Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng cơn hen phế quản cấp nhập viện nhi trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.39 KB, 102 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản là một bệnh viêm mạn tính đường hô hấp, bệnh gặp ở tất
cả mọi lứa tuổi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ hen phế quản ở
người lớn là 5%, ở trẻ em là 10%, và có xu hướng tăng nhiều, cứ khoảng 10
năm tỷ lệ hen phế quản lại tăng từ 25- 50%, dự kiến tới năm 2025, toàn thế
giới có khoảng 400 triệu người mắc hen [1]. Ở các nước khác nhau, chủng tộc
khác nhau, lứa tuổi khác nhau, độ lưu hành hen cũng khác nhau nhưng nhìn
chung hen là bệnh lý hô hấp gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường bắt đầu từ tuổi
trẻ. Tỉ lệ mắc hen dao động từ 3 - 7%, trung bình 5% ở người trưởng thành và
10% ở trẻ dưới 15 tuổi [2].
Sự gia tăng hen phế quản ở trẻ em có thể lý giải bởi nhiều nguyên nhân
khác nhau, như tình trạng ô nhiễm môi trường tăng, nhịp sống căng thẳng,
biến đổi khí hậu, sử dụng thuốc và hóa chất không hợp lý, sự thiếu quan tâm
và hiểu biết của gia đình và xã hội đối với bệnh hen.
Các dấu hiệu lâm sàng của hen phế quản ở trẻ em có nhiều điểm khác
biệt so với người lớn, triệu chứng lâm sàng thường không điển hình, xét
nghiệm thăm dò chức năng hô hấp kể cả đo lưu lượng đỉnh cũng khó thực
hiện ở trẻ em, do đó việc chẩn đoán thường khó khăn, dễ nhầm với viêm tiểu
phế quản, viêm phế quản phổi. Hen phế quản ở trẻ em thường chẩn đoán
muộn, việc điều trị và dự phòng chưa kịp thời, chưa thống nhất, do vậy nhiều
trường hợp trẻ nhập viện trong tình trạng cơn hen phế quản nặng, hen ác tính.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hen phế quản trên các lĩnh vực
khác nhau nhưng chủ yếu tập trung ở lĩnh vực cơ chế bệnh sinh, điều trị và dự
phòng. Ở Việt Nam, gần đây cũng có nhiều nghiên cứu về hen phế quản. Các
nghiên cứu tập chung vào đánh giá hiệu quả điều trị và dự phòng hen phế
quản. Việc xác định các yếu tố nguy cơ gây khởi phát cơn hen cấp, đặc biệt


2



ởtrẻ em còn gặp nhiều khó khăn. Các nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm
sàng cơn hen cấp ở trẻ em nhằm tìm ra thời điểm hay khởi phát cơn hen cấp
cũng như xác định một số yếu tố nguy cơ gây khởi phát cơn hen cấp ở trẻ em
là hết sức cần thiết nhằm có các biện pháp giáo dục sức khỏe và dự phòng
nhằm giảm bớt nguy cơbùng phát cơn hen nặng. Hiện nay, mặc dù chương
trình kiểm soát và dự phòng hen đã được phổ cập đến nhiều tuyến y tế cơ sở
nhưng hàng năm vẫn có một số lượng lớn trẻ nhập viện vì cơn hen cấp. Điều
này ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của trẻ, cha mẹ phải nghỉ việc
để trông trẻ, thu nhập gia đình giảm sút. Trước thực tế đó, chúng tôi tiến hành
đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng cơn hen phế quản cấp
nhập viện Nhi Trung ương” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của cơn hen phế quản cấp ở trẻ
em điều trị nội trú tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 1/6/2014 –
31/5/2015.
2. Nhận xét một số yếu tố nguy cơ gây khởi phát cơn hen cấp.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐỊNH NGHĨA HEN PHẾ QUẢN

1.1.1. Định nghĩa hen phế quản
Hen phế quản đã được mô tả trong y văn từ thời kỳ cổ đại. Năm 1932
hội nghị quốc tế lần thứ nhất về HPQ đã đánh dấu bước khởi đầu cho việc
nghiên cứu về HPQ. Từ đó đến nay trên thế giới có nhiều khái niệm về
HPQ do sự phức tạp về nguyên nhân, yếu tố di truyền, môi trường, xã hội,
diễn biến và biểu hiện lâm sàng của bệnh. Năm 1992, chương trình khởi

động toàn cầu phòng chống hen có tên GINA (Global initiative for asthma) ra
đời, từ đó đến nay việc phòng chống hen có nhiều tiến bộ và đạt nhiều
hiệu quả. GINA được nhóm họp hàng năm nhằm cập nhật những khái
niệm và các biện pháp điều trị dự phòng hen mới. Năm 2015, GINA thống
nhất định nghĩa:
"Hen phế quản là một bệnh lý đa dạng, thường có đặc điểm là viêm
đường thở mạn tính. Hen phế quản được định nghĩa bởi sự hiện diện của
bệnh sử có các triệu chứng hô hấp như khò khè, khó thở, nặng ngực và ho,
các triệu chứng này thay đổi theo thời gian về cường độ, cùng với sự giới hạn
luồng khí thở ra dao động" [3].
Định nghĩa đợt bùng phát hen phế quản: đợt bùng phát hen phế quản là
các đợt tiến triển nặng lên của khó thở, ho, khò khè, nặng ngực hay kết hợp
của các triệu chứng này, đợt bùng phát của hen phế quản đặc trưng bởi sự
giảmcủa chức năng hô hấp, triệu chứng thường xuất hiện về đêm làm
bệnh nhân phải thức giấc và tăng nhu cầu dùng thuốc cắt cơn đồng vận bêta
tác dụng nhanh [4].


4

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu hen phế quản
Hen là một bệnh đã được biết từ lâu, cách đây khoảng 5000 năm. Các
nhà y học cổ đại Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập đã nói đến bệnh hen từ năm
2700 trước công nguyên, người ta đã sử dụng Ma hoàng để chữa cơn khó thở.
Sau này Hyppocrat đã đề xuất và giải thích từ "Asthma" để mô tả cơn khó thở
kịch phát, có biểu hiện khò khè. Đến thế kỷ thứ II sau công nguyên, bệnh hen
mới được Aretanus mô tả chi tiết hơn. Ông cho rằng hen là bệnh mạn tính có
chu kỳdo ảnh hưởng của thay đổi thời tiết và làm việc quá sức [5].
Năm 1615 Van Helmont thông báo các trường hợp hen do ảnh hưởng
của phấn hoa. Năm 1698 John Floyer giải thích nguyên nhân khó thở do co

thắt phế quản. Năm 1777, J.Cullen chú ý đến cơn khó thở về đêm có liên
quan đến thời tiết và di truyền. Năm 1819, Laennec xác định khó thở là do
co thắt cơ reissessen. Năm 1860, Samter đã chứng minh bệnh hen phế quản
là do tiếp xúc với lông mèo [5].
Từ thế kỷ XX, C. Richet đã phát hiện shock phản vệ trên động vật, đặt cơ
sở cho nghiên cứu sâu hơn về hen phế quản và các bệnh dị ứng.
Năm 1914, Vidal đưa ra thuyết hen phế quản liên quan dị ứng. Năm
1932, hội nghị hen phế quản lần thứ nhất nhóm họp và là tiền đề để nhiều
tác giả nghiên cứu sâu hơn về hen phế quản. Nhiều tác giả khác đã nghiên
cứu các thuốc điều trị hen phế quản, các thuốc kháng histamin [5].
Từ năm 1962 đến 1972 đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn về
cơ chế bệnh sinh HPQ. Miller Roitt nghiên cứu vai trò của tuyến ức, các tế
bào T và B trong hen phế quản. Năm 1972, Ishisaka đã phát hiện vai trò của
IgE trong hen phế quản [5].
Từ 1985 đến nay các nghiên cứu chứng minh rằng viêm đóng vai trò
quan trọng trong hen phế quản, quá trình viêm dẫn đến tình trạng tăng tính


5

phản ứng phế quản, co thắt phế quản và từ đó có một bước cải tiến trong việc
điều trị và phòng bệnh [5].
Năm 1992 chương trình khởi động toàn cầu phòng chống hen gọi tắt là
GINA ra đời nhằm mục đích đề ra chiến lược quản lý khống chế và kiểm soát
hen phế quản trên toàn cầu.
1.2. DỊCH TỄ HỌC HEN PHẾ QUẢN

1.2.1. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do hen phế quản
Tỷ lệ mắc HPQ có xu hướng ngày càng gia tăng nhiều trên toàn thế
giới. Theo ước tính củaTổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1995, toàn thế giới

có khoảng 150 triệu người bị HPQ trong đó người lớn khoảng 6 - 8%, trẻ em
dưới 15 tuổi khoảng 8 - 10%. Theo GINA 2006, hiện nay con số này đã lên
tới 300 triệu người và dự kiến tới năm 2025 con số này sẽ là 400 triệu người
mắc hen, tỷ lệ hen phế quản ở trẻ em giao động từ 1 - 30% tùy theo từng
vùng, từng nước [4]. Tỷ lệ mắc hen của các quốc gia trên thế giới khác nhau,
các nước phát triển thường có tỷ lệ mắc hen cao hơn các nước đang phát triển.
Theo ước tính của WHO, cứ 10 năm tỷ lệ mắc hen tăng 20 - 50%, đặc
biệt 20 năm qua tốc độ ngày một tăng nhanh hơn. Tỷ lệ mắc hen ở mỗi vùng
và mỗi lứa tuổi rất khác nhau, hay gặp ở những nước công nghiệp có nền
kinh tế phát triển, có tốc độ đô thị hoá mạnh và ít gặp hơn ở các nước đang
phát triển.
Ở Mỹ có khoảng 12-15 triệu dân mắc hen phế quản (chiếm 4-5% dân số),
chi phí cho chẩn đoán, điều trị và dự phòng hen phế quản tốn trên 6 tỷ đô la mỗi
năm, chiếm 1% ngân sách y tế Mỹ. Trong vòng 10 năm (1984 - 1994), tỷ lệ hen
trẻ em ở khu vực Đông Nam Á - Tây Thái Bình Dương tăng gấp 2 - 10 lần.
Ở Việt Nam, theo Trần Thúy Hạnh và Nguyễn Văn Đoàn (2011), khi
tiến hành khảo sát tại 7 tỉnh thành, đại diện cho 7 vùng miền sinh thái và địa
lý trong cả nước là Nam Định, Tuyên Quang, Nghệ An, Khánh Hòa, Bình
Dương, Gia Lai và Tiền Giang nhận thấy độ lưu hành HPQ ở Việt Nam là


6

3,9%, trong đó độ lưu hành hen ở trẻ em là 3,2% và ở người lớn là 4,3%.
Nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nữ giới, tỷ lệ nam/nữ ở trẻ em là 1,63 và
ở người lớn là 1,24. Độ lưu hành hen cao nhất ở Nghệ An (6,9%) và thấp nhất
ở Bình Dương (1,5%) [6].
Cùng với sự gia tăng của tỷ lệ mắc HPQ, hàng năm trên thế giới có
250.000 người tử vong do HPQ, cứ 250 người tử vong có 1 người tử vong do
hen phế quản. Tỷ lệ tử vong do hen phế quản cao hơn tỷ lệ tử vong do tim

mạch và chỉ xếp sau tử vong do bệnh ung thư. Đáng chú ý là 85% các trường
hợp tử vong có thể phòng ngừa được nếu được sự quan tâm kịp thời của
người bệnh, gia đình và thầy thuốc; bệnh nhân cần được chẩn đoán sớm và
điều trị cắt cơn kịp thời, điều trị dự phòng triệt để thì sẽ hạn chế tối đa những
trường hợp tử vong đáng tiếc xảy ra [5],[7],[8].
Tại Việt Nam, chưa có số liệu thống kê tỷ lệ tử vong do hen phế quản ở
trẻ em, tỷ lệ tử vong do hen không phụ thuộc vào độ lưu hành của hen, nhiều
trường hợp tử vong do HPQ có thể phòng được [9].
1.2.2. Hậu quả của hen phế quản
* Đối với người bệnh:
Sức khoẻ ngày càng giảm sút, mất ngủ gây suy nhược thần kinh, bi
quan, lo lắng. Khả năng lao động giảm gây mất việc, thất học, chất lượng
cuộc sống giảm sút, ảnh hưởng đến hạnh phúc cá nhân và gia đình. Nhiều
trường hợp đã tử vong hoặc tàn phế do không được cứu chữa kịp thời.
* Đối với gia đình:
Coi người bệnh như một gánh nặng, ít quan tâm và động viên người
bệnh kiên trì điều trị. Có hai quan điểm trái ngược nhau: Không quan tâm,
xem nhẹ nguy cơ của bệnh, hoặc cho rằng bệnh không điều trị được.


7

* Đối với xã hội:
Thiệt hại do hen phế quản gây ra bao gồm các chi phí trực tiếp cho
khám bệnh, xét nghiệm, tiền thuốc và những chi phí gián tiếp do ngày nghỉ
việc, nghỉ học tăng lên, giảm khả năng lao động, chất lượng cuộc sống giảm
sút. Theo WHO (1998), ở nhiều nước bệnh hen gây phí tổn cao hơn cả hai căn
bệnh hiểm nghèo của thế kỷ là HIV/AIDS và Lao cộng lại [10].
1.3.CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA HEN PHẾ QUẢN


Có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình phát triển HPQ, bao
gồm các yếu tố nguy cơ gây bệnh và các yếu tố nguy cơ gây đợt bùng phát,
tuy nhiên cơ chế rất phức tạp và có sự tương tác lẫn nhau. Các nghiên cứu gần
đây cho thấy các gen tương tác với nhau và kết hợp với các yếu tố môi trường
gây ra hen phế quản. Đáp ứng miễn dịch và thời điểm bị nhiễm khuẩn hô hấp
trong những năm đầu đời đóng vai trò quan trọng làm thay đổi nguy cơ mắc
HPQ trên người có sẵn gen quy định dễ mắc hen phế quản [11].
1.3.1. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh hen phế quản
1.3.1.1. Yếu tố di truyền
Tính chất di truyền chiếm 50 - 60% các trường hợp bị HPQ [12],[13].
Trong gia đình nếu có người bị HPQ hoặc bị các bệnh dị ứng như viêm mũi dị
ứng, viêm xoang, viêm da cơ địa, thì trẻ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 3 – 4
lần so với trẻ bình thường [12]. Theo ước tính, nếu cả bố và mẹ bị HPQ
thìnguy cơ mắc HPQ của con là 50 - 75%,nếu bố hoặc mẹ bị HPQ thì nguy cơ
này là 30%, bố và mẹ không ai bị HPQ thì tỷ lệ này là 15% [7], [14]. Hơn
60% HPQ có yếu tố di truyền từ cha mẹ, các hệ HLA liên quan đến di truyền
của HPQ là HLA DRB1, DRB3, DRB5 và DP1[15].


8

Với sự phát triển của sinh học phân tử ngày nay người ta đã tìm thấy
nhiều gen tương tác lẫn nhau có vai trò trong sinh bệnh học của HPQ và các
nhiễm sắc thể 11, 12 và 13 thường chứa các gen nhạy cảm với hen phế quản.
1.3.1.2. Yếu tố cơ địa dị ứng
Dị ứng là sự sản xuất số lượng bất thường IgE trong đáp ứng khi tiếp
xúc với các dị nguyên môi trường. Xét nghiệm có tăng IgE toàn phần và IgE
đặc hiệu trong huyết thanh. Yếu tố cơ địa dị ứng là yếu tố nguy cơ cao nhất
trong hen phế quản. Những người có cơ địa dị ứng có khả năng mắc bệnh hen
phế quản cao gấp 2- 5 lần so với người không có cơ địa dị ứng [16],[17]. Sự

tồn tại dị ứng là yếu tố nguy cơ quan trọng hình thành bệnh HPQ ở mỗi cá
thể. Người ta cho rằng 50 - 60% các trường hợp hen phế quản là do dị ứng.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy có mối liên quan giữa tỷ lệ dị ứng và hen
phế quản, giữa IgE với hen phế quản. Như vậy cơ địa dị ứng là một nguyên
nhân thuận lợihình thành hen phế quản [4], [11], [18].
1.3.1.3. Tuổi
Hen phế quản có thể bắt đầu xuất hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào, thông
thường hay gặp ở trẻ trên 1 tuổi và 80-90% số trẻ em HPQ xuất hiện triệu
chứng hen trước 5 tuổi. HPQ có thể khỏi hoặc giảm nhẹ ở tuổi dậy thì, theo
Hodek có 10,3% khỏi hẳn ở tuổi dậy thì, có từ 4,2% đến 10,8% HPQ xuất
hiện ở tuổi dậy thì, khoảng 10% HPQ xuất hiện ở tuổi trên 60 [7].
1.3.1.4. Giới
Ở trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ HPQ ở trẻ trai nhiều hơn trẻ gái. Năm 2000,
Cagney và cộng sự nghiên cứu trên 2020 trẻ từ 5-14 tuổi tại Tây Sydney -Úc
thấy rằng yếu tố nguy cơ phát triển HPQ ở trẻ trai gấp 1,5 lần trẻ gái[19].Sau
tuổi dậy thì, số nữ mắc HPQ bằng hoặc lớn hơn số nam. Hiện nay chưa có giải
thích thỏa đáng nào về sự khác nhau về giới trong nhóm trẻ mắc HPQ.


9

1.3.1.5. Béo phì
Có bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI)
và nguy cơ tăng phát triển hen phế quản. Các chất hóahọc trung gian tăng tiết
ở bệnh nhân béo phì làm tăng tính mẫn cảm của đường thở với các tác nhân
kích thích. Mặt khác, béo phì có thể góp phần làm nặng các triệu chứng hô
hấp và ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ bị hen phế quản [20], [21].
1.3.1.6. Tình trạng kinh tế, xã hội
Hen phế quản chịu ảnh hưởng của các đặc điểm kinh tế, xã hội. Theo
một số nghiên cứu cho thấy hen phế quản ở trẻ em ở các nước phát triển có tỷ

lệ cao hơn ở các nước đang phát triển, tỷ lệ bệnh hen phế quản ở vùng giàu
cao hơn vùng nghèo đói, nhưng tỷ lệ hen phế quản nặng ở vùng nghèo cao
hơn ở vùng giàu [7].
1.3.1.7. Nhiễm vi rút đường hô hấp
Trong những năm đầu của thập niên 1990, với kỹ thuật RT-PCR, khả
năng phát hiện virus đường hô hấp đã tăng cả độ nhậy và độ đặc hiệu so
với phương pháp nuôi cấy trước đó. Virus được tìm thấy khoảng 80% trong
các giai đoạn khò khè của trẻ học đường và từ 50% đến 75% trong các giai
đoạn khò khè cấp tính ở người lớn [22]. Có nhiều virus đường hô hấp được
tìm thấy trong giai đoạn này như Rhinovirus, virus hợp bào hô hấp, virus
cúm, á cúm, adenovirus, coronavirus, trong đó Rhinovirus chiếm tới 65%
[22], [23],[24].
Những nghiên cứu dịch tễ học cho thấy mối liên quan giữa nhiễm vi rút
đường hô hấp và nguy cơ phát triển hen phế quản. Ở trẻ em hệ thống hô hấp
và miễn dịch phát triển nhanh trong những năm đầu đời. Khi trẻ bị nhiễm vi
rút hô hấp trong những năm đầu đời sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ
thống miễn dịch, làm thayđổi đáp ứng miễn dịch và làm phát triển hen phế


10

quản và dị ứng ở trẻ em. Tuy nhiên cơ chế nhiễm vi rút đường hô hấp làm
ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch khá phức tạp, nhiễm vi rút đường hô hấp
làm thay đổi cấu trúc và chức năng của đường thở trong giai đoạn đầu đời,
làm tăng nguy cơ phát triển hen phế quản ở trẻ em [25].
1.3.2. Yếu tố nguy cơ gây đợt bùng phát hen phế quản
1.3.2.1. Nhiễm vi rút đường hô hấp
Nhiễm vi rút đường hô hấp là yếu tố quan trọng gây đợt bùng phát hen
phế quản. Vi rút đường hô hấp được xác địnhtrong 50 – 70% đợt bùng phát
hen phế quản ở trẻ em [26]. Cơ chế vi rút gây đợt bùng phát hen phế quản

chưa thật rõ ràng, tuy nhiên qua các nghiên cứu cho thấy RSV là tác nhân
chính liên quan đến đợt bùng phát ở trẻ nhỏ. Vi rút cúm, Rhino virút liên quan
đến đợt bùng phát hen phế quản ở trẻ lớn [27].
1.3.2.2. Dị nguyên trong nhà
- Bọ nhà: là thành phần quan trọng nhất của bụi nhà, bọ nhà thuộc
ngành tiết túc, thuộc lớp nhện, môi trường ưa thích nhất của bọ là tấm thảm,
ga, đệm trong phòng ngủ, những đồ dệt như chăn, chiếu, thảm dệt. Thức ăn
của bọ là vẩy da người, biểu bì, nấm mốc. Người ta ước tính lượng bọ trong
mỗi gam bụi nhà có thể đạt tới 100.000 con, tương ứng với trên 20
mcg/gam bụi. Nồng độ bọ nhà có thể gây hen phế quản, viêm mũi dị ứng là
2 – 10 mcg/gam bụi.
- Các dị nguyên của súc vật nuôi trong nhà được tách ra trong phân,
nước tiểu, vẩy da, lông của chúng thường gặp nhất là từ mèo, chó và các loài
gặm nhấm. Ngoài ra nấm, mốc và các nấm men cũng đóng vai trò quan trọng
như những dị nguyên trong nhà [4], [28],[29].


11

1.3.2.3. Dị nguyên ngoài nhà
Hạt phấn hoa và nấm là hai dị nguyên ngoài nhà chính gây hen phế
quản. Hạt phấn là nguyên nhân của nhiều hội chứng dị ứng do phấn hoa:
viêm mũi mùa, sốt mùa, viêm kết mạc mùa xuân. Phấn hoa gây bệnh có
kích thước rất nhỏ, dưới 0,05mm, nhẹ, lượng phấn hoa lớn. Phấn hoa họ
lúa cũng là dị nguyên gây bệnh hay gặp, đáng chú ý là các loại phấn của cỏ
đuôi mèo, cỏ chân vịt, hoa đồng nội. Ngoài ra, còn gặp bệnh dị ứng do
phấn hoa của một số loại khác như: cây bạch dương, hoa hồng, cúc, thược
dược có kích thước nhỏ dưới 0,05mm gây ra. Hen phế quản do phấn hoa có
đặc điểm là ít gây hen phế quản đơn thuần mà thường phối hợp với viêm
mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng. Bệnh thường xảy ra theo mùa trong năm,

tương ứng với các mùa phấn hoa [12].
1.3.2.4. Khói thuốc lá
Hen liên quan chặt chẽ với khói thuốc lá bao gồm cả hút thuốc lá chủ
động và thụ động. Trong khói thuốc lá có khoảng 4500 hợp chất và chất gây ô
nhiễm, trong đó có CO, CO2, NO2, Nicotin, có thể gây hen phế quản. Trẻ em
sống trong gia đình có người hút thuốc có khả năng mắc hen phế quản cao
gấp 2 lần so với trẻ sống trong gia đình không có người hút thuốc. Những trẻ
sống trong môi trường có khói thuốc lá thì bị hen phế quản sớm hơn, triệu
chứng lâm sàng nặng hơn, giảm chức năng hô hấp nhiều hơn so với những trẻ
sống trong môi trường không có khói thuốc lá [12], [30].
1.3.2.5. Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường nhất là ô nhiễm không khí là nguyên nhân gây ra
viêm đường hô hấp và hen phế quản. Các chất làm ô nhiễm không khí có khả
năng ảnh hưởng đến nguy cơ mắchen phế quản bao gồm các chất như: Ozone,
Dioxide, Nitrogen, Oxide, SO2 ... các chất này khi hít phải làm kích thích phế


12

quản, tăng phản ứng phế quản do các phản ứng dị ứng. Ô nhiễm còn gặp
trong nhà ở với các loại khói than, mùi bếp gas, dầu hỏa, khói hương, các hóa
chất được sử dụng trong trang trí nội thất[8].
1.3.2.6. Tình trạng gắng sức và tăng thông khí
Gắng sức là một trong các yếu tố hay gặp gây đợt bùng phát hen phế
quản. Hen phế quản do gắng sức được giải thích là do sự mất nước từ niêm
mạc đường hô hấp, làm tăng áp lực thẩm thấu ở lớp lót của đường hô hấp dẫn
đến giải phóng các chất trung gian hóa học từ dưỡng bàogây co thắt phế quản.
Các nghiên cứu còn cho rằng hoạt động thể lực mạnh có thể tăng giải phóng
Acetylcholin gây co thắt phế quản[12].
Chẩn đoán cơn hen cấp gây ra bởi hoạt động gắng sức thường không

khó, tuy nhiên một số bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình. Hầu hết
các bệnh nhân lên cơn hen cấp bởi hoạt động gắng sức đáp ứng rất tốt với
SABA [31], tuy nhiên một số bệnh nhân cần dùng thêm các thuốc hen
khácnhư corticosteroids dự phòng hàng ngày [32].
1.3.2.7. Thay đổi cảm xúc
Người bệnh bị hen phế quản rất nhạy cảm với thay đổi cảm xúc và chấn
thương tình cảm, các yếu tố tâm lý có thể tương tác với cơ địa hen phế quản
để làm nặng hoặc nhẹ quá trình bệnh [12], [30].
Những thay đổi cảm xúc như cười to, stress, buồn phiền đều liên quan
đến cơn hen cấp. Liangas nhận thấy rằng 42% bệnh nhân hen phế quản có thể
lên cơn hen cấp khi cười to [33]. Cơ chế thay đổi xúc cảm gây cơn hen cấp
chưa được xác định rõ.
1.3.2.8. Thay đổi thời tiết
Thay đổi thời tiết có tác động trực tiếp khởi phát đợt cấp hen phế quản.
Nóng quá, lạnh quá, ẩm ướt quá, khi chuyển mùa nhất là khi có gió mùa Đông
bắc, nguy cơ xuất hiện đợt bùng phát là rất lớn ở người hen phế quản. Qua


13

nghiên cứu cho thấy 67,9% học sinh bị hen phế quản lên cơn khó thở khi thay
đổi thời tiết, 6,2% liên quan đến tăng độ ẩm [12], [7].

Hình 1.1. Các yếu tố gây khởi phát cơn hen cấp
1.3.2.9. Thuốc, thực phẩm và các chất phụ gia
Một số thuốc hay gây đợt bùng phát cơn hen phế quản như: Aspirin,
Penicillin, Sulfamid; ngoài ra các dị nguyên thức ăn đặc biệt là các thức ăn có
nguồn gốc hải sản như: tôm, cua, cá, sữa là những thức ăn có nguy cơ gây đợt
bùng phát hen phế quản[4],[11].
1.4. CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA HEN PHẾ QUẢN


Hiện nay vẫn còn một số ý kiến khác nhau về cơ chế bệnh sinh của hen
phế quản, tuy nhiên đa số tác giả thống nhất hen phế quản có sinh lý bệnh cơ


14

bản là viêm mạn tính đường thở, co thắt phế quản, gia tăng tính phản ứng phế
quản và tái tạo lại đường thở.
1.4.1. Cơ chế viêm
Viêmđường thở là cơ chế chủ yếu, quan trọng nhất trong bệnh sinh của
HPQ.Viêm đường thở là biểu hiện chung cho tất cả các loại HPQ[34],[35].
- Các tế bào viêm: có rất nhiều tế bào tham gia vào quá trình viêm của
đường thở trong hen phế quản:
+ Tế bào mast (mastocyte): có vai trò chủ yếu trong pha đáp ứng sớm
của hen phế quản. Các chất trung gian hóa học viêm của tế bàomast gồm:
Histamine, Tryptase, Chymase, Leucotriene C4, Prostaglandin D2, Interleukin
4,5,6 [34], [35].
+ Bạch cầu ái toan (eosinophils): đây là tế bào có vai trò chủ yếu trong
quá trình viêm đường thở ở pha đáp ứng muộn và trong giai đoạn viêm mạn
tính đường thở. Các chất trung gian hóa học gây viêm của bạch cầu ái toan
chủ yếu là protein cơ bản [7],[35].
+ Bạch cầu ưa kiềm (basophils): có vai trò giúp tế bào Mast trình diện
chức năng và tham gia vào cả hai pha đáp ứng viêm của hen phế quản. Các
chất trung gian hóa học gây viêm chủ yếu là: Histamine, Prostaglandin D2,
Trypsin, Leucotriene C4 [36],[37].
+ Bạch cầu đa nhân trung tính (neutrophils): có vai trò trong pha đáp
ứng sớm và muộn của hen phế quản. Các chất trung gian hóa học của bạch
cầu đa nhân trung tính là: Prostaglandin, Thromboxan, Leucotriene B4 và yếu
tố hoạt hóa tiểu cầu [35], [38].

+ Tiểu cầu (platelets): tham gia vào điều hòa tính phản ứng phế quản
và có vai trò trong đáp ứng viêm muộn. Khi hoạt hóa tiểu cầu tiết ra yếu tố
tiểu cầu 4, Thromboxan, các peptid đặc hiệu, yếu tố hóa ứng động bạch cầu
và yếu tố tăng trưởng [35],[37].
+ Tế bào lympho: đây là các tế bào đóng vai trò chủ đạo trong quá trình
viêm của đường thở. Trong hen phế quản, tế bào T (chủ yếu là tế bào TCD4


15

và TCD8) đóng vai trò chủ đạo trong phản ứng viêm đường thở. Tế bào
TCD4 gồm hai loại: tế bào Th1 và Th2. Tế bào Th1 chủ yếu sản xuất
Interleukin2, Interferon γ, β làm hoạt hóa đại thực bào, lympho T và ức chế
tổng hợp IgE. Tế bào Th2 sản xuất Interleukin 4,5,10, yếu tố hoại tử u, yếu
tố kích thích dòng bạch cầu hạt và đại thực bào làm tăng trưởng, kéo dài
thời gian sống của tế bào ái toan, điều hòa tổng hợp IgE và duy trì viêm
đường thở kéo dài. Tế bào TCD8 tăng ở đường thở trong pha đáp ứng sớm
của hen phế quản và có vai trò ức chế các dị nguyên đặc hiệu, ức chế tổng
hợp IgE trong đợt bùng phát hen phế quản. Tế bào B tăng trong máu và có
vai trò chủ yếu là sản xuất kháng thể đặc hiệu kháng kháng nguyên và kiểm
soát một phần hoạt động của tế bào Th2. Mức tăng của tế bào B trong máu
tương quan với hàm lượng IgE toàn phần[35],[36].
+ Đại thực bào (macrophage): tham gia điều hòa miễn dịch, ức chế đáp
ứng của tế bàoT với dị nguyên. Khi hoạt hóa đại thực bào sản xuất
Thromboxan A2, yếu tố hoạt hóa tiểu cầu, yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt
và đại thực bào[35], [36].
+ Tế bào mono (monocyte): hoạt hóa trong suốt quá trình viêm của
đường thở. Tế bào mono sản xuất yếu tố hoạt hóa tiểu cầu, Leucotriene B4,
làm tăng tập trung tế bào ái toan và trung tính vào đường thở [9],[35].
+ Tế bào đuôi gai (dendritic cell): có vai trò xử lý dị nguyên thành

mảnh peptide nhỏ và trình diện chọn lọc trên bề mặt của tế bào và tương tác
với tế bào T gây tăng sinh tế bào Th1 [35],[36].
+ Tế bào biểu mô đường thở: tế bào biểu mô đường thở là đích tấn
công của quá trình viêm trong hen phế quản. Tổn thương tế bào biểu mô
đường thở là yếu tố quan trọng làm khuyếch đại quá trình viêm của đường thở
[7], [35].
- Các chấttrung gian hóa học gây viêm: có rất nhiều chất trung gian hóa
học gây viêm và có sự tương tác phức tạp giữa chúng tại đường thở [13], [35].


16

+ Histamin: giải phóng từ các tế bào mast và bạch cầu ưa kiềm, tác
dụng gây co thắt phế quản, tăng tính thấm thành mạch, tăng tiết nhầy và cảm
ứng sản xuất các trung gian hóa học viêm khác.
+ Các trung gian hóa học có gốc lipid: có nguồn gốc từ các tế bào trung
tính, mono, lympho, bạch cầu ái toan, tế bào Mast, tiểu cầu và các tế bào cấu
trúc đường thở.
Các trung gian hóa học lipid gồm có: leucotriene, Prostaglandin,
Thromboxan, tác dụng gây co thắt phế quản, tăng tính thấm thành mạch,
tăng tính phản ứng phế quản và chiêu mộ các tế bào viêm vào đường thở
[35], [36].
+ Các cytokine: được giải phóng từ các tế bào viêm và có tác động tương
tác lẫn nhau. Cytokine hoạt động như các chất trung gian hóa học gây viêm, đặc
biệt là điều hòa quá trình viêm mạn tính đường thở trong hen phế quản. Các
cytokine tham gia điều hòa viêm trong hen phế quản thường được sản xuất từ tế
bào Th2 như Interleukine 4,5,9,10, 13 [7], [34].
- Các phân tử kết dính (adhesion molecules): các phân tử kết dính là
những phân tử protein trên bề mặt các màng tế bào, có chức năng gắn kết các
tế bào với nhau ở trong các mô, tổ chức và tạo điều kiện cho các tế bào di tản

đến vị trí viêm dị ứng, chủ yếu là phân tử kết dính liên bào 1 và 2 [34], [37].
- Cơ chế chiêu mộ các tế bào viêm trong hen phế quản: quá trình chiêu
mộ các tế bào viêm từ máu vào đường thở rất phức tạp, chịu ảnh hưởng và
điều hòa bởi nhiều yếu tố: các cytokine, các yếu tố hóa ứng động, yếu tố tăng
trưởng và các phân tử kết dính. Sự chiêu mộ các tế bào xảy ra theo các bước
sau [35],[37]:
+ Gắn và dính các tế bào với nội mô.
+ Di chuyển các tế bào qua nội mô.
+ Di chuyển các tế bào qua tổ chức kẽ.
+ Tác động của các tế bào lên tế bào cấu trúc đường thở thông qua các
chất trung gian hóa học gây viêm. Tùy theo từng giai đoạn của đáp ứng viêm
đường thở mà các tế bào khác nhau được chiêu mộ từ máu vào đường thở.


17

- Các giai đoạn của viêm đường thở trong hen phế quản:
+ Viêm cấp tính: gồm 2 pha đáp ứng trong hen phế quản.
Pha đáp ứng sớm: xảy ra sau 5- 15 phút sau kích thích của dị nguyên.
Tham gia vào pha này chủ yếu là tế bào mast, tế bào trình diện kháng nguyên
và đại thực bào, các chất trung gian hóa học gây viêm chủ yếu là Histamin,
IgE, Leucotriene B4, C4, D4, F4, Prostaglandin D2, Interleukin 1, 2, 3, 4, 5, 6
và kinin.
Pha đáp ứng muộn: xảy ra sau 6- 12 giờ sau kích thích của dị nguyên,
kéo dài 60 phút đến 12 giờ với sự tham gia của các tế bào ái toan, trung tính,
đại thực bào, trong đó hoạt hóa tế bào ái toan là quan trọng nhất, các trung
gian hóa học chủ yếu là protein cơ bản, yếu tố hoạt hóa tiểu cầu.
Hậu quả của viêm cấp: gây phù nề niêm mạc, co thắt cơ trơn phế
quản, tăng giải phóng các trung gian hóa học viêm thứ phát và tăng tính
phản ứng phế quản.

+ Viêm mạn tính: Quá trình viêm mạn tính liên quan tới tất cả các tế
bào viêm trong đường thở, nhưng chủ yếu là vai trò của các tế bào Th2, bạch
cầu ái toan và các tế bào cấu trúc đường thở. Các chất trung gian hóa học
viêm chủ yếu là protein cơ bản, interleukin 4, 5,13, yếu tố hoạt hóa tiểu cầu,
leucotriene C4, các yếu tố tăng trưởng, các phân tử kết dính và các gốc tự do.
Hậu quả của viêm mạn tính: gây rối loạn quá trình chết theo chương
trình của các tế bào, tái tạo cấu trúc đường thở và tăng tính phản ứng phế quản
bền vững. Tronghen phế quản, chủ yếu là rối loạn quá trình apoptosis của tế
bào ái toan, làm cho quá trình viêm phế quản thêm dai dẳng mạn tính [37].


18

Hình 1.2. Cơ chế viêm trong hen phế quản
1.4.2. Co thắt phế quản
- Hậu quả của hiện tượng viêmđã gây nên tình trạng co thắt phế quản.
Ở trẻ bị hen phế quản, thụ thể β2 bị suy giảm làm cho men Adenylcyclase kém
hoạt hoá, gây nên thiếu hụt AMP C ở cơ trơn phế quản. Tình trạng này làm cho
ion calci xâm nhập vào tế bào, đồng thời dưỡng bào bị thoái hoá hạt giải
phóng các chất hoá học trung gian gây co thắt phế quản [2].
- Sự rối loạn hệ thần kinh giao cảm làm tăng tiết cholin kích thích hệ
cholinergic làm giải phóng các chất trung gian hoá học và tăng AMP C nội bào
gây phản xạ co thắt phế quản.
- Trong các tế bào và các chất hoá học trung gian gây viêm cần lưu ý
vai trò của leucotrien, đó là những sản phẩm chuyển hoá của acide
arachinodic theo đường 5 - lipooxygenase hình thành 2 type leucotrines:
sulfide – peptid và LTB4. Thực chất các sulfide – peptid là chất SRS–A có
tác dụng co thắt phế quản rất mạnh [2].



19

- Prostaglandin, đặc biệt là PGD2 do tế bào mast tiết ra thúc đẩy sự giải
phóng histamine từ basophile gây co thắt và gia tăng tính phản ứng phế quản.
1.4.3. Tăng tính phản ứng phế quản
Tăng tính phản ứng phế quản với nhiều kích thích khác nhau là một đặc
trưng của hen phế quản. Tăng tính phản ứng phế quản liên quan với triệu
chứng lâm sàng, chức năng hô hấp nhưng không đặc hiệu trong hen phế quản.
Có nhiều yếu tố tham gia vào cơ chế tăng tính phản ứng phế quản như di
truyền, môi trường, viêm đường thở, vai trò của các tế bào cấu trúc đường
thở. Trong đó viêm đường thở đóng vai trò chủ yếu trong cơ chế của tăng tính
phản ứng phế quản [8],[36]:
- Tổn thương biểu mô làm mất chức năng bảo vệ của đường thở gây
tăng nhận cảm dị nguyên, tăng phản xạ co thắt cơ trơn.
- Phì đại cơ trơn làm thay đổi cấu trúc hình học của đường thở gây tăng
sức cản đường thở và tăng co thắt cơ trơn.
- Giảm yếu tố giãn cơ trơn của biểu mô phế quản do bị phân hủy bởi
các trung gian hóa học gây viêm.
- Tăng giải phóng các chất trung gian hóa học gây viêm từ tế bào biểu
mô phế quản như prostaglandin, yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt và đại
thực bào làm khuyếch đại phản ứng viêm.
- Viêm làm bộc lộ tận cùng thần kinh nhận cảm, gây rối loạn thần kinh
tự động làm tăng trương lực cơ trơn phế quản.
1.4.4. Tái tạo lại đường thở
- Quá trình tái tạo đường thở trong hen phế quản: ở giai đoạn viêm cấp
tính thì tổn thương được sửa chữa và hồi phục hoàn toàn, nhưng ở giai đoạn
viêm mạn tính có sự tái tạo lại đường thở làm thay đổi lại cấu trúc đường thở
gây phì đại, tăng sản cơ trơn, bong tróc biểu mô phế quản, tăng tạo mạch, phù
màng nhày, phì đại tuyến nhày, thâm nhiễm các tế bào viêm và xơ hóa dưới



20

biểu mô làm hẹp lòng phế quản. Hậu quả của tái tạo đường thở là gây tắc
nghẽn đường thở không hồi phục và tăng tính phản ứng phế quản bền vững
làm cho hen phế quản trở nên dai dẳng và mạn tính.
1.5. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG ĐỢT BÙNG PHÁT
HEN PHẾ QUẢN

1.5.1. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của hen phế quản trong đợt bùng phát rất đa dạng
và thay đổi theo từng bệnh nhân.
1.5.1.1. Triệu chứng cơ năng
- Ho: lúc đầu có thể ho khan sau xuất tiết nhiều đờm, ho dai dẳng
không có giờ nhất định, thường ho nhiều về đêm và sáng nhất là khi thay đổi
thời tiết [13], [39].
- Khò khè: Trong HPQ khò khè thường khởi phát muộn, khò khè tái
đi tái lại nhiều lần, nặng lên về đêm và kéo dài sau 3 tuổi [11],[13].
- Khó thở: Đây là triệu chứng cơ bản và gặp chủ yếu trong đợt bùng
phát của hen phế quản. Chủ yếu khó thở thì thở ra, thì thở ra kéo dài. Trường
hợp nhẹ khó thở xuất hiện khi gắng sức, khi trẻ ho, khi cười. Trường hợp điển
hình khó thở xuất hiện thường xuyên kiểu khó thở ra, có tiếng khò khè, cò cử,
thường nặng về đêm và gần sáng. Trường hợp nặng trẻ kích thích vật vã, ho
liên tục, khó thở ậm ạch, rút lõm lồng ngực, co kéo cơ hô hấp và có thể tím
tái. Trước khi xuất hiện khó thở, trẻ thường có một số triệu chứng báo trước
như hắt hơi, ngứa mũi, chảy nước mũi hoặc nặng ngực [39],[40].
- Nặng ngực: Bệnh nhân có cảm giác tức nghẹt lồng ngực hoặc thắt
chặt ngực, triệu chứng này chủ yếu ở trẻ lớn, ở trẻ nhỏ hiếm khi khai thác
được triệu chứng này [13], [39].



21

- Khạc đờm: Khi trẻ ho thường khạc nhiều đờm trắng, dính soi dưới
kính hiển vi thấy nhiều bạch cầu ái toan, vòng xoắn Cushman và tinh thể
Charcot - Leyden. Nếu đờm có mủ tức là đã bội nhiễm viêm phổi do vi
khuẩn, triệu chứng khạc đờm chủ yếu thấy ở trẻ lớn .
1.5.1.2. Triệu chứng thực thể
- Nhìn:lồng ngực giãn căng, có hiện tượng co kéo cơ hô hấp phụ.
Những trường hợp hen phế quản kéo dài lồng ngực có thể bị biến dạng như
lồng ngực có thể bị nhô ra phía trước, vai nhô lên trên, xương sườn nằm
ngang, các khoang liên sườn giãn rộng, cơ thể chậm phát triển [9],[41].
- Gõ phổi: có thể thấy vang hơn bình thường, vùng đục trước tim giảm
[13], [39].
- Nghe:có tiếng ran rít, ran ngáy, tiếng thở khò khè. Trường hợp nặng rì
rào phế nang giảm, có thể mất (phổi câm) trong trường hợp tắc nghẽn đường
thở rất nặng.
1.5.2. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm máu: Bạch cầu máu thường không tăng. Bạch cầu ái toan
trong máu của bệnh nhân hen phế quản thường tăng.
- Xét nghiệm IgE trong máu: IgE đóng vai trò quyết định trong quá
trình dị ứng và bệnh lý dị ứng [31]. Theo Satwani, IgE toàn phần và đặc hiệu
có giá trị trong chẩn đoán hen phế quản. Kovac nhận thấy IgE toàn phần và
đặc hiệu có mối liên quan với mức độ nặng của hen phế quản. Theo Trịnh
Mạnh Hùng [18], IgE toàn phần tăng trong máu ở bệnh nhân hen phế quản cả
trước và sau điều trị giải mẫn cảm đặc hiệu.
- Khí máu: trong đợt bùng phát hen phế quản nặng có giảm SpO2 và
PaO2. Trường hợp khó thở nặng, kéo dài có biểu hiện tăng PaCO 2, tình trạng
rối loạn thăng bằng toan kiềm. Ngoài đợt bùng phát khí máu bình thường.
- Xét nghiệm đờm: đây là phương pháp không xâm nhập thường dễ

thực hiện ở người lớn và trẻ lớn, ở trẻ nhỏ đôi khi lấy đờm rất khó khăn.


22

Nghiên cứu củaNguyễn Thị Diệu Thúy cho thấy bạch cầu ái toan trong đờm ở
trẻ hen phế quản cao hơn rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh .
- X quang tim phổi:trong đợt bùng phát, giai đoạn đầu phim phổi bình
thường. Sau đó xuất hiện hiện tượng khí phế thũng, lồng ngực giãn rộng, có
hiện tượng ứ khí. Nếu bệnh nhân ho khạc nhiều đờm có thể thấy các biến
chứng tắc nghẽn trên phim X quang như xẹp phổi hoặc có biến chứng tràn khí
màng phổi [31], [18].
- Thăm dò chức năng hô hấp: có vai trò quan trọng trong chẩn đoán
cũng như theo dõi và đánh giá hiệu quả của điều trị dự phòng hen phế
quản.Đo chức năng hô hấp giúp xác định mức độ nặng của bệnh, mức độ tắc
nghẽn đường hô hấp trong hen phế quản [42],[43]:
+ Dung tích sống (VC) giảm, FEV1 giảm, chỉ số Tiffeneau giảm
+ Lưu lượng đỉnh (PEF): Nếu giá trị PEF đo vào buổi sáng giảm hơn
20% so với giá trị đo vào buổi chiều hôm trước thì nghĩ đến cơn hen phế quản
cấp. Ở hen phế quản, PEF giữa sáng và chiều, giữa các ngày trong tuần dao
động tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nếu hen phế quản được điều
trị tốt thì PEF tăng lên và ít dao động [4], [11],[43].
- Test phục hồi phế quản: đo FEV1 rồi dùng salbutamol dưới dạng phun
hít với liều lượng 200 mcg, sau 15 phút tiến hành đo lại chức năng thông khí.
Nếu FEV1 tăng > 12% (hoặc trên 200 ml) so với giá trị khi chưa phun hít
Salbutamol thì test phục hồi phế quản dương tính, chứng tỏ có hội chứng rối
loạn thông khí tắc nghẽn có đáp ứng với thuốc giãn phế quản [42], [43].
- Đo sức cản đường thở: Sức cản đường thở là thông số đánh giá tình
trạng rối loạn thông khí tắc nghẽn một cách khách quan, không phụ thuộc vào
sự hợp tác của bệnh nhân và bệnh nhân không phải gắng sức khi đo, vì vậy rất

có ý nghĩa để chẩn đoán hen phế quản ở trẻ nhỏ[40], [43].
- Test kích thích phế quản đặc hiệu bằng Methacholine hoặc test vận
động. Đây là test xác định tình trạng tăng đáp ứng phế quản, test dương tính khi


23

FEV1 giảm trên 20% so với giá trị lý thuyết sau vận động hoặc khí dung
Methacholin. Các test được tiến hành khi chẩn đoán hen còn nghi ngờ, các thông
số thăm dò bằng phế dung kế bình thường hoặc gần bình thường. Tuy nhiên,
việc áp dụng các test này trong nhi khoa còn hạn chế [43].
- Đo nồng độ NO khí thở ra: NO được xem là một marker gây viêm ở
đường thở và thay đổi rất sớm khi chưa có thay đổi chức năng hô hấp, do đó
có thể dùng nồng độ NO ở khí thở ra để đánh giá sớm rối loạn chức năng hô
hấp. Theo Nguyễn Thị Diệu Thúy nồng độ NO trong khí thở ra ở trẻ hen phế
quản cao hơn trẻ khỏe mạnh, nồng độ NO có mối liên quan chặt chẽ với các
markers của đường thở như chức năng hô hấp, tính mẫn cảm đường thở và
bạch cầu ái toan trong đờm [44].
- Test lẩy da: 85% số bệnh nhân HPQ có test lẩy da dương tính với các
dị nguyên đường hô hấp. Test lẩy da dương tính cho thấy tình trạng dị ứng của
bệnh nhân, giúp ta nhận biết yếu tố nguy cơ và có biện pháp kiểm soát môi
trường sống thích hợp. Test lẩy da chỉ có tác dụng hỗ trợ cho việc chẩn đoán
hen phế quản [45].
1.6. ĐIỀU TRỊ HEN PHẾ QUẢN

Hen phế quản là bệnh viêm mạn tính đường thở. Vấn đề cơ bản trong
điều trị hen phế quản là sử dụng các thuốc giãn phế quản để cắt cơn hen cấp,
thuốc chống viêm để dự phòng cơn hen và ổn định đường thở [12],[31],[2],
nhằm đạt được mục tiêu do GINA đề ra:
- Hạn chế tối đa xuất hiện triệu chứng

- Hạn chế đến mức thấp nhất các đợt hen cấp
- Giảm tối đa các cơn hen nặng phải đến bệnh viện cấp cứu
- Giữ lưu lượng đỉnh (PEF) gần như bình thường (trên 80%)
- Không có tác dụng không mong muốn của thuốc.
1.6.1. Các thuốc giãn phế quản
1.6.1.1. Thuốc cường β2- Adrenergic


24

- Thuốc cường β2 chọn lọc:thuốc có tác dụng kích thích chọn lọc trên
thụ thể β2 ở màng tế bào cơ trơn phế quản thông qua hoạt hóa men
adenylcyclase làmtăng chuyển hóa ATP thành AMPc gây giãn cơ trơn. Ngoài
ra thuốc cường β2 còn có tác dụng ức chế phóng thích các hóa chất trung
gian, tăng hoạt động lông chuyển dẫn đếntác dụng tăng thải chất nhầy, ngăn
ngừa thoát mạch, tránh phù nề, ức chế co thắt phế quản do hệ thần kinh
NANC (non adrenergic non cholinergic) gây ra [12],[31].
Thuốc ngày càng được sử dụng phổ biến trong điều trị đợt bùng phát
hen phế quản ở mọi mức độ. Thuốc được đưa trực tiếp vào đường hô hấp với
thời gian tác dụng nhanh, tác dụng tối đa sau 30 phút, ít tác dụng toàn thân so
với đường tiêm và đường uống [13], [21], [31]. Thuốc được sử dụng qua
đường hô hấp có 2 cách: khí dung, hít định liều.
Các thuốc cường β2 đường hô hấp gồm 2 dạng: thuốc kích β2 tác dụng
nhanh SABA (Short Acting β2 Agonist) và kích thích β2 tác dụng chậm (Long
Acting β2 Agonist).
Các thuốc nhóm SABA có tác dụng cắt cơn nhanh sau 3-5 phút nhưng
chỉ kéo dài 4-6 giờ tùy loại thuốc. Thuốc gồm: Salbutamol (Ventolin),
Terbutalin (Bricanyl). Đây là thuốc tốt nhất dùng trong cấp cứu cơn hen.
Các thuốc nhóm LABA bắt đầu tác dụng muộn sau 30 phút - 1 giờ,
nhưng kéo dài 12 giờ nên không dùng trong điều trị cắt cơn, thường dùng

điều trị duy trì để kiểm soát hen vừa và nặng, hạn chế các triệu chứng về đêm.
Các thuốc này cần phối hợp với các thuốc corticosteroid dạng hít để làm tăng
hiệu quả trong kiểm soát hen.
1.6.1.2. Nhóm Xanthin
Nhóm này là thuốc giãn phế quản đã được sử dụng từ xa xưa. Hai thuốc
cơ bản là Theophylin và Aminophylin. Các thuốc này có tác dụng làm giãn
phế quản do ức chế enzyme phosphodiesterase làm tăng AMPc trong tế bào.
Theophyllin còn có tác dụng chống viêm, điều hòa miễn dịch, bảo vệ phế
quản. Thuốc có giới hạn an toàn hẹp, nồng độ theophyllin huyết tương cần


25

thiết để có hiệu quả giãn phế quản tốt nhất là 10 – 20 mg/l trong khi mức độ
nặng của tác dụng không mong muốn tăng lên rõ rệt ở nồng độ trên 20mg/l.
Do tác dụng giãn phế quản không bằng các thuốc kích thích β2 trong khi nguy
cơ xuất hiện tác dụng không mong muốn cao nên thuốc này không phải lựa
chọn đầu tiên để điều trị cắt cơn hen [2].
1.6.1.3. Thuốc kháng Cholinergic
Acetylcholin được giải phóng từ thần kinh phó giao cảm gây co thắt
phế quản do hoạt hóa các receptor muscarinic M3 có trong cơ trơn phế quản.
Cácthuốckháng cholinergic có tác dụng đối kháng cạnh tranhvới Acetylcholin
tại thụ thể Muscarinic và ức chế dây thần kinh phế vị nên gây giãn phế quản.
Chế phẩm hay dùng là Ipratropium bromide, thuốc dùng dạng hít và khí
dung chỉ có tác dụng trên đường thở, không có tác dụng toàn thân. Hiện nay
người ta phối hợp Ipratropium bromide với một thuốc tác dụng chọn lọc β2
Adrenergictrong một biệt dược để làm tăng tác dụng giãn phế quản của thuốc.
Thuốc được dùng phổ biến là Combivent dạng khí dung [31].
1.6.2. Thuốc chống viêm corticosteroid
Corticosteroid là thuốc điều trị rất hiệu quả cho bệnh nhân hen bởi chúng

làm giảm phản ứng viêm bằng cách làm giảm prostaglandin, làm tăng nồng độ
một số phospholipid màng gây ức chế tổng hợp prostaglandin. Corticosteroid
làm giảm tính thấm mao mạch do ức chế hoạt tính của kinin và độc tố vi khuẩn,
làm giảm lượng histamine do bạch cầu ưa base tiết ra. Ngoài ra corticosteroid
còn có tác dụng làm tăng tính đáp ứng của phế quản với các thuốc kích thích
β2. Có nhiều dạng chế phẩm của corticosteroid khác nhau được sử dụng như
dạng viên, dạng tiêm, dạng hít.
Thuốc tiêm: dùng để điều trị cấp cứu cơn hen cấp nặng; liều dùng 2 –
4mg/kg/ngày.
Thuốc viên : liều dùng 1mg/kg / ngày và dùng không quá 5 ngày.
Thuốc dạng hít: Corticosteroid dạng hít (Inhaler corticosteroid – ICS)
là thuốc hàng đầu trong dự phòng hen. ICS dạng hít là thuốc chống viêm


×