Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Tứ Kỳ - Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 146 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đất nước ta đang bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên đánh dấu
một thời kì cả dân tộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Đại hội Đảng IX đã khẳng định nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên cần tạo chuyển
biến cơ bản, toàn diện về GD&ĐT. Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ rõ: "Giáo
dục phải nhằm đào tạo những con người Việt Nam có lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, có năng lực, bản
lĩnh để thích ứng với những biến đổi của xã hội trong kinh tế thị trường,
những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".[34]
Như vậy chỉ có phát triển giáo dục thì mới mở ra tương lai tươi sáng
cho đất nước. Bởi lẽ giáo dục nói chung, dạy học nói riêng có vai trò đặt biệt
quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đó là những
người lao động có kỹ thuật - được đào tạo và bồi dưỡng bởi nền giáo dục
tiên tiến gắn với khoa học công nghệ hiện đại. Mà muốn phát triển giáo dục
và đào tạo thì cần phải chú ý ngay bậc học đầu tiên - bậc học nền tảng - bậc
tiểu học. Nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học là tạo ra nền tảng vững chắc
để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Vì vậy mục tiêu phát triển giáo
dục tiểu học từ nay đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương II đã chỉ rõ: "Cần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học". Để nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học, phải xây dựng một nền giáo dục theo
định hướng: "Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá"[34] Muốn thực hiện
định hướng này phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đổi mới công tác quản
lý giáo dục là một giải pháp quan trọng.
1.2. Có thể nói, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động
chuyên môn. Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và là nòng cốt trong
các nhà trường, Tổ chuyên môn cũng là đơn vị cơ sở gắn bó gần gũi nhất với

1




người giáo viên giảng dạy. Ở đây diễn ra mọi hoạt động có liên quan đến
toàn bộ hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên. Tổ chuyên môn cũng là
nơi người giáo viên có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng như những
vấn đề có liên đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của mình.
Hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường có vai trò quyết định cho sự
phát triển của nhà trường nói riêng và sự phát triển giáo dục nói chung. Có
thể nói hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường là nhân tố quyết định
trực tiếp đến chất lượng dạy học của các trường tiểu học hiện nay. Do đó,
quản lý hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ hàng đầu, là trọng tâm trong quá
trình quản lý của người hiệu trưởng.
1.3. Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình quản lý của người hiệu trưởng đối với tổ. Các
tổ chuyên môn trong nhà trường do hiệu trưởng thành lập và ra quyết định
công nhận để giúp hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ năm học, thực hiện
chương trình đào tạo của nhà trường. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với tổ
chuyên môn là kim chỉ nam cho hoạt động của tổ để đạt được mục đích của
nhà trường. Qua những năm công tác ở trường tiểu học,bản thân tôi thấy rõ
vai trò quyết định của việc quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động của tổ
chuyên môn trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
"Biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
tiểu học huyện Tứ Kỳ - Hải Dương".
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của tổ chuyên môn và các biện pháp
quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học huyện
Tứ Kỳ- Hải Dương.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu
trưởng để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học trong trường tiểu học

huyện Tứ Kỳ - Hải Dương.

2


3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các
trường tiểu học.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường
tiểu học huyện Tứ Kỳ - Hải Dương đã đạt được những kết quả nhất định, làm
cho chất lượng dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý,
còn có những điều chưa phù hợp và bất cập nhất định. Nếu đề xuất được các
biện pháp quản lý phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tổ chuyên
môn, nhờ đó nâng cao được chất dạy học của nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng một số trường tiểu học.
5.3. Đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng tiểu học và khảo sát tính khả thi của các biện pháp đó.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Do điều kiện thời gian đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt
động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học huyện Tứ Kỳ Hải Dương thuộc nhóm các trường đạt chuẩn và chưa đạt đạt chuẩn Quốc
gia.

6.2. Giới hạn về khách thể điều tra
- Đại diện Phòng giáo dục: 03 đồng chí.

3


- 47 cán bộ quản lý tổ trưởng chuyên môn của 10 trường tiểu học đại
diện trong huyện Tứ Kỳ - Hải Dương.
- 186 giáo viên trong các trường tiểu học của huyện Tứ Kỳ - Hải
Dương.
6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
10 trường tiểu học đại diện cho nhóm các trường đạt chuẩn và chưa đạt
chuẩn Quốc gia trên địa bàn huyện Tứ Kỳ - Hải Dương.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, nghiên cứu các tài liệu có
liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra viết, tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp chuyên gia.
- Các phương pháp toán thống kê: Dùng một số công thức toán thống kê
để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.
8. Cái mới của đề tài
- Phát hiện thực trạng quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng
tiểu học huyện Tứ Kỳ - Hải Dương.
- Đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng trong các trường tiểu học huyện Tứ Kỳ - Hải Dương.

4


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỔ CHUYÊN MÔN TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Một số nét tổng quan về vấn đề nghiên cứu
GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được sinh ra và tồn tại cùng với
sự phát triển của xã hội loài người. Đó là một HĐ không thể thiếu trong việc
phát triển của xã hội loài người vì nó tác động đến mọi HĐ khác trong xã
hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của
khoa học kĩ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, loài người bước
vào thế kỷ của nền kinh tế tri thức thì GD càng giữ một vị trí quan trọng và
cần thiết hơn bao giờ hết trong chiến lược phát triển đất nước của mọi quốc
gia.
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung uơng Đảng khoá VIII đã chỉ
rõ: "Để thực hiện được mục tiêu chiến lược mà Đại hội VIII đã đề ra cần
phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn nhân lực khác nhau, trong đó nguồn
lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối với nước
ta khi nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng
và được phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với khoa học, công nghệ
hiện đại: GD phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước, đội ngũ
lao động cho khoa học và công nghệ".[40]
Như vậy mục đích của GD ngày nay không đơn thuần là truyền thụ cho
HS những tri thức mà loài người đã tích luỹ được qua nhiều thế hệ mà còn
phải bồi dưỡng cho HS biết làm chủ bản thân, độc lập trong suy nghĩ, tích
cực tìm tòi phát hiện ra cái mới trong học tập và nghiên cứu; biết tự giải
quyết những vấn đề mới nảy sinh trong các HĐ hàng ngày của bản thân. Đó
chính là GD đã trang bị cho họ những năng lực cần thiết của người lao động
mới, lao động có trí tuệ: Năng lực tự học, tự nghiên cứu; năng lực phát hiện

5



và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh; năng lực giao tiếp, khả năng sáng
tạo... Để làm được việc này ngành GD nói chung và các nhà QL GD nói
riêng đã tích cực tìm ra được những giải pháp phù hợp để nâng cao chất
lượng GD. Và một trong những giải pháp đó chính là đổi mới cơ chế QL GD
từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô là các nhà trường. Các nhà nghiên cứu đều đã
thống nhất chung một quan điểm là làm công tác QL GD phải không ngừng
cải tiến nâng cao chất lượng điều hành và QL của mình để qua đó tác động
một cách có hiệu quả vào quá trình cải tiến chất lượng ở các khâu, các bộ
phận của hệ thống GD. Đặc biệt việc QL HĐ GD trong nhà trường có vai trò
quyết định đến chất lượng GD của nhà trường. Mà việc QL HĐ GD của nhà
trường chính là QL HĐ của đội ngũ GV trong nhà trường. Chính trong các
công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về QL GD Xô Viết đã khẳng
định: "Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào
việc tổ chức đúng đắn và hợp lý các HĐ của đội ngũ GV".
Trong nhà trường phổ thông, đội ngũ GV lại được sắp xếp theo từng tổ
CM nên việc QL HĐ của đội ngũ GV đối với người HT chính là QL HĐ của
tổ CM trong nhà trường. Suy cho cùng, mục đích của công việc QL này là
nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của nhà trường: nâng cao chất lượng
dạy và học trong nhà trường. Điều này đã được khẳng định trong Luật GD
năm 2005: "Tuy không trực tiếp tham gia vào HĐ dạy và học, nhưng cán bộ
QL GD bằng những HĐ QL của mình tác động vào quá trình GD nhằm
hướng cho HĐ dạy và học đạt được những mục tiêu yêu cầu của GD và bảo
đảm chất lượng GD".[29]
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường đai học sư phạm Hà
Nội, tôi thấy từ năm 2000 đến nay có khoảng gần 40 đề tài nghiên cứu về
quản lý hoạt động tổ chuyên môn, quản lý hoạt động dạy và học để nâng cao
chất lượng dạy học trong các nhà trường. trong đó các đề tài nghiên cứu về
quản lý chuyên môn ở các ngành học, cấp học đặc biệt là cấp tiểu học gồm:
Quản lý chuyên môn ngành học mầm non:


6


Nguyễn Thị Thuỷ: Các biện pháp nâng cao năng lực quản lý chuyên
môn của hiệu trưởng các trường Mầm non, luận văn Thạc sĩ QLGD- 2002
Nguyễn Thị Loan: Một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm tăng
cường công tác chuyên môn cho đội ngũ giáo viên Mầm non tỉnh Thái
Nguyên, luận văn Thạc sĩ QLGD- 2002
Bùi Thị Kim Xuân: Một số biện pháp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho
hiệu trưởng các trường Mầm non Quận Hai Bà Trưng Thành phố Hà Nội,
luận văn thạc sĩ QLGD- 2004.
Quản lý hoạt động dạy học cấp Tiểu học:
Lê Thị Lan Hương: Một số biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm
nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên ở trường Tiểu học tỉnh
Phú Thọ, luận văn thạc sĩ QLGD - 2001.
Nguyễn Thị Thanh Huyền: Nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động quản
lý chuyên môn của hiệu trưởng trường Tiểu học tỉnh Thái Bình, luận văn
thạc sĩ QLGD - 2001.
Viên Thị Dung: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng
trường Tiểu học Thành phố Thanh Hoá, luận văn thạc sĩ QLGD - 2003.
Phạm Thị Thắng: Quản lý và tổ chức hoạt động giảng dạy của hiệu
trưởng Tiểu học, luận văn thạc sĩ QLGD 2003.
Phạm Văn Diệp: Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu trưởng
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học miền núi tỉnh Quảng Ninh, luận
văn thạc sĩ QLGD - 2004.
Quản lý hoạt động giảng dạy cấp trung học cơ sở:
Hà Văn Cung: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực quản lý quá trình
dạy học của các trường THCS tỉnh Quảng Ninh, luận văn thạc sĩ QLGD 2000.
Nguyễn Văn Tiến: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý chuyên

môn của Hiệu trưởng trường THCS ngoại thành Hải Phòng, luận văn thạc sĩ
QLGD - 2000.

7


Nguyễn Minh Ngọc: Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý chuyên
môn của hiệu trưởng THCS Yên Thành - Nghệ An, luận văn thạc sĩ QLGD 2001.
Tô Minh Đức: Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Sông Mã - Sơn La, luận văn
thạc sĩ QLGD - 2003.
Nguyễn Thị Hải: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu
trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Đông Sơn Thanh Hoá, luận văn thạc sĩ QLGD - 2003.
Trần Thị Vương: Một số biện pháp nâng cao năng lực quản lý chuyên
môn của hiệu trưởng trường THCS Thanh Trì - Hà Nội, luận văn thạc sĩ
QLGD - 2003.
Nguyễn Nho Hoà: Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của
Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Ninh đối với các trường ngoài công lập, luận
văn thạc sĩ QLGD 2004.
Quản lý hoạt động giảng dạy ở cấp Trung học phổ thông:
Nguyễn Khắc Tâm: Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh THPT tỉnh
Sơn La, luận văn thạc sĩ QLGD - 2000.
Phạm Quỳnh Anh: Hoàn thiện một số biện pháp quản lý hoạt động
chuyên môn của hiệu trưởng trường THPT dân lập Hà Nội, luận văn thạc sĩ
QLGD - 2000.
Ma Trọng Hưng: Các biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy của hiệu
trưởng nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh THPT miền núi Chiêm
Hoá - Tuyên Quang, luận văn thạc sĩ QLGD 2002.
Nguyễn Sỹ Khiêm: Các biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của

hiệu trưởng THPT thị xã Hà Đông - Hà Tây, luận văn thạc sĩ QLGD - 2002.
Trần Thị Minh Nguyệt: Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng trường THPT thành phố Thái Nguyên, luận văn thạc sĩ QLGD - 2002.

8


Trần Thị Hoài: Những biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học
của hiệu trưởng trường THPT, luận văn thạc sĩ QLGD - 2002.
Phạm Khánh Tường: Các biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu
trưởng đối với giáo viên mới vào nghề của một số trường THPT ở Hải
Phòng, luận văn thạc sĩ QLGD - 2002.
Doãn Văn Quân: Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học
của hiệu trưởng trường THPT thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sĩ QLGD
- 2003.
Đỗ Thị Dung: Một số quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng
trường THPT Bán công thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ QLGD - 2004.
Phạm Văn Kính: Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu trưởng
nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT Chuyên Hạ Long, luận
văn thạc sĩ QLGD - 2004.
Quản lý hoạt động dạy học Cao đẳng, Đại học, Trung cấp nghề:
Đỗ Thế Dĩnh: Một số biện pháp của hiệu trưởng nhằm tăng cường công
tác quản lý chuyên môn ở trường Thương mại Trung ương IV, luận văn thạc
sĩ QLGD - 2002.
Mai Công Khanh: Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học
ở trường dự bị Đại học dân tộc TW, luận văn thạc sĩ QLGD - 2003.
Nguyễn Gia Thịnh: Biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của
Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp Hải Phòng, luận văn thạc sĩ
QLGD - 2004.
Dương Thuý Giang: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học Khoa

Tiểu học, trường Bồi dưỡng cán bộ Giáo dục, luận văn thạc sĩ QLGD - 2004.
Tạ Quang Thảo: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy tại trường
Trung học Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ QLGD - 2004.
Có một số đề tài nghiên cứu về biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên
môn của hiệu trưởng trường Mầm non, trường Tiểu học, trường Trung học
cơ sở,trường Trung học phổ thông đó là:

9


Doãn Thị Thanh Phương: Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên
môn của hiệu trưởng các trường Mầm non Quận Cầu Giấy - Thành phố Hà
Nội, luận văn thạc sĩ QLGD - 2006.
Đây là một đề tài khá hay bởi tác giả đã đi sâu nghiên cứu về hoạt động
tổ chuyên môn của các trường Mầm non Quận cầu Giấy- Thành phố Hà Nội.
Đề tài có thể áp dụng rộng rãi không chỉ trong khu vực thành phố Hà Nội mà
nó còn có thể áp dụng cho đại đa số các trường mầm non của cả nước.
Trần Thị Minh Tâm: Biện pháp quản lý tổ chuyên môn của hiệu trưởng
trường Tiểu học Quận Hồng Bàng - Thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sĩ
QLGD - 2006.
Đề tài này đã nêu được thực trạng công tác quản lý hoạt động tổ chuyên
môn của hiệu trưởng 10 trường tiểu học trong quận Hồng Bàng- Hải
Phòng.Các trường này được tác giả chia thành hai khối trường để nghiên cứu
đó là: Khối các trường đạt tiên tiến xuất sắc và khối trường chưa đạt tiên tiến
xuất sắc. Đề tài cũng đã đưa ra các kiến nghị đối với Bộ và Sở Giáo dụcĐào tạo, kiến nghị đối với Phòng giáo dục, đối với các trường tiểu học.Tuy
nhiên khi đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của
hiệu trưởng tác giả đã đưa ra các biện pháp qúa cụ thể( 7 biện pháp)...
Nguyễn Thanh Cao: Biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt
động tổ chuyên môn các trường trung học cơ sở huyện Phổ Yên- Thái
Nguyên, luận văn thạc sĩ QLGD- 2007.

Đề tài đã đi sâu nghiên cứu về hoạt động tổ chuyên môn của các trường
trung học cơ sở và đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên
môn của hiệu trưởng các trường THCS huyện Phổ Yên- Thái Nguyên. Tuy
nhiên giới hạn về địa bàn nghiên cứu của đề tài lại được chia thành hai vùng
miền khác nhau đó là: Vùng đồng bằng và vùng miền núi. Điều này sẽ không
thuận lợi cho những hiệu trưởng trường khác khi muốn áp dụng đề tài vào
thực tế trên địa bàn của mình.

10


Hoàng Văn Huân: Một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn
của hiệu trưởng các trường THPT huyện Quảng Xương - Thanh Hoá, luận
văn thạc sĩ QLGD - 2005.
Như vậy đã có nhiều đề tài nghiên cứu QL CM ở nhiều khía cạnh khác
nhau và phân bố ở tất cả các bậc học từ Mầm non, TH, Trung học đến các
Trung tâm dạy nghề cũng như các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp. Song việc QL HĐ tổ CM của HT trường TH ở địa bàn huyện
Tứ Kỳ- tỉnh Hải Dương thì chưa có đề tài nào đề cập đến. Với mong muốn
nghiên cứu Việc quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các
trường Tiểu học thuộc hai khối trường: Khối trường đã đạt chuẩn Quốc gia
và khối trương chưa đạt chuẩn.Vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Biện
pháp QL HĐ tổ CM của HT các trường TH huyện Tứ Kỳ - Hải Dương".
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý
Trong xã hội loài người, QL là một HĐ bao trùm mọi mặt đời sống xã
hội. Nó ra đời khi xã hội cần có sự chỉ huy, điều hành, phân công, hợp tác,
kiểm tra, chỉnh lý trong lao động tập thể trên một quy mô nào đó để đạt năng
suất cao hơn, hiệu quả tốt hơn, đó là vai trò của người đứng đầu. Như vậy
QL là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Loài người

đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau, nên
cũng đã trải qua nhiều hình thức QL khác nhau. Các triết gia, các nhà chính
trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của QL trong sự ổn định và
phát triển của xã hội.
Người ta tiếp cận khái niệm QL nhiều cách khác nhau.
Đó là: cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra - theo góc độ tổ
chức.
Theo góc độ điều khiển thì QL là lái, là điều khiển, điều chỉnh.

11


Theo cách tiếp cận hệ thống thì QL là sự tác động của chủ thể QL đến
khách thể QL (hay là đối tượng QL) nhằm tổ chức, phối hợp HĐ của con
người trong quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục đích đã định.
Còn trong quá trình tồn tại và phát triển của QL, đặc biệt trong quá trình
xây dựng lý luận về QL, khái niệm QL được nhiều nhà lý luận đưa ra, nó
thường phụ thuộc vào lĩnh vực HĐ, nghiên cứu của mỗi người.
Nhấn mạnh đến vai trò của QL, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã khẳng định: "Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào
được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần đến sự QL" [11]
Một số tác giả lại quan tâm tới yếu tố gắn kết, phối hợp của các cá thể,
hay của các nhóm nhỏ nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Ví dụ, theo
Harold Koontz-1994, trong tác phẩm "Những vấn đề cốt yếu của QL" thì:
"QL là một HĐ thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm
đạt được mục đích của nhóm". [19]
Và theo các nhà xã hội học Kozlova.O.V và Kuznetsov.I.N thì: "QL là
sự tác động có mục đích đến từng tập thể con người để tổ chức và phối hợp
HĐ của họ trong quá trình sản xuất". Định nghĩa này lại gắn quản lý và hoạt
động của cá nhân, tập thể trong quá trình lao động sản xuất.
Cũng theo hướng nói đến sự phối hợp của các cá thể trong tổ chức,định

nghĩa do Paul Hersey và Ken Blanc Heard đưa ra trong cuốn "QL nguồn
nhân lực" có những nét khác biệt: "QL là một quá trình cùng làm việc giữa
nhà QL với người bị QL, nhằm thông qua HĐ của cá nhân, của nhóm, huy
động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức". Đặt trong bối cảnh
nghiên cứu về nguồn nhân lực, khái niệm quản lý ở đây được nhìn nhận như
là sự phối hợp của nhiều nguồn lực, trong đó nổi bật lên mối quan hệ giữa
người QL và người bị QL.
Ở Việt Nam thuật ngữ Quản lý cũng được nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu.
Từ điển tiếng Việt đưa ra định nghĩa về quản lý như sau: "QL là HĐ
của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân

12


công thực hiện mục tiêu chung". Đây là một khái niệm quản lý chung nhất
không nhằm vào một lĩnh vực hay hoạt động cụ thể nào. Tuy nhiên nếu xét
theo từng lĩnh vực chuyên biệt, chúng ta có thể tham khảo định nghĩa về quản
lý trong Giáo trình "QL GD và đào tạo" của trường Cán bộ QL GD&ĐT:
+ QL là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ
thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
+ QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các
thông tin về tình trạng của đối tượng, và môi trường nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
+ QL là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể QL đến khách
thể QL nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
+ QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL lên đối
tượng QL và khách thể QL, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường.

Theo tác giả Hà Thế Ngữ và tác giả Đặng Vũ Hoạt cho rằng: "QL là
một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ thống nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định".[25]
Tác giả Mai Hữu Khuê lại đưa ra định nghĩa về QL dưới dạng một HĐ
đặc biệt như sau: "HĐ QL là một dạng HĐ đặc biệt của người lãnh đạo
mang tính tổng hợp của các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy QL thành
một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các cấp QL làm cho
HĐ nhịp nhàng đưa đến hiệu quả".[15]
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn - 2000 thì: "QL là sự tác động có hướng
đích của chủ thể QL đến đối tượng QL bằng một hệ thống các giải pháp
nhằm thay đổi trạng tháng của đối tượng QL, đưa hệ thống tiếp cận mục
tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người."[13] Đây là một định nghĩa
tương đối cụ thể về QL với sự tác động có hướng đích của chủ thể QL.
QL nhằm hướng tới mục đích đã đề ra, tác giả Hà Sỹ Hồ có viết: "QL là
một quá trình HĐ có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong các tác động có

13


thể dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng được ổn định và làm
cho nó phát triển tới mục đích đã định".[18]
Từ các định nghĩa nêu trên, dưới các góc độ khác nhau, chúng ta có thể
hiểu một cách khái quát là: QL một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường
học, địa phương,...) với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ
thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng phương
pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Như vậy, khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau:
- Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như
một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất
định tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể. Ví dụ: Một doanh nghiệp,

một trường học, một cơ quan, một quốc gia,...
- Hệ thống QL gồm có hai phân hệ: chủ thể QL và khách thể QL.
- Tác động QL thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp
khác nhau.
- QL là HĐ trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định đúng quy
luật và có hiệu quả QL nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định hướng đến mục tiêu.
- Mục tiêu cuối cùng của QL là chất lượng sản phẩm, vì lợi ích phục vụ
con người. Người QL tựu chung lại là nghiên cứu khoa học, nghệ thuật giải
quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ
giữa chủ thể với khách thể trong hệ thống mà còn có mối quan hệ tương tác
với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình.
Như vậy, QL còn có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có hướng đích
của thủ thể QL đến khách thể QL bao gồm nhiều giải pháp khác nhau thông
qua cơ chế QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của
hệ thống để đạt tới mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Điều đó cũng xác lập rằng QL phải có một cấu trúc và vận động trong một
môi trường xác định. Cấu trúc hệ thống QL bao gồm các yếu tố trong sơ đồ
đơn giản sau:

14


Hình 1: Cấu trúc hệ thống quản lý

MÔI TRƯỜNG QUẢN LÝ

Cơ chế quản lý
Mục tiêu QL


Chủ thể QL

Khách thể QL

Xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao động ngày càng phong
phú, phức tạp, tinh vi thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng và
quyết định để tổ chức đạt tới mục tiêu bằng con đường ngắn nhất nhưng đạt
hiệu quả cao nhất.
Trong nền văn minh công nghiệp hiện nay các nhà khoa học cho rằng
có năm yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh phát triển của mỗi quốc gia là:
vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ, tài nguyên và chất xám quản lý, trong đó
yêu cầu chất xám quản lý được xếp hàng đầu. Điều này được biểu diễn trên
sơ đồ sau:
Hình 2:Mối liên hệ giữa các yếu tố trong việc phát triển quốc gia.
CXQL
L. Động

Tài nguyên

KHCN

Vốn

15


Hiện nay QL thường được định nghĩa rõ hơn: QL là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các HĐ: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra.
Các HĐ kể trên cũng chính là các chức năng của QL. Nội dung cụ thể

của từng chức năng có thể hiểu như sau:
- Chức năng lập kế hoạch:
Là chức năng hạt nhân của quá trình QL. Bởi vì kế hoạch là tập hợp
những mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với
một chương trình hành động cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch
được xây dựng xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của tổ chức và những
mục tiêu đã định sẵn mà tổ chức có thể hướng tới và đạt được, dưới sự tác
động có định hướng của người QL.
- Chức năng tổ chức:
Là chức năng quan trọng của quá trình QL, đảm bảo tạo thành sức
mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch đã đề ra. Tầm quan
trọng này đã được Lênin khẳng định: "Tổ chức là nhân tố sinh ra hệ toàn
vẹn, biến một tập hợp các thành tố rời rạc thành một thể thống nhất, người
ta gọi là hiệu ứng tổ chức".
Bởi vì chức năng này việc tiến hành sắp xếp, bố trí một cách khoa học
và phù hợp những nguồn lực của hệ thống thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm
bảo cho chúng hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách hiệu quả
nhất.
- Chức năng chỉ đạo:
Đây là chức năng đặc thù của người QL, nó biểu hiện rất rõ nét năng
lực của người QL. Đó là sự điều hành, điều chỉnh HĐ của hệ thống nhằm
thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra để đạt được mục tiêu đã định. Nó đòi hỏi
người QL phải luôn theo sát các HĐ, các trạng thái vận hành của hệ thống để
kịp thời phát hiện ra những sai lỗi trong quá trình vận hành của hệ thống và
đưa ra được những biện pháp điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sao cho hệ thống
vận hành không làm thay đổi mục tiêu đã định của hệ thống.

16



- Chức năng kiểm tra đánh giá:
Người QL muốn hoàn thành được trọng trách của mình một cách có
hiệu quả nhất thì không bao giờ được coi nhẹ chức năng này. Bời vì chính
chức năng này giúp cho người QL thu thập được những thông tin ngược từ
đối tượng QL trong quá trình vận hành của hệ thống. Nhờ đó mà đánh giá
được trạng thái vận hành của hệ thống ra sao so với kế hoạch đã đề ra và như
vậy sẽ đánh giá được kế hoạch khả thi đến mức độ nào? nguyên nhân của sự
thành công, thất bại? Cần điều chỉnh, bổ sung những gì vào nội dung kế
hoạch để đạt đượuc mục tiêu. Và cũng nhờ có chức năng này mà người QL
rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm để thực hiện các quá trình QL
tiếp theo được hiệu quả hơn nữa.
Điều cần chú ý đối với người QL là thực hiện mỗi một chức năng là
hoàn thành một giai đoạn trong chu kỳ QL. Tuy nhiên sự phân chia chu kỳ
QL thành các giai đoạn chỉ có tính chất tương đối để giúp người QL định
hướng cho HĐ QL của mình. Còn trong thực tế, các giai đoạn này gối đầu lên
nhau, bổ sung cho nhau, xâm nhập vào nhau. Và một yêu cầu không thể thiếu
được để người QL thực hiện được những chức năng trên là thông tin. Vì vậy thông
tin được coi như là một công cụ hoặc một chức năng đặc biệt trong chu trình QL.
Ta có thể biểu diễn chu trình QL theo sơ đồ sau:
Hình 3: Mối quan hệ của các chức năng trong chu trình quản lý
MÔI TRƯỜNG QUẢN LÝ
Kế hoạch hoá

Kiểm tra

Thông tin

Chỉ đạo thực hiện

17


Tổ chức


Tuy nhiên khi nói đến công tác QL chúng ta hiểu ngay là HĐ có liên
quan đến đối tượng là con người. Vì con người là sự tổng hoà các mối quan
hệ xã hội - theo quan điểm duy vật biện chứng. Cho nên trong quá trình điều
hành QL các nhà QL phải biết kế hợp hài hoà các yếu tố tâm lý, xã hội, kinh
tế, GD. Hay nói cách khác là cần vận dụng tốt các nguyên tắc sau đây trong
quá trình QL:
* Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí then chốt quyết định phương hướng
HĐ tất cả các hệ thống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực đối nội và đối ngoại.
Do đó yêu cầu người QL phải coi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước là kim chỉ nam cho quá trình HĐ của hệ thống. Mục tiêu, lý
tưởng của Đảng bao trùm mục tiêu HĐ của hệ thống, đó là: "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
* Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung trong QL được hiểu là toàn bộ HĐ của hệ thống được quyết
định, chỉ đạo bởi cơ quan quyền lực cao nhất của hệ thống. Đây là cơ quan
được quần chúng trong hệ thống tín nhiệm thay họ đề ra chủ trương, đường
lối, mục tiêu tổng quát và các giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu đó. Tuy
nhiên tất cả các mục tiêu và giải pháp đó trước khi đưa ra để thực hiện trong
hệ thống thì cần có sự tham gia ý kiến của các thành viên trong hệ thống. Đó
chính là việc phát huy cao độ quyền làm chủ của họ, huy động được tối đa trí
tuệ tập thể tham gia xây dựng hệ thống.
Đây là nguyên tắc quan trọng đảm bảo sự thành công của HĐ QL. Bởi
lẽ trong quá trình QL có sự kết hợp chặt chẽ của cơ quan quyền lực với sức
mạnh và sự sáng tạo của quần chúng trong việc thực hiện mục tiêu QL. Vì
vậy trong quá trình QL, người QL rất cần phát huy tốt nguyên tắc này. Đó là

biết kết hợp hài hoà giữa tập trung và dân chủ, biết lắng nghe và chọn lọc ý
kiến của mọi thành viên trong hệ thống, tránh biểu hiện quan liêu, độc
quyền, trù dập; cần tạo mọi điều kiện để mọi thành viên có cơ hội bày tỏ
chính kiến của mình. Tuy nhiên, người QL cũng phải biết sử dụng quyền tập

18


trung đúng lúc, đúng chỗ, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm về
các quyết định của mình khi các quyết định đó đều xuất phát vì mục đích
phục vụ con người.
* Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và thực tiễn:
Sự kết hợp của hai phạm trù này mang tính quy luật trong mọi HĐ của
con người, lý luận luôn soi đường, dẫn lối cho thực tiễn và thực tiễn là nơi
kiểm nghiệm lý luận. Vì vậy trong lĩnh vực QL đòi hỏi người QL phải biết
vận dụng hài hoà giữa lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở lý luận chung về QL
đã tích luỹ được, người QL cần phải biết đặc điểm HĐ của hệ thống mình
QL, cũng như phải nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống như kinh
tế, chính trị xã hội, điều kiện tự nhiên, đặc thù địa phương... Trên cơ sở đó
mới xây dựng được mục tiêu chiến lược của hệ thống.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người đã phải trải qua quá trình lao động.
Chính trong lao động, con người nhận thức được thế giới xung quanh và dân
dần tích luỹ được những kinh nghiệm. Cũng từ đó, con người nảy sinh nhu
cầu truyền đạt lại những kinh nghiệm đó cho nhau và cho thế hệ sau. Đó
chúng là nguồn gốc phát sinh hiện tượng GD. Hiện tượng này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với xã hội và đối với mỗi cá nhân. Nó giúp cho xã hội
bảo tồn nền văn hoá nhân loại, đồng thời giúp cho cá nhân phát triển tâm lý,
ý thức cũng như tiềm năng của bản thân. Tính đặc thù của quá trình GD là
tạo ra một sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách con người phù hợp với yêu cầu

của xã hội. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Vì vậy:
Theo M.I.Konđacốp thì: "GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản
chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử, xã hội của các
thế hệ loài người. Nhờ có GD mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển tinh
hoa văn hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà
xã hội loài người không ngừng tiến lên".[20 ].

19


Điều này càng được khẳng định trong thời đại ngày nay, GD đã trở
thành động lực, là nhân tố quyết định thúc đẩy sự phát triển của xã hội. GD
đã trở thành mục tiêu phát triển hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Bởi
vì chỉ có GD mới đào tạo được những người lao động mới - lao động có trí
tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Chính do vị trí quan trọng
như vậy của GD nên các nhà nghiên cứu GD đã đưa ra những khái niệm
khác nhau về QL GD.
Theo chuyên gia GD Liên Xô M.I.Kônđacôp thì: "QL GD là tập hợp
những biện pháp: tổ chức, phương pháp cán bộ, kế hoạch hoá,... nhằm đảm bảo
sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống GD để tiếp tục phát
triển và mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng cũng như số lượng". [20].
Theo quan niệm của giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: "QL GD là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, GD thế hệ trẻ, đưa GD tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất".[26]
Quan niệm này cũng tương tự như hai quan niệm trên nhưng đã đề cập
đến một mục đích khác đó là việc thực hiện các tính chất của nhà trường

XHCN Việt Nam của QLGD.
Cùng hướng suy nghĩ này giáo sư Phạm Minh Hạc lại quan niệm: ''QL
nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu
GD, mục tiêu đào tạo đối với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng
HS..."[16].
Tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm rằng: "Mục đích cuối cùng của
QL GD là tổ chức quá trình GD có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên thông
minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và của xã hội".[39 ].

20


Từ những quan điểm trên chúng ta có thể khái quát rằng: QL GD là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, GD hế hệ trẻ, đưa hệ GD đến mục tiêu dự kiếnlên trạng thái mới về chất.
Trong hệ thống GD, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động.
Con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể QL. Mọi hoạt động GD và
QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi
vậy con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
1.2.3 Quản lý nhà trường tiểu học
* Quản lý nhà trường
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để GD, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
công dân hữu ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức
chặt chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức
năng của mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Những

nhiệm vụ của nhà trường cũng được đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác
nhau. Việc QL nhà trường cũng có nhiều cách để tiếp cận. Bản chất giai cấp
của nhà trường được khẳng định bởi tính mục đích cũng như cách thức vận
hành của nó và một điều được khẳng định là: Khi nhà trường thực hiện chức
năng GD trong một xã hội cụ thể, bản sắc văn hoá dân tộc in dấu sâu đậm
trong toàn bộ HĐ của nhà trường.
Ở nước ta, hệ thống GD quốc dân bao gồm nhiều bậc học đã được phân
cấp QL về CM, nghiệp vụ. Trong mỗi bậc học bao gồm các nhà trường của
bậc học đó. Nhà trường là đơn vị cơ sở cơ bản của hệ thống, có vai trò quan
trọng, có ý nghĩa quyết định việc thực hiện mục đích, mục tiêu GD đào tạo
thế hệ trẻ mà kết quả cuối cùng là "dạy tốt, học tốt".

21


Do vậy QL nhà trường là QL GD trong một phạm vi xác định của
một đơn vị GD đó là trường học.
Trường học là cơ quan chuyên trách xây dựng con người mới, với nội
dung GD được chọn lọc cơ bản và sắp xếp có hệ thống, với phương phápGD
khoa học và đã được kiểm nghiệm thực tiễn, với những phương tiện và điều
kiện GD đem lại hiệu quảGD cao, với những nhà sư phạm có nhân cách mẫu
mực và được trang bị đầy đủ tri thức khoa học GD, với quá trình GD được tổ
chức liên tục, trường học có trách nhiệm to lớn và vị trí quan trọng hơn cả
các cơ sở, tổ chức khác có chức năng xây dựng người lao động mới.
HĐ trung tâm của nhà trường là dạy học và GD (theo nghĩa hẹp). Vì
vậy QL nhà trường thực chất là QL quá trình dạy học, bao gồm: quá trình lao
động sư phạm của người thầy, HĐ học tập của học sinh.
Vậy QL nhà trường là QL tập thể GV và HS để chính họ lại QL (với
GV) và tự QL (với học sinh) quá trình dạy học nhằm đào tạo ra sản phẩm là
nhân cách người lao động mới. Về cơ bản QL nhà trường khác với QL các

lĩnh vực khác của đời sống xã hội. ở đây không đơn giản là thực hiện sự
phân công, phối hợp các lực lượng, các mối quan hệ mà là quá trình tác động
có tổ chức sư phạm, có tính hướng đích đến toàn bộ các mặt của quá trình
GD. Vì vậy có thể xem trường học vừa có bản chất xã hội, vừa có bản chất
sư phạm. Do đó khi QL nhà trường, các nhà QL phải kết hợp hài hoà các
khoa học như: GD học, xã hội học, tâm lý học, điều khiển học, kinh tế học...
QL nhà trường thực chất là QL quá trình hình thành và tự hình thành
nhân cách của học sinh. Nếu ngườiHT nắm vững tính chất đặc trưng rất cơ
bản này của việc QL nhà trường thì sẽ có những biện pháp QL nhà trường
hiệu quả nhất.
Viết về QL nhà trường nhấn mạnh tới việc tập hợp và tổ chức các HĐ
cũng như huy động tối đa các lực lượng đã được tác giả Phạm Viết Vượng
viết như sau: "QL nhà trường là HĐ của các cơ quan QL nhằm tập hợp và tổ
chức các HĐ của GV, HS và các lực lượng GD khác, huy động tối đa các
nguồn lực GD để nâng cao GD và đào tạo trong nhà trường. [38]

22


Vấn đề này được tác giả giáo sư Nguyễn Ngọc Quang bàn đến một cách
cụ thể hơn. Ông viết: "QL nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu
(cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp...) của chủ thể QL
đến tập thể GV, HS và các cán bộ khác. Nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do
Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp, do lao động xây dựng và vốn
lao động có hướng vào việc đẩy mạnh mọi HĐ của nhà trường mà điểm hội
tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế
hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới".[27]
Nhấn mạnh về nguyên lý vận hành của nhà trường theo tác giả Phạm
Minh Hạc thì: "QL nhà trường là thực hiện đường lối GD của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên

lý GD, để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với ngành GD, với thế
hệ trẻ và từng học sinh". "Việc QL trường học phổ thông QLHĐ dạy học tức
là làm sao đưa HĐ đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến
tới mục tiêu GD. [16]
Cùng hướng này theo tác giả Trần Kiểm thì: "QL trường học là thực
hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý GD, để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu
đào tạo đối với ngành GD, với thế hệ trẻ và với từng học sinh".[21]
Đi sâu nghiên cứu về những tác động của chủ thể QL bên trong và bên
mgoài nhà trường giáo trình "QLGD và đào tạo" dùng để bồi dưỡng cán bộ
QL trường TH thì nêu rằng: QL nhà trường bao gồm hai loại tác động sau:
+ Tác động của những chủ thể QL bên trên và bên ngoài trường đó là
những tác động QL của các cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo
điều kiện cho HĐ giảng dạy, học tập, GD của nhà trường; hoặc những chỉ
dẫn, những quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên
quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức
Hội khuyến học nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo
điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.

23


+ Tác động của những chủ thể QL bên trong nhà trường (bao gồm các
HĐ: QL, GV, QL học sinh, QL quá trình dạy học GD, QL cơ sở vật chất
trang thiết bị trường học, QL tài chính trường học, QL quan hệ giữa nhà
trường và cộng đồng).
Như vậy, QL nhà trường là một HĐ được thực hiện trên cơ sở những
quy luật chung của QL, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của
GD. Do đó QL nhà trường cần vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QL
GD để đẩy mạnh mọi HĐ của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.

Mục đích của QL nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có
tiến lên một trang thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát
triển mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng GD.
Mục đích cuối cùng của QLGD là tổ chức quá trình GD có hiệu quả để đào
tào lớp trẻ thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì
hạnh phúc của bản thân và của xã hội.
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống GD nên QL
nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất của
QL nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các HĐ trong nhà trường
vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở Việt Nam.
* Quản lý trường tiểu học:
Hệ thống GD quốc dân của các nước trên thế giới đều có phân chia
thành các bậc học. Mỗi bậc học có đặc điểm riêng, một phương thức riêng;
mỗi bậc học có mục tiêu GD, có nội dung và phương pháp tổ chức GD đặc
thù phù hợp với đặc điểm tâm-sinh lý HS và yêu cầu của xã hội với bậc học
đó.
GDTH được mọi quốc gia quan tâm, ở nước ta bậc TH là bậc học phổ
thông đầu tiên và được xác định là: bậc học nền tảng của hệ thống GD quốc
dân.Bậc TH dành cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 (chủ yếu từ 6
đến 11 tuổi).
* Đặc điểm của HS tiểu học

24


Theo tiến sĩ Nguyễn Kế Hào thì các em HS ở lứa tuổi này có những đặc
điểm sau:* Mỗi HSTH là một chỉnh thể, một thực thể hồn nhiên.
* Mỗi HSTH tiềm tàng một khả năng phát triển.
* Mỗi HSTH là một nhân cách đang hình thành.
Trẻ em ở độ tuổi HSTH là một thực thể, chỉnh thể trọn vẹn nhưng chưa

định hình, chưa hoàn thiện mà là thực thể đang lớn lên, đang phát triển. ở
mỗi trẻ em, các bộ phận, các cơ quan của cơ thể với chức năng riêng cũng
phát triển không đều, không tạo được sự hài hoà cân đối ngay. Về mặt tâm lý
cũng vậy, các quá trình, các thuộc tính tâm lý cũng phát triển không đồng
đều, chưa hoàn thiện, chưa hài hoà. Có thể nói rằng, những gì con người có
thể có được, về cơ bản, còn đang ở phía trước các em, đang hứa hẹn trong
quá trình phát triển của các em.
Ba đặc điểm cơ bản trên tạo cho HSTH có tính chất dễ tiếp thu sự nuôi
dưỡng, sự GD, dễ thích nghi với điều kiện sống và học tập. HSTH phát triển
theo hướng hình thành nhân cách, định hình và hoàn thiện dần con người
mình theo hướng mục tiêu GD. Chính vì vậy mà những gì ta đưa đến cho trẻ
phải được chọn lọc, bảo đảm sự đúng đắn và lành mạnh, phương pháp GD
trẻ cũng phải đúng, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý trẻ em.
Qua các tài liệu nghiên cứu, qua thực tiễn cho thấy, trẻ em TH ngày nay
không phải chỉ có nhu cầu học 9 môn (theo chương trình quy định) mà các
em còn có mong muốn được tìm hiểu thêm về môi trường xung quanh, được
tham gia các HĐ tập thể, được làm quen với các phương tiện thông tin...
Ngoài những môn học chính khóa các em HS còn thích được học thêm các
môn năng khiếu nghệ thuật, ngoại ngữ, tin học... Cũng có nhiều HS muốn
được học hoặc tham gia đồng thời nhiều môn, nhiều HĐ. Điều đó chứng tỏ
HSTH có nhu cầu đòi hỏi được phát triển toàn diện.
* Mục tiêu của giáo dục tiểu học
Bậc TH có bản sắc riêng và có tính chất độc lập tương đối của nó vì nó
không bắt buộc phụ thuộc vào sự GD của bậc học trước nó (bậc học mầm
non) và các bậc học sau đó. Mà ngược lại, các bậc học sau đó phụ thuộc rất

25



×