Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đề cương xã hội học giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.21 KB, 20 trang )

ĐỀ CƢƠNG XÃ HỘI HỌC GIỚI
1. Đầu tƣ giáo dục cho giới nào có lợi hơn? Vì sao?
Nếu xét về lợi ích kinh tế, đầu tƣ cho nam giới sẽ có lợi hơn
Về điều kiện học tập của phụ nữ: Phụ nữ thường xây dựng gia đình ở tuổi 20,
thời gian học tập của phụ nữ cần phải hoàn tất trước khi xây dựng gia đình và
sinh con. Phụ nữ có gia đình có thể theo đuổi tiếp việc học tập nhưng họ thường
vướng bận việc chăm sóc con cái. Phụ nữ đều phàn nàn rằng khi đã có gia đình
thì rất khó đi học bởi vì cuộc sống vất vả. Họ đều nói rằng sẽ đi học sau 2 – 3
năm nữa khi con cái đã lớn nhưng đến khi đó họ lại chăm sóc việc học tập của
con cái. Lựa chọn tốt nhất là đi học trước khi lập gia đình. Một số phụ nữ dự
định đi học sau khi lập gia đình nhưng điều này còn tùy thuộc vào điều kiện gia
đình họ. Nếu như cả 2 vợ chồng đều đi học, con cái của họ sẽ không có ai chăm
sóc. Một số người có bố mẹ giúp đỡ. Nếu gia đình nào khá hơn thì cả vợ và
chồng đều có thể đi học. Nếu cả 2 vợ chồng là công chức nhà nước và gia đình
họ lại không ở thành phố thì họ rất khó đi học tiếp. Lương của cán bộ nhà nước
không đủ để nuôi con trong khi việc học hành rất tốn kém. Mặt khác, trong xã
hội người ta cho rằng phụ nữ có công việc ổn định không cần phải học tiếp do
vậy phụ nữ không được khích lệ phát triển. Ngoài ra còn tùy thuộc vào người
chồng. Nếu người chồng thực sự quan tâm và không có định kiến thì người vợ
sẽ có cơ hội học tập. Nếu không, người phụ nữ không thể học tiếp. Nếu cố gắng
thuyết phục, có khi còn dẫn đến bạo lực.
Về cơ hội thăng tiến của phụ nữ: Phụ nữ thường xây dựng gia đình ở tuổi 20
và nghỉ hưu ở tuổi 55. Nam giới thường xây dựng gia đình ở tuổi 30 và nghỉ
hưu ở tuổi 60. Nam giới và nữ giới đi làm vào cùng một thời điểm, như vậy thời
gian công tác của phụ nữ ít hơn nam giới là 5 năm. Tại một số cơ quan Nhà
nước, có quy định rằng nhân viên có đủ điều kiện được cử đi học sau 3 – 5 năm
làm việc, như vậy là quá muộn đối với phụ nữ. Phụ nữ mất 5 năm làm việc,


tương ứng với một nhiệm kỳ để tham gia vào vị trí lãnh đạo. Vì vậy, phụ nữ
không chỉ cạnh tranh với nam giới về năng lực mà còn phải trưởng thành vượt


trước nam giới 5 năm. Rõ ràng là phụ nữ bị mất cơ hội.
Nếu xét về lợi ích phát triển bền vững, đầu tƣ cho nữ giới sẽ có lợi hơn
Vấn đề là phải làm thế nào để đầu tƣ GD cho phụ nữ?

2. Nguyên nhân của bạo hành trẻ em, bạo lực gia đình
* Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của
các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại… với các thành
viên khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói
một cách dễ hiểu hơn, đó là việc “các thành viên gia đình vận dụng sức mạnh
để giải quyết các vấn đề gia đình”. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức
thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi như là hình thức thu nhỏ của
bạo lực xã hội với rất nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể phân
chia bạo lực gia đình thành các hình thức chủ yếu sau:
– Bạo lực thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm
tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ
– Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới
danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
– Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của
thành viên gia đình (quyền tự do lao động, tự do kinh doanh, quyền sở
hữu tài sản…)
– Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong
các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép
sinh con.


Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác
nhau. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định các hành vi bạo lực bao
gồm:
– Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khoẻ, tính mạng;

– Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
– Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
– Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông,
bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với
nhau;
– Cưỡng ép quan hệ tình dục;
– Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
– Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài
sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các
thành viên gia đình;
– Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá
khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra
tình trạng phụ thuộc về tài chính;
– Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
* Gia đình: 287

*Nguyên nhân của bạo hành trẻ em:

– Trẻ em quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là công
dân Việt Nam dưới mưới sáu tuổi (2004). Bạo lực đối với trẻ em đa số do
những người trong gia đình của chính các em gây ra. Số ít hơn là những


người hàng xóm hoặc những mối quan hệ xã hội, cá biệt có cả trường hợp
là giáo viên ở trường của các em.
– Văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi″ bấy lâu nay
khiến cho người ta coi chuyện đánh con là bình thường là quyền của cha
mẹ là cho con lên người; do thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung và

pháp luật về quyền trẻ em nói riêng; về kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em của cộng đồng, gia đình và chính bản thân các em đã dẫn tới
mọi người vẫn cho rằng cha mẹ có quyền dạy con bằng đòn roi, bằng sự
xỉ nhục, hành hạ.
– Pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có hành vi bạo lực,
như Điều 110 Luật Hình sự có quy định ″Người nào đối xử tàn ác với đối
tượng là trẻ em lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
từ 1 năm đến 3 năm″. Mức án như vậy là quá nhẹ. Pháp luật về bảo vệ trẻ
em còn nhiều khoảng trống: chưa có quy định cụ thể về bảo vệ trẻ em là
nạn nhân, nhân chứng; chưa có quy định đặc biệt trong trường hợp nhận
tố giác từ trẻ em.
– Đã có Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nhưng thực hiện chưa nghiêm
túc. Tiếng nói và cách xử lý của chính quyền với các vụ cha, mẹ bạo hành
với con cái còn yếu. Cùng với thái độ thờ ơ, vô cảm của cộng đồng đã
dẫn tới nhiều trẻ em bị bạo lực nhiều lần, gây hậu quả khá nghiêm trọng
mà vẫn không bị xử lý trong khi Nghị định 114/2006/NĐ - CP đã quy
định mức phạt rất cụ thể.



Quyền và trách nhiệm của trẻ em luôn là vấn đề được luật pháp Việt Nam
và quốc tế đặc biệt quan tâm tới. Nhưng có một thực tế tồn tại là dường
như các em - chủ thể chính lại ít biết đến những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình. Đây là một bất lợi khi các em gặp những bất trắc trong cuộc
sống.


– Môi trường xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến bạo lực trẻ em như:
cha mẹ bị cuốn vào tệ nạn xã hội, nghiện hút, cờ bạc, rượu chè; cha mẹ
mâu thuẫn hoặc ly hôn, lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với con cái. Sự

lan truyền của văn hoá bạo lực, đồi truỵ qua nhiều kênh, đặc biệt là qua
Internet … dẫn đến các hành vi, hành xử tiêu cực, bạo lực mà nạn nhân
thường là trẻ em và lẽ tất nhiên sẽ tác động tới tư tưởng, đạo đức, lối sồng,
nhân cách của trẻ em.
– Gia đình nghèo, kinh tế khó khăn cũng là nguy cơ dẫn tới bạo lực gia
đình vì kinh tế khó khăn sẽ gây ra nhiều áp lực, căng thẳng, bế tắc dẫn
đến mâu thuẫn trong gia đình, hậu quả trẻ em phải hứng chịu.
– Yêu đương sớm, quan hệ tình dục bừa bãi có thai ngoài ý muốn cũng là
một nguyên nhân dẫn tới tội ác (giết chết, chối bỏ, hành hạ trẻ sơ sinh).
Có người nói tình trạng này đang ở mức ″Báo động đỏ″, nó cảnh báo một
vấn đề xã hội nghiêm trọng, hệ quả của suy thoái đạo đức và lối sống của
giới trẻ.
– Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự loại bỏ thai nhi
khi biết là gái, vứt bỏ trẻ sơ sinh là gái và bạo lực với trẻ em gái.

*Nguyên nhân của bạo lực gia đình: (các cấp độ cá nhân, gia đình,
cộng đồng, xã hội)
Phong tục, tập quán
Việt Nam là một nước Á Đông với tư tưởng gia trưởng còn nặng nề, điều
này có ảnh hưởng rất lớn tới vấn đề bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. Tính
gia trưởng được chấp nhận trong gia đình và ngoài xã hội đã tạo ra một vị trí
đặc biệt cho những người đàn ông trong gia đình: họ có "quyền" quyết định
những vấn đề quan trọng, quyết định thái độ ứng xử với các thành viên khác, họ
có quyền “dạy dỗ” vợ con theo ý mình... Thậm chí, có người coi việc sử dụng
bạo lực là ứng xử cần thiết để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đi cùng với đó là tư


tưởng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, " vợ chồng đóng cửa bảo nhau" nên những
việc trong gia đình thì những người khác thường không muốn can thiệp vào.
Đây là những yếu tố gây ra khó khăn rất lớn trong công tác phòng, chống bạo

lực gia đình hiện nay.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận những truyền thống tốt đẹp như:
kính già yêu trẻ, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ hay những triết lý Nho giáo
tiến bộ “phu thê cung kính như khách” đã và đang có những tác động tích cực
tới việc bảo vệ những thành viên yếu thế trong các gia đình: người già được
kính trọng, trẻ con được yêu thương, vợ chồng tôn trọng lẫn nhau… Những tư
tưởng này nếu được phát huy và áp dụng phù hợp với xã hội hiện nay thì sẽ góp
phần quan trọng, tích cực trong phòng, chống bạo lực trong các gia đình Việt
Nam
Tâm lý
Khái niệm tâm lý được đề cập ở đây không phải là tâm lý xã hội nói
chung mà là tâm lý của từng thành viên trong gia đình với tư cách là cha, mẹ,
con, anh, chị, em…với nhau và với vấn đề bạo lực gia đình.
Tâm lý của mỗi cặp vợ chồng nói chung vẫn là: “Phu xướng phụ tùy”, đề
cao vai trò tự chủ của đàn ông trong gia đình. Điều này có lúc đã làm mất đi
quyền tự vệ của người vợ trước những hành vi bạo lực của chồng mình. Điều
này đã ăn sâu vào suy nghĩ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam: vợ đánh chồng
luôn bị coi là hành vi xấu, bị cả xã hội lên án; còn người chồng đánh vợ thì mặc
nhiên được gọi là “biết dạy vợ”; hành vi “đòi hỏi” của người chồng luôn được
coi là chính đáng và người vợ có nghĩa vụ phải phục tùng theo… Hơn thế nữa,
với người đàn ông, việc sử dụng sức mạnh thể chất để khẳng định mình dường
như đã là một thói quen, một điều không thể thiếu; và thực sự khả năng kiềm
chế của họ cũng không bằng phụ nữ nên rất dễ “động chân động tay” khi phải
giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận


rằng: trong suy nghĩ của một số phụ nữ, việc đay nghiến, chì chiết chồng là
hoàn toàn bình thường, mà không hề nghĩ đó là hành vi bạo lực, gây ra những
tổn thương về tinh thần cho người chồng.
Cha mẹ luôn dành những tình cảm yêu thương, trân trọng cho con cái

mình. Song quan niệm về giáo dục của phần đông người Việt vẫn là “ yêu cho
roi cho vọt”. Chính vì vậy, việc cha mẹ đánh đập, mắng mỏ con cái được coi là
bình thường, thậm chí là cần thiết và không thể thiếu để dạy con thành người.
Những đứa con trong gia đình phải chấp nhận sự giáo dục này, và cuối cùng
cũng cảm thấy đó là bình thường để chịu đựng. Bên cạnh đó, nhiều bậc cha mẹ
vẫn có suy nghĩ con cái là “của mình”, nên mình có quyền đối xử tùy ý, người
khác không được can thiệp vào.
Với các thành viên khác trong gia đình, tâm lý “kính già yêu trẻ”, “kính
trên nhường dưới” vẫn được đề cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố
văn hóa, sự áp đặt của những thành viên lớn tuổi với các thành viên nhỏ hơn
trong gia đình là khá phổ biến và thường xuyên vì quan niệm “khôn không đến
trẻ, khỏe không đến già”. Trong xã hội hiện nay, điều này thường làm phát sinh
tư tưởng chống đối ở giới trẻ khiến các mối quan hệ trong gia đình trở nên căng
thẳng, dễ làm phát sinh bạo lực gia đình.
Điều kiện kinh tế xã hội
Điều kiện kinh tế xã hội luôn là yếu tố tác động mạnh tới các mối quan hệ
trong gia đình và ngoài xã hội. Kinh tế khó khăn thường gây nên sự căng thẳng,
tranh chấp trong gia đình, là nhân tố dẫn tới các hành vi bạo lực về thể chất, tinh
thần không đáng có. Việc thiếu thốn về vật chất cũng làm cho các thành viên
trong gia đình không có điều kiện giao lưu, học tập, tiếp cận những tri thức tiến
bộ cũng như không được định hướng về cách ứng xử trong gia đình, khiến tình
trạng bạo lực càng dễ có nguy cơ xảy ra. Tuy nhiên, ở rất nhiều gia đình, dù
điều kiện vật chất đầy đủ nhưng vẫn có hiện tượng bạo lực gia đình. Điều này


có thể được lý giải như sau: khi kinh tế phát triển, các thành viên trong gia đình
có xu hướng thỏa mãn các lợi ích cá nhân mà thiếu đi sự quan tâm chăm sóc tới
nhau; hoặc vì quá ham mê các lợi ích kinh tế mà phát sinh tranh chấp giữa
những người thân trong gia đình. Ở những gia đình này, bạo lực về tinh thần có
xu hướng phát triển hơn bạo lực về thể chất, kinh tế hay tình dục bởi vì những

nhu cầu này đều có thể được đáp ứng phần nào bằng tiền bạc.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa bên ngoài, xu
hướng bạo lực có chiều hướng gia tăng trong xã hội Việt Nam: mọi người đều
dễ dàng tìm đến việc sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh.
Ngoài ra, sự suy giảm các giá trị truyền thống cũng làm gia tăng những hành vi
bạo lực gia đình vốn hiếm gặp trước đây: Vợ đánh chồng, con cái đánh đập,
mắng chửi bố mẹ, bạo lực tình dục trong gia đình, đặc biệt là với trẻ em…
Định kiến giới
Quan niệm trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt
Nam từ hàng ngàn năm nay và thực sự đã và đang cướp đi nhiều quyền lợi
chính đáng của người phụ nữ. Người vợ, người mẹ thường không có được sự
tôn trọng xứng đáng trong gia đình, không được hưởng những quyền lợi về vật
chất, về tinh thần và thường xuyên phải chịu những tổn thương: bị đánh đập, bị
xúc phạm danh dự, bị cưỡng ép tình dục… Ngay cả với trẻ em, quan niệm “con
gái là con người ta” cũng khiến nhiều bé gái bị thiệt thòi hơn so với bé trai. Sự
bất bình đẳng về giới này được cả xã hội chấp nhận, thậm chí cả chính những
người phụ nữ cũng coi đó là bình thường. Điều này cũng là nguyên nhân trực
tiếp nhất dẫn tới nạn bạo hành với người phụ nữ trong gia đình.
Trình độ dân trí
Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng tới việc phòng, chống bạo lực gia đình
nêu trên đều có thể được giải quyết phần nào bằng việc nâng cao trình độ dân trí.
Khi được tiếp xúc với những tri thức tiến bộ, được hiểu biết về vai trò của gia


đình, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình cũng như những quy
định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình thì hành vi vi phạm trong
lĩnh vực này sẽ giảm xuống. Như đã phân tích ở trên, những yếu tố như tâm lý,
phong tục tập quán, quan điểm giới… đã làm cho những người có hành vi bạo
lực gia đình, nạn nhân và những người xung quanh, thậm chí cả những cơ quan
có thẩm quyền cho rằng hành vi đó là đúng, là được phép và không phải chịu

bất cứ trách nhiệm nào. Chính vì vậy mà tình trạng bạo lực gia đình vẫn phổ
biến và không được ngăn chặn một cách hiệu quả. Nhưng nếu trình độ dân trí
được nâng cao, vị trí của gia đình và mỗi thành viên gia đình được khẳng định,
kiến thức pháp luật được cung cấp đầy đủ thì những hành vi bạo lực sẽ khó có
cơ hội phát triển: nạn nhân hiểu rõ quyền của mình và có thể áp dụng những
biện pháp tự bảo vệ cần thiết; người có hành vi bạo lực biết tính chất sai trái của
hành vi và những hậu quả có thể phải gánh chịu, do đó sẽ phải cân nhắc kỹ càng;
những người xung quanh, những cơ quan có thẩm quyền khi biết được nghĩa vụ
và quyền lợi của mình sẽ tham gia phòng, chống bạo lực gia đình một cách tích
cực, chủ động hơn.
Tệ nạn xã hội: Lạm dụng rƣợu bia, cờ bạc, ma túy
Nghiên cứu bình đẳng giới ở Việt Nam cho thấy, tỷ lệ phụ nữ có chồng
uống rượu say bị chửi cao gấp 2,3 lần và bị đánh cao gấp 3,1 lần so với phụ nữ
có chồng không say rượu. Sa đà vào tệ cờ bạc, ma túy không chỉ gây nên những
tổn thất về kinh tế, khuynh gia bại sản, “cờ bạc là bác thằng bần, chơi đề ra đê
mà ở”,… khiến cho vợ con rơi vào tình cảnh đói khổ, mà còn gây nên bạo lực
đối với vợ và con cái.
Nguyên nhân khác: Tình cảm, ngoại tình, có vợ khác; sự thiếu hiểu
biết về pháp luật của cả phụ nữ và nam giới,…

3. Những yếu tố nào là nguyên nhân của bạo lực học đƣờng


*KN bạo lực học đƣờng: Trong nhiều bài viết của các tác giả về bạo lực học
đường đăng trên các báo và tạp chí gần đây, khi bàn về khái niệm bạo lực học
đường đều có đề cập đến các yếu tố như xâm hại, người gây hại, người bị hại,
mội trường học đường, môi trường giáo dục… là các yếu tố quan trọng hình
thành khái niệm.
Một cách tổng quát, chúng ta có thể hiểu bạo lực học đường là những hành vi
xâm hại đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ, tinh thần, uy tín, danh dự của người bị

hại trong môi trường học đường.
Có 3 mức độ tiếp cận khái niệm bạo lực học đường bao gồm:
2.1. Theo nghĩa hẹp: Là những hành vi xâm hại giữa học sinh với học sinh trong
cùng một trường diễn ra bên trong hay bên ngoài khuôn viên nhà trường.
2.2. Theo nghĩa rộng: Là những hành vi xâm hại giữa học sinh với học sinh
hoặc giữa học sinh với giáo viên hoặc giữa giáo viên với giáo viên diễn ra bên
trong hay bên ngoài khuôn viên nhà trường.
2.3. Theo nghĩa lấy học sinh làm trung tâm: Là những hành vi xâm hại mà chủ
thể gây hại là học sinh, người bị hại là bất kỳ ai diễn ra bên trong hay bên ngoài
khuôn viên nhà trường. Đây là cách tiếp cận được nhiền người quan tâm vì ý
nghĩa lý luận và thực tiễn của nó trong công tác giáo dục.

Mỗi cách tiếp cận sẽ có cách nhận diện và đưa ra các nguyên nhân, giải pháp
ngăn ngừa tương đối khác nhau về bạo lực học đường. Cách tiếp cận như trên
cũng giúp chúng ta phân biệt đâu là bạo lực học đường, đâu là không. Ví dụ một
phụ huynh học sinh vì bênh vực con vào trường gây gổ, hành hung thầy cô giáo,
một học sinh bị bọn trấn lột hành hung buộc phải chống trả tự vệ thì đó cũng
không phải là bạo lực học đường. Cần phân biệt bạo lực học đường với bạo lực
xã hội, đạo đức xã hội…


Có nhiều cách phân tích nguyên nhân của bạo lực học đường, nhìn chung có 4
nhóm nguyên nhân chính:
1. Nguyên nhân từ giáo dục của gia đình: Nhiều tác giả cho đây là nguồn
nguyên nhân chính của bạo lực học đường.
Gia đình là cái nôi đầu tiên định hình nhân cách cho trẻ. Tuy nhiên, trong những
năm qua, do nhiều nguyên nhân nên một bộ phận phụ huynh học sinh thiếu
quan tâm đến việc học tập, rèn luyện của con em mình. Họ “khoán” việc dạy dỗ
con cái cho người giúp việc, gia sư, nhà trường mà không biết rằng nhiều lắm
thì những tác nhân đó chỉ có thể giúp con cái họ có thêm kiến thức, hiểu biết về

học vấn mà không thể bù đắp sự thiếu vắng về tình cảm, về cảm xúc – những tố
chất quan trọng giúp trẻ có được trí tuệ cảm xúc, phát triển nhân cách toàn diện.
Hơn thế nữa là chính trong bản thân gia đình bố mẹ xảy ra mâu thuẫn, những
hành vi, thái độ của cha mẹ có ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các em. Môi
trường gia đình đặc biệt quan trọng bởi thời gian các em sống và học tập kinh
nghiệm sống nhiều nhất. Hầu hết các em được hỏi về nguyên nhân của hành vi
gây bạo lực đều cho rằng phần lớn các bạn có hành vi bạo lực đều xuất thân
trong gia đình mà bố mẹ có quan hệ bất hòa, gia đình bố mẹ li hôn… Việc phải
đối mặt trong thời gian dài với bạo lực súng, tình trạng nghiện rượu của cha mẹ,
bạo lực gia đình, lạm dụng thể chất trẻ em, và lạm dụng tình dục trẻ em dạy cho
trẻ rằng các hành động bạo lực là có thể chấp nhận. Kỷ luật thô bạo của cha mẹ
đi liền với những mức độ hung hăng cao hơn ở thanh niên. Như vậy nguyên
nhân gây ra hành vi bạo lực học đường bắt nguồn từ phía gia đình.
2. Nguyên nhân từ giáo dục của nhà trường: Nhiều tác giả cho đây là nguyên
nhân quan trọng do nhà trường chỉ chú trọng dạy chữ không chăm lo đầy đủ cho
việc dạy người, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn nhiều bất cập.
Nhà trường là môi trường thứ hai hình thành nhân cách cho trẻ. Tác động của
nhà trường không những chỉ giáo dục mà còn hình thành hình thành, hoàn thiện


bản thân học sinh hơn. Tuy nhiên thì một số tác động khác từ phía nhà trường
đó chính là: Cơ chế quản lí khu vực trường học chưa nghiêm ngặt, vai trò của
giáo viên chưa phát huy được hết vai trò: Thực tế cuộc sống đã và đang đòi hỏi
rất nhiều ở con người, đặc biệt là vai trò xã hội của giáo viên. Thu nhập còn
thấp, tuy nhiên đối với những người tâm huyết với nghề thì vấn đề đó không
ảnh hưởng đến lòng yêu nghề của giáo viên, nhưng các hiện tượng tiêu cực như
tham nhũng, thiếu công bằng, thiếu dân chủ… trong giáo dục khiến những giáo
viên tâm huyết buông xuôi, chán nản dẫn đến những lời nói, hành vi thiếu kiềm
chế. Vì vậy, không nên yêu cầu hay kêu gọi tâm huyết của nhà giáo một cách
chung chung mà phải có những cơ chế, chính sách, giải pháp để khuyến khích,

bảo vệ và nuôi dưỡng tâm huyết ấy. Hơn nữa mối quan hệ thầy trò “đã khác
xưa”: học trò ngang nhiên coi thường thầy, ngỗ ngược, vô lễ, thậm chí đánh giết
thầy ngay tại bục giảng! Phổ biến nhất là hiện tượng lười học, vi phạm kỉ cương
nề nếp, “dân chủ quá trớn”, nói năng, cư xử thiếu văn hoá… Đây là một yếu tố
khiến nhiều GV không kiềm chế được do cảm thấy bị xúc phạm nên đã có
những hành vi bạo lực.
3. Nguyên nhân từ phía giáo dục xã hội: Do tác động của mặt trái kinh tế kinh
tế thị trường, các mối quan hệ tiêu cực xã hội và truyền thông gây ra.
Ngoài phạm vi nhà trường và gia đình, học sinh còn chịu ảnh hưởng từ môi
trường thứ ba, đó là môi trường xã hội. Môi trường giúp các em hoạt động và
lớn lên, hoạt động của cá nhân là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển
nhân cách. Thực tế thời gian hoạt động của các em chủ yếu là ngoài xã hội mà
ngày nay một thực tế đáng báo động đó chính là sự du nhập nhiều nền văn hóa
ngoại lai, những nền văn hóa mà nếu không có sự chắt lọc và lựa chọn hợp lí thì
bản thân người tiếp nhận sẽ chịu tác động tiêu cực, ảnh hưởng của trò chơi điện
tử game online, phim ảnh, truyện tranh,… chủ yếu mang tính hành động bạo
lực… ảnh hưởng rất lớn đến hành động và suy nghĩ của cá nhân các em. Có
những bằng chứng cho thấy việc tiếp xúc với bạo lực trên vô tuyến và, ở một


mức độ nhỏ hơn, các trò chơi bạo lực liên quan tới sự gia tăng tính hung hãn ở
trẻ em, và sự hung hăng này lại có thể được đưa vào trường học. Kết quả khảo
sát thu được: Nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo lực học đường do ảnh hưởng
của game online 38.7%, những trò bạo lực, chém giết nhau được các em hưởng
ứng một cách thích thú.
Các cộng đồng có tỷ lệ tội phạm và sử dụng ma tuý cao dạy thanh niên những
hành động cư xử bạo lực và chúng lại được mang vào trường học. Việc tiếp xúc
với những người bạn hư hỏng là một yếu tố nguy cơ cho những mức độ hung
hãn cao.
Những biện pháp cụ thể, như thắt chặt an ninh, tăng cường kiểm tra, sử dụng

camera, tuyên truyền, vận động… nhưng điều quan trọng nhất không phải ở
những hành động bề ngoài. Một khi không có sự quan tâm đúng mức, một khi
không tạo cho học sinh một môi trường học tập, sinh sống lành mạnh thì bạo
lực vẫn cứ diễn ra không hình thức này thì hình thức khác, không lúc này thì lúc
khác
4. Nguyên nhân tâm lý từ chính bản thân người chưa thành niên: Do đặc
điểm tâm lý lứa tuổi, do người chưa thành niên không làm chủ bản thân mà ra.
Giai đoạn tuổi vị thành niên mang nhiều đặc điểm dễ chịu sự tác động từ bên
ngoài: dễ bị kích động, dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ
môi trường bên ngoài. Giai đoạn này là giai đoạn hình thành và phát triển nhân
cách của lứa tuổi vị thành niên, đặc biệt là đặc điểm tâm sinh lí đang phát triển:
Thích thể hiện cá tính, thích được mọi người quan tâm, chú ý, đặc điểm cơ bản
nhất: bắt đầu ý thức mình không còn là trẻ con, muốn được độc lập, muốn được
tôn trọng, quan tâm đến hình thức bên ngoài, thích tò mò khám phá, thử nghiệm,
đặc biệt giai đoạn này có những hành vi mang tính thử nghiệm, bốc đồng. Giai
đoạn lứa tuổi này chịu ảnh hưởng nhiều của bạn bè cùng trang lứa, quan tâm
đến bạn khác giới, dễ ngộ nhận tình bạn khác giới với tình yêu. Theo kết quả


của cuộc khảo sát thì nguyên nhân dẫn đến hành vi đánh nhau giữa các học sinh
nữ thì có tới 43.5% học sinh được hỏi cho rằng nguyên nhân dẫn đến hành vi
đánh nhau là do ghen tuông, tranh giành người yêu, 33.8% nguyên nhân “nhìn
ngứa mắt thì đánh”, còn một số nguyên nhân: chán học, thiếu kĩ năng sống,....

4. Đề xuất một đề cƣơng NC sơ bộ về 1 vấn đề thuộc lĩnh vực
XHH giới
1. Tên đề tài: Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở vùng ven đô thành phố Hà
Nội hiện nay (Nghiên cứu trường hợp của xã Kim Chung, Hoài Đức, Hà
Nội)
2. Lý do chọn đề tài:

Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho
nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ
nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những
mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên
bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ
được khoan dung, tha thứ..."
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm
tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp
và gián tiếp liên quan như: Hiến pháp năm 1992; Luật Hôn nhân và gia đình...
và đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Những chính sách này đã tạo
ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan hiện nay tình trạng
bạo lực trong gia đình chưa có nhiều thay đổi. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ
là thực trạng còn xảy ra ở nhiều gia đình vùng ven đô thành phố Hà Nội hiện
nay. Đây cũng là vấn đề của cộng đồng và xã hội. Nghiên cứu chỉ ra, trong các
loại bạo lực mà người phụ nữ phải chịu đựng từ chồng của mình thì bạo lực tinh


thần là chiếm nhiều nhất (54% phụ nữ cho biết đã phải chịu bạo lực tinh thần
trong đời và 25% cho biết đã bị bạo lực tinh thần trong 12 tháng qua).
Bạo lực gia đình là một vấn đề có tính cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy mà
tôi chọn đề tài này nhằm nghiên cứu, xem xét lại thực trạng, nguyên nhân
BLGĐ đối với phụ nữ. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đưa ra một bức tranh rõ
nét hơn về vấn đề bạo lực gia đình. Từ đó làm cơ sở cho các tổ chức xã hội có
cùng mối quan tâm kết hợp với nhau trong hoạt động ngăn ngừa và phòng
chống hiện tượng này

3. Đối tượng, khách thể, phạm vi:
– Đối tượng: Tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ
– Khách thể: Phụ nữ xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội

– Phạm vi:
+ Nội dung:
+ Không gian: Xã Kim Chung…
+ Thời gian:…
4. Mục tiêu NC, Nhiệm vụ NC
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở những quan điểm lý luận
về vấn đề giải phóng phụ nữ để làm rõ thực trạng bạo lực trong gia đình
đối với phụ nữ vùng ven đô Hà Nội (cụ thể là xã Kim Chung, Hoài Đức,
Hà Nội); từ đó khuyến nghị một số giải pháp cụ thể nhằm ngăn chặn tình
trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ nhằm giải phóng phụ nữ, thực
hiện bình đẳng giới nhằm đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở vùng
ven đô Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung.
Nhiệm vụ:
– Trình bày những cơ sở lý luận đối với vấn đề bình đẳng giới, giải phóng
phụ nữ.


– Mô tả thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình trên địa bàn xã
Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. (Về hình
thức, tính chất, mức độ nghiêm trọng,…)
– Phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực đối với phụ nữ
trong gia đình trên địa bàn xã Kim Chung hiện nay.
– Tác động của bạo lực gia đình đối với phụ nữ xã Kim Chung (tác động
thể chất, tinh thần). Hậu quả của bạo lực gia đình đối với xã hội.
– Xu hướng của vấn đề trong thời gian tới
– Khuyến nghị một số giải pháp nhằm giảm thiểu và tiến tới xóa bỏ bạo lực
gia đình đối với phụ nữ, góp phần vào công cuộc xóa bỏ bạo lực gia đình
trên cả nước, thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bình đẳng giới.
5. Câu hỏi NC và giả thuyết NC:
Câu hỏi:

1. Thực trạng… ntn?
2. Nguyên nhân dẫn đến… là gì?
3. Hậu quả (đối với bản thân phụ nữ và với xã hội nói chung)
4.Giải pháp nào giúp giảm thiểu…?
Giả thuyết:
– Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là thực trạng còn xảy ra ở nhiều gia đình
vùng ven đô thành phố Hà Nội hiện nay. Đây cũng là vấn đề của cộng
đồng và xã hội. Nghiên cứu chỉ ra, trong các loại bạo lực mà người phụ
nữ phải chịu đựng từ chồng của mình thì bạo lực tinh thần là chiếm nhiều
nhất (54% phụ nữ cho biết đã phải chịu bạo lực tinh thần trong đời và 25%
cho biết đã bị bạo lực tinh thần trong 12 tháng qua).
– Bạo lực trong gia đình diễn ra theo một chu kỳ. Dù là bạo lực thể chất,
tinh thần, tình dục hay kinh tế thì bạo lực cũng bắt đầu từ sự bất hòa căng
thẳng giữa hai vợ chồng, xảy ra bạo lực rồi tỏ ra hối hận của người chồng
và cố gắng lấy lại niềm tin của vợ và vợ chồng lại trở lại bình thường.


Các hành vi bạo lực thường được người vợ tha thứ nhưng vấn đề gây ra
bạo lực thì lại không được giải quyết triệt để và sau một thời gian, giai
đoạn bắt đầu lại xuất hiện và bạo lực lại xảy ra.
– Bạo lực gia đình là vấn đề phức tạp không do nguyên nhân đơn lẻ gây ra
mà là sự kết hợp nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau. Các yếu tố nguy cơ gây
bạo lực gia đình có thể được phân tích từ các cấp độ: cấp độ cá nhân, cấp
độ gia đình, cấp độ cộng đồng, cấp độ xã hội, trong đó nguyên nhân chính
là do bất bình đẳng giới. Chính sự bất bình đẳng sâu sắc trong quan hệ
giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ là nguyên nhân sâu xa và xuyên suốt
các vụ bạo lực trong gia đình.
– Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và xã hội.
Do đó việc xóa bỏ bạo lực gia đình không chỉ là trách nhiệm của riêng ai
mà đòi hỏi sự phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã

hội và quốc gia trong phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ khi nào công tác
phòng, chống bạo lực được triển khai có hiệu quả thì lúc đó gia đình mới
được coi là chốn bình yên và hạnh phúc của các thành viên trong gia đình
và chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc, bình đẳng và phát triển bền vững.

– Bạo lực gia đình là một vấn đề có tính cấp thiết hiện nay. Kết quả nghiên
cứu sẽ góp phần đưa ra một bức tranh rõ nét hơn về vấn đề bạo lực gia
đình. Từ đó làm cơ sở cho các tổ chức xã hội có cùng mối quan tâm kết
hợp với nhau trong hoạt động ngăn ngừa và phòng chống hiện tượng này.
6. Dự kiến phương pháp sử dụng:
6.1 Phƣơng pháp luận
Phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Báo cáo áp dụng quan điểm con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội của
chủ nghĩa duy vật biện chứng để khi thấy được tình trạng bạo lực đối với phụ


nữ trong gia đình là một quá trình đặt đối tượng người bị bạo hành và người bạo
hành trong tổng thể các mối quan hệ xã hội chứ không hoàn toàn tồn tại độc lập.
Cần xem xét các yếu tố xã hội đã ảnh hưởng tới vấn đề này như thế nào. Từ đó,
nhà quản lí có thể đưa ra những chính sách phù hợp, hiệu quả để giảm thiểu tình
trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, tiến tới xóa bỏ.
Báo cáo cũng vận dụng quan điểm thời điểm lịch sử có vai trò rất quan
trọng. Từ đó, ta thấy đối với vấn đề bạo lực phụ nữ trong gia đình cần phải xem
xét hoàn cảnh thời đại, điều kiện cụ thể hiện nay của địa phương để đưa ra
những khuyến nghị sát với thực tế, không xa rời thực tiễn và có tình ứng dụng
cao.
6.2 Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1 Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Phân tích nguồn tài liệu liên quan đến mảng bình đẳng giới, sự nghiệp

giải phóng phụ nữ, tình trạng bạo lực phụ nữ trong gia đình trên cả nước nói
chung và ở địa bàn nghiên cứu nói riêng.
6.2.2 Phƣơng pháp định tính
Mục đích sử dụng của phương pháp này là thu thập những thông tin có
chiều sâu từ phía khách thể nghiên cứu. Câu hỏi sử dụng trong phỏng vấn sâu
chủ yếu là những câu hỏi mở có tính chất gợi mở vấn đề cho người trả lời chia
sẻ không chỉ những thông tin cần thiết mà cả những đánh giá, thái độ của họ về
những vấn đề cần nghiên cứu. Thông tin này được sử dụng trong phần nội dung
chính và có vai trò làm rõ hơn, sâu hơn những nội dung phân tích. Dự kiến số
lượng phỏng vấn sâu sẽ thực hiện là 15 phỏng vấn sâu gồm có:… Quá trình
thực hiện các phỏng vấn sâu gồm có hai giai đoạn:
- Phỏng vấn sâu có tính chất thăm dò, thu thập những thông tin để từ đó
có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. Sau đó, chúng tôi sử dụng những


thông tin đó để chỉnh sửa lại nội dung bảng hỏi cho phù hợp với mục đích của
nghiên cứu
- Phỏng vấn sâu cung cấp những thông tin có chiều sâu được sử dụng để
phân tích trong phần nội dung chính
6.2.3 Phƣơng pháp định lƣợng
Mục đích sử dụng phương pháp này là thu thập những thông tin cần thiết
từ phía khách thể nghiên cứu. Từ đó, đưa ra những con số thống kê giúp cho
báo cáo có tính thuyết phục hơn. Thông tin thu được từ phương pháp này được
sử dụng trong phần nội dung chính của báo cáo và đưa vào sau những phân tích
để làm rõ những nội dung phân tích.
Công cụ sử dụng là bảng hỏi bán cấu trúc. Dung lượng mẫu được xác
định ban đầu là 160 người dành cho đối tượng là phụ nữ tại xã Kim Chung
(Hoài Đức, Hà Nội). Nguyên tắc chọn mẫu là chọn mẫu ngẫu nhiên.
7. Dự kiến nội dung báo cáo:
PHẦN MỞ ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
– Cơ sở lý luận:
+ Các khái niệm chính: Phụ nữ; Bạo lực gia đình; Bình đẳng
giới;…
+ Các lý thuyết sử dụng:
– Cơ sở thực tiễn:
+ Quan điểm của nhà nghiên cứu
+ Tổng quan về địa bàn nghiên cứu: xã Kim Chung, huyện
Hoài Đức, Hà Nội


Chương 2: Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ tại xã Kim
Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay (2010 –
2014)
Chương 3: Phân tích những guyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trong
gia đình đối với phụ nữ xã Kim Chung
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ



×