Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tiểu luận môn Chính sách xã hội: Chính sách xã hội với phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.01 KB, 53 trang )

Nhóm 7: CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ

Mục lục
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH.............................................................................................................................................4
Chương 1: Nhìn lại những chính sách quan trọng.......................................................................................4
1.2.Những mục tiêu cụ thể của chính sách đối với phụ nữ....................................................................4
Chương 2: Những chính sách cụ thể đối với phụ nữ...................................................................................7
2.1.4. Thực tế thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ...................................12
2.2.1. Những văn bản quy định riêng đối với lao động nữ...................................................................13
2.2.2. Mục tiêu của chính sách...............................................................................................................18
2.2.3. Nhận xét:......................................................................................................................................19
2.4.6. Giải pháp để thực hiện chính sách bảo vệ phụ nữ chống bạo lực gia đình...............................37
2.5.1. Mục tiêu........................................................................................................................................40
2.5.2. Đối tượng......................................................................................................................................41
2.5.3. Chính sách cụ thể.........................................................................................................................41
2.5.4 . Giải pháp chủ yếu........................................................................................................................43
2.5.6. Tổ chức thực hiện.........................................................................................................................46
2.5.7. Nhận xét:......................................................................................................................................49

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một bộ
phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động trong xã hội. Bằng
1


lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong
phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò không thể thiếu của mình
trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp sản
xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ tái sản xuất ra của cải vật chất,


phụ nữ còn tái sản xuất ra bản thân con người để duy trì và phát triển xã hội
Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn hoá
nhân loại. Nền văn hóa dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc nào cũng có sự tham
gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ. Song song với những hoạt động
góp phần sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, phụ nữ còn tích cực tham
gia đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại. Đó
là vai trò của người phụ nữ nói chung trên toàn thế giới và ngay tại Việt Nam vai
trò của người phụ nữ cũng rất quan trọng.
Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam tham gia tích cực vào việc giảm nghèo và
phát triển gia đình, cộng đồng và đất nước. Tuy nhiên, họ vẫn là nạn nhân của phân
biệt đối xử, bạo lực, bất bình đẳng giới và các rào cản xã hội khác trong việc tiếp
cận dịch vụ công, cơ hội việc làm và kinh tế, thu nhập, kiểm soát chính cơ thể
mình, đặc biệt là trong việc tham gia chính trị. Phần lớn thời gian, công việc của họ
tại nhà và tại nơi làm việc không được trả công, không được thừa nhận cho thỏa
đáng, và bị coi là những việc chỉ dành cho nữ.
Trong buổi tiếp các trưởng đoàn dự cuộc họp Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ
11 (WLN) của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra
vào tháng 9 – 2006 tại Hà Nội, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết khẳng định “Ðảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát
triển và hội nhập quốc tế”. Chủ tịch nêu rõ: "Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất
quan trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực
trong nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ
cương vị lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Vai trò của
phụ nữ hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân
dành tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Như vậy người phụ nữ có
một vị trí rất quan trọng trong xã hội.

2



Tuy nhiên năng lực của người phụ nữ vẫn không được đảm bảo và luôn bị
xâm phạm về các quyền lợi.
Ở Việt Nam vấn đề bất bình đẳng giới vẫn chưa được giải quyết triệt để mà
biểu hiện cụ thể là phụ nữ vẫn chưa được hưởng các quyền bình đẳng như của nam
giới.
Ví dụ quy định về độ tuổi nghỉ hưu của nữ vẫn chưa được sửa đổi hoặc trong
các cơ quan nhà nước và trong các cơ quan chính trị phụ nữ vẫn còn chiếm tỷ lệ
thấp so với nam giới. Trong khối Đảng nhiệm kỳ 2001-2005, trong các cơ quan
thuộc cấp TW, nữ giới chỉ chiếm 8.6%, trong khi đó nam giới chiếm 91.4 % .
Trong các cơ quan thuooccj cấp tỉnh thành phố, phụ nữ chỉ chiếm 11.32%, nam
giới chiếm 88.68%. Trong cấp huyện, quận, tỷ lệ nữ là 12.89% còn lại là nam giới.
Tại Việt Nam, hiện có tới 27,31% đại biểu nữ trong Quốc hội (cao nhất ở
châu Á và là một trong những nước tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới.
Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%.
Trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo ước tính gần 30%.
Trong số các doanh nghiệp toàn quốc , số các doanh nghiệp có giám đốc là
nữ chiếm khoảng 25%, đặc biệt có những thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, tỷ lệ này lên đến 31%. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ Việt Nam là 73, cao
hơn tuổi thọ của nam khoảng 3 tuổi.
Theo báo cáo của TW Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ 10 năm 2007, những khó khăn mà phụ nữ còn gặp phải là rình độ
học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của phụ nữ còn thấp ,cơ hội việc làm, thu nhập
còn hạn chế, phụ nữ nông thôn di cư tự phát ra thành phố ngày càng tăng. Đời sống
của một bộ phận phụ nữ còn khó khăn, nhất là phụ nữ vùng sâu vùng xa, tỷ lệ phụ
nữ nghèo còn cao, tỷ lệ phụ nữ mù chữ vẫn còn cao hơn so với nam giới.
PGS – TS LêThịQuý: “Công nghiệp vẫn được coi là lĩnh vực đặc quyền của
nam giới nhưng ngày nay, tỷ lệ lao động nữ đã chiếm 36,69% trong công nghiệp,
xâydựng. Phụ nữ cũng là người “giữ tay hòm chìa khóa” kinh tế của 60% hộ gia
đình trên toàn quốc . Hàng vạn phụ nữ đã phải xa gia đình, quê hương để di cư lao
động tới những vùng kinh tế phát triển trong nước hoặc ở nước ngoài. Họ lao động

3


chăm chỉ, tiết kiệm sinh hoạt để hy vọng có thể mang lại những cải thiện về thu
nhập, nâng cao mức sống cho gia đình.”
Trong gia đình, bên cạnh các công việc ở cơ quan giống như nam giới, phụ
nữ vẫn phải đảm nhận các vai trò khác trong gia đình như chăm sóc con cái, nội
trợ, dọn dẹp nhà cửa.
Hiện nay đã có một số chính sách được đưa ra nhằm đảm bảo sự bình đẳng
và quyền lợi của phụ nữ. Ví dụ như chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho
phụ nữ, chính sách đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho phụ nữ, chính sách thú đẩy
phụ nữ tham gia lãnh đạo,quản lý, chính sách bảo vệ phụ nữ….Mặc dù đã có
những kết quả khả quan Tuy nhiên những chính sách này còn bộc lộ nhiều hạn chế
và tồn tại nhiều bất cập.
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Nhìn lại những chính sách quan trọng.
Có rất nhiều chính sách xã hội của Đảng và nhà nước đã được ban hành
nhưng nhóm chúng tôi chỉ tập trung phân tích một số chính sách quan trọng sau:
Chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ, chính sách thúc đẩy phụ nữ
tham gia lãnh đạo, chính sách bảo vệ phụ nữ chống bạo lực gia đình ,chính sách hỗ
trợ việc làm cho phụ nữ, chính sách đối với lao động nữ.
1.1.

Mục tiêu chung của những chính sách đối với phụ nữ

Chiến lược có mục tiêu tổng quát là : "Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm
bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh
vàbền vững của đất nước."
1.2.


Những mục tiêu cụ thể của chính sách đối với phụ nữ

Chiến lược có 7 mục tiêu cụ thể, mỗi mục tiêu lại có những chỉ tiêu đo đếm
được. Các mục tiêu và các chỉ tiêu được nêu trong chiến lược là
Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh
đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị.

4


Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng nhiệm kỳ 20162020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%.
Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên
95%Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có
lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ
quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu
ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động.
* Mục tiêu 2: Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc
làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc
thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.
Chỉ tiêu 1: Hằng năm, trong tổng số người được tạo việc làm mới, bảo đảm
ít nhất 40% cho mỗi giới (nam và nữ).
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015 và từ 35%
trở lên vào năm 2020.
Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và
chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu

cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn
tín dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015 và 100% vào năm 2020.
* Mục tiêu 3: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảmsự
tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt 90% vào năm 2015
và 95% vào năm 2020.
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 40% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020. Tỷ
lệ nữ tiến sỹ đạt 20% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020.
5


* Mục tiêu 4: Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe.
Chỉ tiêu 1: Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh trai/100
trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020.
Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống
58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và xuống dưới 52/100.000 vào năm 2020.
Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận dịch vụ chăm sóc và
dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con lên 40% vào năm 2015 và lên 50% vào
năm 2020 so với năm 2010.
Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ phá thai xuống 27/100 trẻ đẻ sống vào năm 2015 và
xuống dưới 25/100 vào năm 2020.
* Mục tiêu 5: Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin.
Chỉ tiêu 1: Đến năm 2015 giảm 60% và đến năm 2020 giảm 80% sản phẩm
văn hoá, thông tin mang định kiến giới. Tăng thời lượng phát sóng các chương
trình, chuyên mục và số lượng các sản phẩm tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng
giới.
Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 có 90% và đến năm 2020 có 100% đài phát thanh
và đài truyền hình ở trung ương và địa phương có chuyên mục, chuyên đề nâng cao

nhận thức về bình đẳng giới.
* Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước
xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới.
Chỉ tiêu 1: Rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình
của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và xuống 1,5 lần vào năm 2020.
Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 đạt 40% và đến năm 2020 đạt 50% số nạn nhân của
bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn về pháp lý và sức khỏe, được hỗ trợ và
chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình. Đến năm 2015 đạt 70% và
đến năm 2020 đạt 85% số người gây bạo lực gia đình được phát hiện được tư vấn
tại các cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình.

6


Chỉ tiêu 3: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% số nạn nhân bị
buôn bán trở về thông qua trao trả, được giải cứu, số nạn nhân bị buôn bán tự trở
về được phát hiện được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng.
* Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Chỉ tiêu 1: Đến năm 2015 có 80% và đến năm 2020 có 100% dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới
hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới được lồng ghép vấn đề
bình đẳng giới.
Chỉ tiêu 2: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% thành viên các
Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác
định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới,
phân biệt đối xử về giới được tập huấn kiến thức về giới, phân tích giới và lồng
ghép giới.
Chỉ tiêu 3: Đến năm 2015 và duy trì đến năm 2020 các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương bố trí đủ cán bộ làm công tác bình đẳng giới; hình thành đội ngũ
cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của

phụ nữ.
Chỉ tiêu 4: Đến vào năm 2015 và duy trì đến năm 2020 có 100% cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở các
cấp, các ngành được tập huấn nghiệp vụ ít nhất một lần.

Chương 2: Những chính sách cụ thể đối với phụ nữ
2.1.

Chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ:

Quyết định số 136/2000/QĐ-TTg của Chính phủ : Về việc phê duyệt "Chiến
lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010".
2.1.1. Các mục tiêu về chăm sóc sức khoẻ sinh sản:
2.1.1.1. Mục tiêu chung:
7


Bảo đảm đến năm 2010 tình trạng sức khoẻ sinh sản được cải thiện rõ
rệt và giảm được sự chênh lệch giữa các vùng và các đối tượng bằng cách đáp ứng
tốt hơn những nhu cầu đa dạng về chăm sóc sức khoẻ sinh sản (CSSKSS) phù hợp
với điều kiện của các cộng đồng ở từng địa phương, đặc biệt chú ý đến các vùng và
đối tượng có khó khăn.
2.1.1.2. Mục tiêu cụ thể:
Tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, cũng như sự ủng hộ và cam kết
thực hiện các mục tiêu và các nội dung của CSSKSS trong mọi tầng lớp nhân dân,
trước hết trong cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu trong các tổ chức, đoàn
thể.
Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh. Bảo đảm quyền sinh con và lựa chọn
các biện pháp tránh thai có chất lượng của phụ nữ và các cặp vợ chồng. Giảm có
thai ngoài ý muốn và các tai biến do nạo hút thai.

Nâng cao tình trạng sức khoẻ của phụ nữ và các bà mẹ, giảm tỷ lệ bệnh
tật, tử vong mẹ, tử vong chu sinh và tử vong trẻ em một cách đồng đều hơn giữa
các vùng và các đối tượng, đặc biệt chú ý các vùng khó khăn và các đối tượng
chính sách.
Dự phòng có hiệu quả để làm giảm số mắc mới và điều trị tốt các bệnh
nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây qua đường tình dục, kể cả HIV/AIDS
và tình trạng vô sinh.
CSSKSS tốt hơn cho người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi, phát hiện
và điều trị sớm các trường hợp ung thư vú và các ung thư khác của đường sinh sản
nam và nữ.
Cải thiện tình hình sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành
niên, thông qua việc giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ CSSKSS phù hợp
với lứa tuổi.
Nâng cao sự hiểu biết của phụ nữ và nam giới về giới tính và tình dục để
thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm sinh sản, xây dựng quan hệ tình dục an
toàn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm nâng cao sức khoẻ sinh
sản và chất lượng cuộc sống.
2.1.2. Nội dung chính sách

8


Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản được thực hiện thông
qua các hoạt động cụ thể theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (2001 - 2005):
Tiếp tục duy trì các hoạt động giáo dục, tuyên truyền vận động cũng như
việc cung cấp các dịch vụ sẵn có, xây dựng và gìn giữ một môi trường thuận lợi
cho công tác CSSKSS.
Sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ, các tài liệu đào tạo, các văn bản
quy định và hướng dẫn việc cung cấp các dịch vụ; thực hiện chiến lược phát triển

nhân lực, kiện toàn hệ thống quản lý, giám sát về chuyên môn nghiệp vụ cũng như
về quản lý tài chính và nguồn lực.
Từng bước lồng ghép một số thành tố mới của SKSS vào gói dịch vụ hiện
hành.
Xây dựng cơ chế phối hợp với các đối tác tham gia lĩnh vực SKSS trong
việc thực hiện những hoạt động CSSKSS ở các cấp.
Xây dựng hệ thống thông tin dựa trên các chỉ số về giới và SKSS đã được
chọn lựa để thực hiện các hoạt động giám sát và đánh giá.
Lựa chọn các nghiên cứu thực địa về một số ưu tiên trong CSSKSS, xây
dựng thành công các mô hình để nhân rộng trong cả nước.
Đẩy mạnh các hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu CSSKSS của vị
thành niên và động viên sự tham gia của nam giới trong lĩnh vực SKSS.
Tăng cường thông tin và cung cấp dịch vụ cho vùng sâu, vùng xa và vùng
đồng bào dân tộc.
Giai đoạn 2 (2006 - 2010):
Tiếp tục các hoạt động đã bắt đầu trong giai đoạn 1.
Tập trung xây dựng các chỉ số tác động toàn diện hơn cùng với các chỉ số
giám sát nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng chăm sóc.
Phát triển việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ CSSKSS theo quan niệm
rộng ở mọi cấp.
Thể chế hoá việc lập kế hoạch, kiểm tra và đánh giá của các nhà quản lý
trên cơ sở sử dụng tốt các số liệu có độ tin cậy cao hơn.
Tiếp tục thực hiện các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá
và thông tin - giáo dục - truyền thông có chất lượng để không ngừng cập nhật kỹ
năng và trình độ cho cán bộ.
Trong quá trình thực hiện Chiến lược, cần luôn luôn chú trọng đến việc
phát triển năng lực đi đôi với việc xác định phương hướng đầu tư các nguồn lực
một cách có hiệu quả nhất để bảo đảm sự phát triển bền vững của Chiến lược.
9



Điều 2. Bộ Y tế là cơ quan chủ quản thực hiện Chiến lược, phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kiểm tra, giám sát
và tổng hợp tình hình thực hiện Chiến lược hàng năm để báo cáo Thủ tướng Chính
phủ; tổ chức sơ kết thực hiện Chiến lược vào giữa năm 2005 và tổng kết việc thực
hiện Chiến lược vào năm 2010.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
2.1.3. Giải pháp thực hiện chính sách
Tăng cường thông tin - giáo dục - truyền thông:
Sử dụng đa dạng và có hiệu quả các kênh truyền thông và các hình thức
thông tin, giáo dục truyền thông khác, tiếp cận đến mọi đối tượng để nâng cao
nhận thức, tri thức, hiểu biết và cam kết thực hiện các mục tiêu và nội dung của
CSSKSS.
Kiện toàn hệ thống tổ chức và phát triển nhân lực để cung cấp dịch
vụ CSSKSS:
Củng cố, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phối hợp công tác
trong các cơ sở y tế, các cơ sở bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hoá gia
đình kể cả khu vực nhà nước và tư nhân; lồng ghép với các chương trình khác như
Dân số - kế hoạch hoá gia đình, Dinh dưỡng, Phòng chống HIV/AIDS; kiện toàn
hệ thống tổ chức và đào tạo bồi dưỡng cán bộ về CSSKSS, bảo đảm cung cấp đầy
đủ các trang thiết bị, kể cả các thiết bị thông tin liên lạc, vận chuyển cấp cứu,
phương tiện giáo dục truyền thông, thuốc để thực hiện một cách tốt nhất các kỹ
thuật chẩn đoán, dự phòng, cấp cứu, điều trị.
Hoàn thiện các chính sách và pháp luật hỗ trợ cho Chiến lược:
Nghiên cứu các chính sách và trình các cấp có thẩm quyền ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng gia đình quy mô nhỏ, bình đẳng giới,
khuyến khích áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, khuyến khích cán bộ y tế

học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, thu hút cán bộ y tế phục vụ ở cơ sở, ở những
vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh.
Nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thụ thai trong
ống nghiệm, mang thai hộ, chuyển giới tính...
10


Xã hội hoá, hợp tác liên ngành và hợp tác quốc tế:
Đẩy mạnh sự hợp tác giữa các Bộ, ngành, tổ chức xã hội, huy động sự
tham gia của nhân dân, của toàn xã hội, kể cả sự tham gia của khu vực y tế tư nhân
vào việc thực hiện các hoạt động CSSKSS, đa dạng hoá các hình thức cung cấp
dịch vụ tư vấn về SKSS cho các đối tượng; mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc
hợp tác quốc tế song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi Chính phủ trong lĩnh vực CSSKSS.
Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
Tăng cường đào tạo cán bộ chuyên môn y tế về CSSKSS, đặc biệt là cán bộ
y tế tuyến cơ sở. Chú trọng đào tạo thực hành, rèn luyện tay nghề vững chắc, bồi
dưỡng kỹ năng truyền đạt, giao tiếp với các loại đối tượng và với cộng đồng. Tập
trung nghiên cứu vấn đề vô sinh, nuôi con bằng sữa mẹ, các bệnh của hệ thống
sinh dục đặc biệt là ung thư ở các cơ quan sinh sản, sức khoẻ tình dục và hành vi
tình dục, sức khoẻ sinh sản vị thành niên, sức khoẻ sinh sản nam giới và kiến thức,
thái độ và thực hành liên quan đến SKSS và một số vấn đề khác có liên quan để
nâng cao chất lượng CSSKSS.
Nguồn kinh phí phục vụ cho CSSKSS:
Nguồn kinh phí phục vụ cho CSSKSS bao gồm ngân sách nhà nước, bảo
hiểm y tế, viện phí và dịch vụ phí, các nguồn hợp tác song phương và đa phương
của các tổ chức phi chính phủ và sự đóng góp của cộng đồng; trong đó nguồn ngân
sách nhà nước là chủ yếu và được bố trí thành một khoản riêng trong mục lục ngân
sách của các cấp để sử dụng chủ yếu cho việc tăng cường nhân lực, đào tạo bổ túc
cán bộ, thông tin giáo dục truyền thông, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ

thuật, bổ sung một phần cơ sở vật chất - kỹ thuật, tăng cường công tác quản lý,
điều phối và hỗ trợ các ban, ngành trong các hoạt động về SKSS. Nguồn ngân sách
nhà nước bố trí theo kế hoạch. Bộ Tài chính cân đối các khoản này, bố trí một
khoản riêng và ghi trong kế hoạch nhà nước hàng năm.
Về lãnh đạo và quản lý:
Tăng cường công tác quản lý và điều phối các hoạt động CSSKSS, trong
đó có việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý y tế, thông tin về
CSSKSS.

11


2.1.4. Thực tế thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ.
Phần lớn các địa phương trong cả nước đều tổ chức thực hiện các hoạt động
nhằm chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. Có thể kể đến các hoạt đông như:
Tổ chức khám thai định kỳ hàng tháng cho phụ nữ có thai.
Tổ chức các buổi tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về chăm sóc sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hóa gia đình.
Phát bao cao su, thuốc tránh thai miễn phí.
Khám phụ khoa định kỳ cho phụ nữ.
2.1.5: Nhận xét:
Việc thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ đã đạt
được những kết quả khả quan.
Nâng cao trình độ nhận thức, cung cấp nhiều kiến thức về sức khỏe sinh sản
và chăm sóc thai nhi cho phụ nữ.
Phòng tránh được tình trạng nạo phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi….
Thông qua hoạt động khám, chữa định kỳ, nhiều chị em phụ nữ đã phát hiện
sớm và điều trị kịp thời các bệnh liên quan đến sức khỏe sinh sản.
Thông qua hoạt động tuyên truyền, góp phần thay đổi nhận thức và hành của
nam giới trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ.

Tuy nhiên, trong việc thực hiện chính sách này vẫn còn nhiều hạn chế. Điển
hình như:
Phụ nữ ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa vẫn còn chưa được tiếp
cận và hưởng những quyền lợi mà chính sách này đem lại.
Tình trạng nạo phá thai và lựa chọn giới tính thai nhi có xu hướng ngày càng
tăng. Nhất là đối với lứa tuổi vj thành niên. Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe thể chất và tinh thần của phụ nữ.
Tình trạng sinh con thứ 3 ở nhiều địa phương vẫn còn nhiều.
Nhiều nơi còn chưa tổ chức được các buổi tuyên truyền, tập huấn, phổ biến
kiến thức chăm sóc sức khỏe nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
nói riêng.
Nhận thức của nhiều phụ nữ về vấn đề sức khỏe sinh sản ở nhiều nơi vẫn
còn thấp. Nhiều phụ nữ còn có thái độ ngại ngùng, tâm lý e ngại.
12


Đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác viên về chăm sóc sức khỏe sinh sản còn
thiếu và yếu về năng lực, trình độ.
Cơ sở vật chất, kỹ thuât và đội ngũ cán bộ của các cơ sở y tế ở nhiều địa
phương vẫn còn nhiều hạn chế.
2. 2. Chính sách đối với lao động nữ
2.2.1. Những văn bản quy định riêng đối với lao động nữ
Điều 109
1. Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của người phụ nữ bình đẳng về mọi
mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều
kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm
việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao
việc làm tại nhà.
2. Nhà nước có chính sách và biện pháp từng bước mở mang việc làm, cải
thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng

cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ
phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và
cuộc sống gia đình.
Điều 110
1. Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo
thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm người lao động nữ còn có thêm
nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc
điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ.
2. Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
Điều 111
1. Nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ
nữ, xúc phạm danh dự và nhân phẩm phụ nữ.
Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về
tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động.
13


2. Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người
đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh
nghiệp đang cần.
3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản,
nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Điều 112
1. Người lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động mà không phải bồi thường theo quy định tại Điều 41 của Bộ Luật này, nếu có
giấy của thầy thuốc chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
Trong trường hợp này, thời hạn mà người lao động nữ phải báo trước cho người sử
dụng lao động tùy thuộc vào thời hạn do thầy thuốc chỉ định.

Điều 113
1. Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh
hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
2. Doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên
phải có kế hoạch đào tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang công việc khác
phù hợp, tăng cường các biện pháp bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động
hoặc giảm bớt thời giờ làm việc.
3. Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ bất kỳ độ
tuổi nào làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ hoặc ngâm mình dưới nước.
Điều 114
1. Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con, cộng lại từ bốn
đến sáu tháng do Chính phủ quy định, tùy theo điều kiện lao động, tính chất công
việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con
thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Quyền lợi của người
lao động nữ trong thời gian nghỉ thai sản được quy định tại Điều 141 và Điều 144
của Bộ luật này.
14


2. Hết thời gian nghỉ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu,
người lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thỏa
thuận với người sử dụng lao động. Người lao động nữ có thể đi làm việc trước khi
hết thời gian nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ ít nhất được hai tháng sau khi sinh và có
giấy của thầy thuốc chứng nhận việc trở lại làm việc sớm không có hại cho sức
khỏe và phải báo cho người sử dụng lao động biết trước. Trong trường hợp này,
người lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản, ngoài tiền lương của
những ngày làm việc.
Điều 115

1. Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ có thai từ
tháng thứ bảy hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và
đi công tác xa.
2. Người lao động nữ làm công việc nặng nhọc, khi có thai đến tháng thứ
bảy được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc giảm bớt một giờ làm việc hàng
ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
3. Người phụ nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút;
trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời
gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương.
Điều 116
1. Nơi có sử dụng lao động nữ, phải có chỗ thay quần áo, buồng tắm và
buồng vệ sinh nữ.
2. Ở những nơi sử dụng nhiều lao động nữ, người sử dụng lao động có trách
nhiệm giúp đỡ tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí cho lao
động nữ có con ở lứa tuổi gửi trẻ, mẫu giáo.
Điều 117
1. Trong thời gian nghỉ việc để đi khám thai, để thực hiện biện pháp kế
hoạch hóa gia đình hoặc do sảy thai; nghỉ để chăm sóc con dưới bảy tuổi ốm đau,
nhận trẻ sơ sinh làm con nuôi, người lao động nữ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã
hội hoặc được người sử dụng lao động trả một khoản tiền bằng mức trợ cấp bảo
hiểm xã hội. Thời gian nghỉ việc và chế độ trợ cấp nói tại khoản này do Chính phủ
15


quy định. Trường hợp người khác thay người mẹ chăm sóc con ốm đau, thì người
mẹ vẫn được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
2. Hết thời gian nghỉ thai sản theo chế độ và cả trong trường hợp được phép
nghỉ thêm không hưởng lương, khi trở lại làm việc, người lao động nữ vẫn được
bảo đảm chỗ làm việc.
Điều 118

1. Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ phải phân công người trong
bộ máy quản lý điều hành doanh nghiệp làm nhiệm vụ theo dõi vấn đề lao động
nữ; khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền lợi và lợi ích của phụ nữ và
trẻ em, phải tham khảo ý kiến của đại diện những người lao động nữ.
2. Trong số Thanh tra viên lao động phải có tỷ lệ thích đáng nữ Thanh tra
viên.
Chế độ thai sản:
1. Điều kiện hưởng:
Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường
hợp sau:
Lao động nữ mang thai;
Lao động nữ sinh con;
Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi;
Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
Đối với lao động nữ sinh con và người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4
tháng tuổi phải có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời
gian 12 tháng trước
khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
2. Quyền lợi được hưởng:

16


2.1. Thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản: Người lao động được nghỉ
việc hưởng trợ cấp thai sản do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả cho thời gian nghỉ (kể
cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần) như sau:
Sinh con được nghỉ 4 tháng nếu làm việc ở điều kiện bình thường; 5 tháng
nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm kể cả lao động làm
nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc theo chế độ
3 ca, làm việc từ đủ 6 tháng trở lên ở nơi có phụ cấp khu vực 0,7 trở lên trong thời

gian 12 hai tháng trước khi sinh con; 6 tháng đối với lao động nữ là người tàn tật.
Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ nêu trên thì tính từ con thứ hai trở
đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày;
Sau khi sinh, nếu con dưới 60 ngày tuổi chết thì mẹ được nghỉ việc 90 ngày
kể từ ngày sinh con; nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên chết thì mẹ được nghỉ 30 ngày
kể từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt
quá thời gian được nghỉ khi sinh con theo quy định;
với trường hợp sau khi sinh con mà mẹ chết:
Nếu cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội hoặc chỉ có cha tham gia
bảo hiểm xã hội, thì cha nghỉ việc chăm sóc con được hưởng chế độ thai sản cho
đến khi con đủ 4 tháng tuổi;
Nếu chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội, thì cha hoặc người trực tiếp nuôi
dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi;
Nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi được nghỉ hưởng chế độ thai sản cho
đến khi con đủ 4 tháng tuổi;
Khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì lao động nữ được nghỉ
hưởng chế độ thai sản 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu thai từ 1 tháng
đến dưới 3 tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến dưới 6 tháng; 50 ngày nếu thai
từ 6 tháng trở lên;
Khi đặt vòng tránh thai được nghỉ 7 ngày và khi thực hiện biện pháp triệt
sản được nghỉ 15 ngày;
Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 5
lần, mỗi lần 1 ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý
17


hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai; thời gian
nghỉ khám thai không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Mức hưởng: Bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn
cứ đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Quyền lợi khác:
Trợ cấp một lần: Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con
nuôi dưới 4 tháng tuổi, thì được trợ cấp một lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung
cho mỗi con; trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết khi sinh
con thì cha được trợ cấp một lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con.
Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe: Lao động nữ sau thời gian nghỉ hưởng
chế độ do sinh con, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu mà sức khỏe còn yếu thì
được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 5 đến 10 ngày một năm tùy thuộc vào
tình trạng sức khỏe; mức hưởng cho một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu
chung nếu nghỉ tại gia đình và bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại
cơ sở tập trung.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng bảo
hiểm xã hội, thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải
đóng bảo hiểm xã hội.
2.2.2. Mục tiêu của chính sách.
Tạo cơ hội việc làm, thu nhập, tiền lương và các tiêu chuẩn lao động, quan
hệ lao động có lợi cho phụ nữ nhằm phát huy vai trò sáng tạo của lao động nữ, bảo
vệ sức khỏe cho cả mẹ và con để duy trì phát triển nguồn nhân lực trong tương lai,
Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định cụ thể thêm nghĩa vụ của người sử dụng
lao động đối với lao động nữ trong việc bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới không
chỉ trong tuyển dụng, sử dụng mà còn cả trong đào tạo, thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi, tiền lương và các chế độ khác.
Việc tăng thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con lên
06 tháng, lao động nữ có thể nghỉ trước khi sinh không quá 2 tháng là sự cần thiết
nhằm bảo đảm sức khỏe của lao động nữ và trẻ sơ sinh. Hiện tại, Việt Nam đang
nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cao nhất
nhì thế giới, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi (hiện tại toàn quốc còn trên
18



31,8%). Một trong số các nguyên nhân là do trẻ em không được bú sữa mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu. Theo thống kê của Bộ Y tế năm 2010, chỉ có hơn 18% trẻ
em Việt Nam được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời. Do vậy, Bộ luật
Lao động quy định về thời gian nghỉ thai sản 6 tháng nhằm đáp ứng khuyến nghị
của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Nhi đồng của Liên Hiệp Quốc
(UNICEF) về việc “nuôi con từ 0- 6 tháng tuổi hoàn toàn bằng sữa mẹ”. Ngoài ra,
Bộ luật Lao động còn quy định quyền đi làm việc sớm sau khi đã nghỉ thai sản ít
nhất là 04 tháng. Có thể nói đây là những chính sách mới đã được cân nhắc một
cách kỹ lưỡng trên nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ nhằm bảo đảm mục tiêu
bình đẳng thực chất mà còn nhằm thúc đẩy, phát huy vai trò của phụ nữ trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2.2.3. Nhận xét:
Chính sách đưa ra thể hiện sự quan tâm của Đangr và nhà nước đối với lao
động nữ, chính sách được áp dụng rộng rã trong tất cả các lĩnh vực của lao động,
có sự ưu tiên về các chế độ cho phụ nữ như: chế độ nghỉ ngơi, chế độ thai sản,
Hạn chế của chính sách:
Hoạt động công tác nữ công ở một số ngành, địa phương, cơ sở còn mang
tính hình thức, chưa nắm chắc và phản ánh kịp thời tư tưởng, tâm trạng, nguyện
vọng của lao động nữ. Chưa cụ thể hóa rõ nội dung, hình thức hoạt động cho phù
hợp với từng loại hình cơ sở, từng đối tượng lao động nữ. Việc phát hiện, bồi
dưỡng, phát triển nhân tố mới là lao động trực tiếp còn chưa nhiều. Trong công tác
tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác nữ công, nhiều nơi còn khoán trắng cho Ban nữ
công đại diện. Đội ngũ cán bộ nữ làm công tác nữ công mặc dù có sự phát triển,
song nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới.
Ở nhiều các doanh nghệp và các công ty vẫn chưa thực hiện tốt theo quy
định của chính sách. Ví dụ như thời gian nghỉ ngơi quá ít, chê độ dinh dưỡng
không đảm bảo cho sức khỏe.
Chính sách bảo hiểm đối với lao động nữ: chưa có sự quan tâm của cấp trên,
Chính sách nghỉ ngày lễ đối với công nhân lao động không đúng với quy định của
nhà nước.

Chế độ nghỉ hưu đối với lao động nữ: Chưa được sửa đổi.
19


Có sự bất bình đẳng trong chế độ tiền lương: lương của phụ nữ chỉ bằng
khoảng 50-80% so với nam giới.
Chính sách bảo hộ lao động nữ, lao động phụ sản có nhiều tiến bộ tuy nhiên
an toàn vệ sinh lao động ( Vệ sinh lao động nữ ) chưa thuwcjj hiện tốt ở các cơ sở
kinh tế ( cơ sở nhỏ ngoài quốc doanh), yếu tố gây ô nhiễm môi trường sản xuất đã
vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Lao động nặng độc hại nữ chiếm 76%, có 8.66% cơ sở sản xuất có lao động
nữ làm các nghề cấm sử dụng lao động nữ( Hóa chất, vật liệu xây dựng ).
Lao động nữ vẫn còn nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản,
về cơ hội được đào tạo, đào tạo lại, cơ hội thăng tiến; vẫn còn định kiến giới, phân
biệt đối xử với lao động nữ trong tuyển dụng, khi bố trí sắp xếp nhân sự; trong lĩnh
vực lao động, việc làm, lao động nữ hiện vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với
nam giới, thường có xu hướng bị thất nghiệp cao hơn, đặc biệt trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ lao động nữ bị thất nghiệp đã tăng từ 6% năm 2007 lên
7% năm 2009. Nhiều doanh nghiệp việc làm của lao động nữ không ổn định, điều
kiện lao động, thu nhập tiền lương không đảm bảo, nhất là chị em làm việc ở
ngành nghề nặng nhọc, độc hại, vùng sâu, vùng xa. (Tại hội thảo về bình đẳng giới
năm 2010 cho biết lương bình quân của lao động nữ chỉ bằng 85% nam giới, cùng
một công việc như nhau, thu nhập trung bình của nữ giới bao giờ cũng ít hơn nam
giới. Một nửa tiềm năng của lao động nữ vẫn chưa được khai thác, hiện vẫn còn
nhiều phụ nữ chưa được tham gia vào lĩnh vực kinh tế. Đây là một lãng phí rất lớn)
. Các chế độ chính sách, mục tiêu quốc gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ
của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai đồng bộ; một số cấp uỷ đảng, chính
quyền, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến cán bộ nữ.
Công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa thực sự được quan tâm đúng mức,
việc đề bạt cán bộ nữ ở các cấp còn nhiều bất cập, tỷ lệ nữ tham gia vào cấp uỷ,

chính quyền, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành còn thấp so với tỷ lệ
lao động nữ và so với nam giới ở các cương vị lãnh đạo.
Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, trình độ quản lý, trình
độ chính trị... của phụ nữ nhìn chung còn thấp so với nam giới, vẫn còn bộ phận
chị em thiếu ý thức vươn lên, còn biểu hiện tư tưởng hẹp hòi, định kiến, níu kéo

20


nhau. Tư tưởng trọng nam hơn nữ còn khá phổ biến, tình trạng bạo lực gia đình
ngày một gia tăng, gánh nặng gia đình cũng làm cản trở sự tiến bộ của phụ nữ.
2.3. Chính sách thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo:
2.3.1. Một số văn bản quy định.
Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về “Công tác Phụ nữ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đề cập tới một số giải pháp như:
Nhà nước cần có chính sách ưu tiên trong đào tạo đối với cán bộ Nữ; từng cơ quan,
đơn vị, tổ chức cần ưu tiên cho phụ nữ đi đào tạo khi chị em có nguyện vọng trên
cơ sở phù hợp với nhu cầu sử dụng của cơ quan, đơn vị.
Trong công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển dụng cán bộ cần quy định tỷ lệ nữ
hợp lý và có những giải pháp thật cụ thể, khả thi
Các cấp Ủy Đảng cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để các cấp Hội hoạt
động có hiệu quả; Cần quy định trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Ban Vì sự tiến
bộ của Phụ nữ, Đảng đoàn, Ban Thường vụ, tổ chức Nữ công các cấp được tham
gia ở khâu nào trong quy trình công tác cán bộ để phát huy vai trò thực chất của
các tổ chức này
Có chế độ chính sách phù hợp cho cán bộ nữ, nhất là cán bộ nữ ở cơ sở, để
thu hút được nguồn cán bộ đã qua đào tạo về công tác tại địa phương, bảo vệ hợp
pháp quyền và lợi ích chính đáng của chị em phụ nữ
Khi chuẩn bị nhân sự tham gia Quốc hội, tham gia cấp ủy và Hội đồng nhân
dân các cấp không nên để phụ nữ đảm nhiệm nhiều cơ cấu (tuổi trẻ, dân tộc, quần

chúng…) để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ Nữ và đảm bảo tính lâu dài và đại
diện.
Chính sách, pháp luật về công tác cán bộ nữ ngày càng được hoàn thiện (quy
định kéo dài tuổi hưu, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tăng chỉ tiêu bổ nhiệm
lãnh đạo nữ cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, QĐ 215 về tỷ
lệ nữ trong HĐND…).

21


Luật bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý: "Nam, nữ bình đẳng về tiêu
chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh
đạo" (điều 11, khoản 4).
2.3.2. Mục tiêu của chính sách
2.3.2.1. Mục tiêu chung
Đảng ta quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ nữ. Đảng xác định, công tác
cán bộ nữ là một nội dung quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Quan điểm
này được thể hiện nhất quán trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, được đưa vào
các văn bản luật và dưới luật như Chỉ thị 37-CT/TW về “Một số vấn đề công tác
cán bộ nữ trong tình hình mới”. Các kỳ ĐH Đảng (IX, X, XI), Bộ Chính trị đều
ban hành Chỉ thị về công tác chuẩn bị nhân sự, trong đó khẳng định “bảo đảm tỷ lệ
cấp ủy viên là nữ không dưới 15%”, Chỉ thị 37 năm 2009 còn xác định “cần có cán
bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy”. Năm 2007, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến công tác cán
bộ nữ đảm bảo mục tiêu bình đẳng giới, tăng cường công tác quy hoạch dài hạn
cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ, tạo tiền đề cho giai đoạn 2016-2020; thí điểm một số
mô hình thúc đẩy, tăng quyền năng cho phụ nữ ở cấp cơ sở; nâng cao năng lực và
tăng cường sự phối hợp của các cơ quant ham mưu, hoạch định về công tác cán bộ
nữ (trong đó có cơ quan thường trực ban vì sự tiến bộ của phụ nữ). Đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ nữ cán bộ quản lý, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ nữ trong diện
quy hoạch, tạo nguồn cho giai đoạn 2016-2020.
2.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm
từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị trong xu thế phát
triển của thời đại ngày nay.
Cần trao dồi kiến thức tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia học tập và nâng
cao trình độ hiểu biết, có vị thế trong xã hội nhằm góp phần tham gia vào công tác
quản lý lãnh đạo ở địa phương.
Nhà nước cần có chính sách thu hút cán bộ là nữ tham gia vào các cơ quan
hành chính, các tổ chức lãnh đạo của nhà nước.
22


Đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong các hoạt động chính trị- xã hội, xóa bỏ
tình trạng bất bình đẳng giới trong quản lý lãnh đạo.
Tăng cường sự quan tâm của Đảng và nhà nước trong việc ưu tiên cán bộ nữ
khi tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội, các vị trí lãnh đạo trong các cơ
quan đoàn thể của nhà nước.
Cần phải có sự quan tâm của các cơ quan chính quyền tại địa phương để phụ
nữ vừa tham gia hoạt động xã hội và vẫn đảm đương tốt vai trò của người phụ nữ
trong gia đình.
Tạo điều kiện cho phụ nữ được học tập và làm việc bình đẳng như nam giới.
Xây dựng cơ chế đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác cán bộ nữ, thường
xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chủ trương về công tác cán bộ nữ, xem
đây là một trong những chỉ tiêu đánh giá tổ chức chi bộ Đảng trong sạch vững
mạnh hàng năm. Xây dựng đề án thu hút nữ sinh tốt nghiệp đại học ra trường về
công tác tại địa phương để tạo nguồn cán bộ nữ cho Đảng.
Thường xuyên quan tâm đến việc phát triển, giới thiệu những cán bộ nữ xuất
sắc vào đảng, vào những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị để tỷ lệ cán bộ

nữ tăng về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ nữ không ngừng
phấn đấu, rèn luyện, phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác hiện nay.
Thúc đẩy quyền và sự tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị -xã hội.
2.3.3. Nội dung của chính sách
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ nữ.
Đảng xác định, công tác cán bộ nữ là một nội dung quan trọng trong công tác cán
bộ của Đảng. Quan điểm này được thể hiện nhất quán trong các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, được đưa vào các văn bản luật và dưới luật như Chỉ thị 37-CT/TW về
“Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Các kỳ ĐH Đảng (IX, X,
XI), Bộ Chính trị đều ban hành Chỉ thị về công tác chuẩn bị nhân sự, trong đó
khẳng định “bảo đảm tỷ lệ cấp ủy viên là nữ không dưới 15%”, Chỉ thị 37 năm
2009 còn xác định “cần có cán bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy”. Năm 2007, Bộ
23


Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước”.
Nhằm góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020, với sự hỗ trợ của tổ chức ActionAid Việt Nam (AAV), ngày 26-3-2013,
tại Trung tâm Phụ nữ và phát triển, Trung ương Hội LHPN Việt Nam phối hợp với
Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao năng lực của phụ nữ (CEPEW) tổ chức
Hội thảo đối thoại chính sách về thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo.
Dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo Trung ương Hội LHPN Việt Nam, các ban, đơn
vị Trung ương Hội, đại diện các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, đại diện một
số tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ hoạt động về lĩnh vực bình đẳng giới,
một số nhà nghiên cứu giới.
Một là, xây dựng quy hoạch cán bộ nữ toàn diện và đồng bộ hơn hiện nay để
phát huy được khả năng đa dạng và sức mạnh tổng hợp của nữ giới, bên cạnh quy
hoạch loại cán bộ: lãnh đạo quản lý cần thực hiện các loại cán bộ cơ bản khác

trong đội ngũ cán bộ nữ nước ta hiện nay là: cán bộ giáo dục, khoa học, công nghệ;
cán bộ quản lý kinh doanh – doanh nhân; cán bộ văn hóa, nghệ thuật; cán bộ tham
mưu chiến lược, chuyên gia.
Hai là, tăng cường yếu tố nhân tài, chất lượng cao trong công tác quy hoạch
và đào tạocán bộ trong hệ thống chính trị nước ta. Mục tiêu thu hút, sử dụng, phát
huy được nhân tài cần được quán triệt sâu sắc hơn và thực hiện có tính chiến lược,
xuyên suốt trong công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ nữ nói riêng.
Ba là, đưa các chỉ tiêu về bình đẳng giới đã được Nghị quyết 11 của Bộ
Chính trị khóa X xác định vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách của
Đảng và Nhà nước một cách nghiêm túc và quyết liệt hơn. Có chế tài mạnh hơn
đối với các tập thể, cá nhân có thẩm quyền không thực hiện các nhiệm vụ chính trị
này và không chấp hành luật bình đẳng giới.
Bốn là, Hội LHPN Việt Nám cần tiếp tục thuyết phục, phối hợp với các cấp,
bộ, ngành có lien quan thực hiện sửa đổi Điều 145 Luật Lao động cho phù hợp với
nguyên tắc bình đẳng giới, trước hết là đối với công việc, ngành nghề phù hợp.
Trước khi Quốc hội sửa Luật, Hội có thể kiến nghị với Trung ương kéo dài tuổi
quy hoạch, bổ nhiệm, công tác của nữ bằng nam đối với một số đối tượng đặc thù,
trong đó có nhóm đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cấp ủy tỉnh, thành phố
và tương đương trở lên.

24


Năm là, Hội LHPN Việt Nam cần gây ảnh hưởng, tác động tích cực hơn
trong quá trình xây dựng, thực hiện đề án quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán
bộ của các cấp ủy địa phương, bộ, ngành… Hội cần thực hiện chức năng, nhiệm
vụ phản biện và giám sát đối với quá trình hoạch định và thực thi chính sách vủa
các cơ quan Đảng, Nhà nước có liên quan tới vấn đề bình đẳng giới và đội ngũ
cán bộ nữ.
Sáu là, quyết tâm hoàn thiện chính sách và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc

không bố trí một số chức danh lãnh đạo chủ chốt là người địa phương.
Bảy là, cấp ủy, cơ quan tham mưu, lãnh đạo công tác tổ chức - cán bộ cần
coi trọng hơn nữa phương pháp thi tuyển, thu hút và sử dụng nhân tài trong việc
bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
2.3.4. Đánh giá chính sách thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo
2.3.4.1.Ưu điểm của chính sách
Tỷ lệ nữ tham gia vào quản lý lãnh đạo không ngừng gia tăng, đảm nhiệm
nhiều vai trò khác nhau trong quá trình quản lý lãnh đạo, trình độ học vấn của phụ
nữ ngày càng gia tăng. Thực tiễn đã cho thấy, hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều
những nữ lãnh đạo, quản lý trong vai trò chính khách, nhà ngoại giao, nhà quản lý,
chủ doanh nghiệp, anh hùng lao động... Cụ thể, phụ nữ chiếm 51,48% dân số, 48%
lực lượng lao động xã hội. Họ được coi là một nửa thế giới cả về nghĩa đen và
nghĩa bóng. Tất cả những điều đó đang dần tạo nên diện mạo, bản sắc riêng của
giới lãnh đạo nữ. Cùng với đó, hàng loạt văn bản pháp luật được ban hành như Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng chống bạo
lực gia đình, Luật Bình đẳng giới. Đặc biệt, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội… Đây
chính là điều kiện để phụ nữ phát triển và trưởng thành.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền luôn quan tâm và có những ưu tiên cho phụ
nữ trong công tác tham gia quản lý lãnh đạo.
Phụ nữ ngày càng được xã hội coi trọng và có nhiều đóng góp vào sự phát
triển của đất nước.
Nhờ có các chính sách đó mà phụ nữ ngày càng có cơ hội học tập nhiều hơn,
trình độ học vấn ngày càng cao.
Thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước về quyền lợi của phụ nữ
Đề cao vai trò của phụ nữ đã đạt được nhiều thành quả
25


×