas 8000.
2.2.7. Các tiêu chuẩn sử dụng trong ngiên cứu
- Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index - BMI)
Công thức: BMI (kg/m2) = Trọng lượng cơ thể/(chiều cao cơ thể)2


×