Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

quan điểm của chủ nghĩa Marx Lenin về thất nghiệp và vận dụng phân tích thực trạng việc làm của Việt Nam hiện nay (by dieu anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.91 KB, 18 trang )

Mở đầu
Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thị trường lao động ở Việt Nam cần
phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy nền kinh tế đất nước ngày
càng phát triển. Trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được một số thành tựu trong
các lĩnh vực du lịch, dịch vụ, xuất khẩu lương thực thực phẩm sang các nước…
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được chúng ta cũng vấp phải một số vấn đề khó khăn
trong kinh tế. Do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, thị trường lao động của Việt
Nam đang dần bộc lộ nhiều yếu điểm lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất là vấn
đề thất nghiệp đang ngày càng gia tăng, khiến các nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách
phải đau đầu vì nghĩ các giải pháp giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp, cân đối sự mất cân bằng
giữa cung và cầu khi mà cung thừa quá nhiều so với cầu do hệ quả của việc mở tràn lan
các trường đại học, đào tạo không bài bản dẫn đến sinh viên ra trường kĩ năng kém,
không đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp. Không chỉ vậy, xét trong khu vực, năng suất lao
động người Việt Nam khá thấp. Sinh viên ra trường thiếu việc làm, các nhà tuyển dụng
thiếu lao động có năng lực. Tình trạng thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Vấn đề thất nghiệp không tự nhiên xuất hiện mà nó có căn nguyên của nó. Để đi sâu vào
hiểu thêm về vấn đề, ta cần hiểu thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của nó. Qua việc
phân tích quan điểm Marx Lenin, ta sẽ vận dụng để phân tích về tình hình thất nghiệp tại
Việt Nam hiện nay.
Trong bài tập lớn này, em xin trình bày hai vấn đề chính gồm có quan điểm của chủ nghĩa
Marx Lenin về thất nghiệp và vận dụng phân tích thực trạng việc làm của Việt Nam hiện
nay. Trong lần viết này của em chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Em kính mong nhận
được nhiều ý kiến đóng góp của cô giáo để em có thể hoàn thiện tốt hơn.

I/ Quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về thất nghiệp
1) Cách chủ nghĩa Marx giải thích vấn đề thất nghiệp
Theo Wikipedia, trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong xã hội tư bản. Ở
xã hội cộng đồng xã hội nguyên thủy, việc phải duy trì trật tự trong bầy đàn buộc mọi



thành viên phải đóng góp lao động và được làm việc. Trong xã hội phong kiến châu Âu,
truyền đời đất đai đảm bảo rằng con người luôn có việc làm. Ngay cả trong xã hội nô lệ,
chủ nô cũng không bao giờ để tài sản của họ (nô lệ) rỗi rãi trong thời gian dài. Các nền
kinh tế theo học thuyết Marx - Lenin cố gắng tạo việc làm cho mọi cá nhân, thậm chí là
phình to bộ máy nếu cần thiết (thực tế này có thể gọi là thất nghiệp một phần hay thất
nghiệp ẩn nhưng đảm bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).
Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận, mặt khác họ
không phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải người lao động, do đó họ vui lòng chấp
nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động
không có các nguồn lực sản xuất trong tay để tự lao động phải chấp nhận đi làm thuê
hoặc thất nghiệp.
Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. Kinh tế học
Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân
(thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao
động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực
thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê
mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ
yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Marx giải thích theo hướng thất nghiệp là thực
tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có
thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng
thất nghiệp.
Trong một bài phân tích của Redflag có đề cập đến cách Marx giải thích tình trạng thất
nghiệp. Ngày nay, tỷ lệ thất nghiệp 5-6% được coi là "bình thường". Ở hầu hết phần còn
lại của thế giới, ít nhất là ở các nước phát triển cũng có sự gia tăng tương tự trong tỷ lệ
thất nghiệp. Tại sao lại có điều này? Tại sao gần như luôn luôn có số lượng lớn những
người không thể tìm được việc làm?
Những lý do cơ bản là chủ nghĩa tư bản tạo ra và cần đến sự thất nghiệp.
Như Karl Marx đã giải thích trong các bài viết về kinh tế cách mạng của ông, sự đầu tư
của các nhà tư bản có thể được chia thành hai phần: phần thuê nhân công và phần mua

hoặc thuê phương tiện sản xuất - máy móc, nguyên liệu, nhà máy.


Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, hai quy trình làm giảm phần vốn dung để thuê nhân
công. Cạnh tranh dẫn đến sự sáp nhập: cá lớn nuốt cá bé, hoặc hai công ty vừa và lớn hợp
nhất để trở thành một con cá lớn hơn. Công ty sáp nhập được hưởng lợi nhiều hơn về
"quy mô kinh tế", nghĩa là một người lao động có thể vận hành một lượng vốn lớn hơn
của công ty. Bất cứ ai theo dõi tin tức kinh doanh có thể để ý, cứ khi nào có sự sáp nhập
của hai công ty, luôn có một kết quả chắc chắn là sẽ xuất hiện sự sa thải.
Quá trình khác là sự thúc đẩy nhằm tăng năng suất của các nhà tư bản do cạnh tranh gây
ra. Năng suất cao hơn, theo định nghĩa, có nghĩa là sản xuất một số lượng lớn hơn các sản
phẩm từ một khoản đầu tư nhỏ hơn. Một cách để làm việc này là giảm lương và tăng giờ
làm việc. Nhưng luôn có những giới hạn sinh lý cho việc này. Một cách khác, lâu dài hơn
và về cơ bản là không giới hạn, chính là cung cấp cho người lao động các máy móc và
công cụ hiệu quả hơn.
Nhưng nếu người lao động chuyển sang sử dụng máy móc hiệu quả hơn, thì tất nhiên là ít
công nhân hơn được yêu cầu sản xuất một số sản phẩm nhất định. Trong một hệ thống tư
bản chủ nghĩa, công nghệ "tiết kiệm lao động" nhất định sẽ hủy hoại công việc của một
số công nhân.
Điều này không có nghĩa là số lượng việc làm giảm liên tục. Các ngành cụ thể có thể tìm
được thị trường mới và mở rộng, các ngành công nghiệp mới có thể được tạo ra nhu cầu
cần công nhân, nhu cầu về lao động tăng và giảm với những thay đổi trong chu kỳ kinh
doanh. Nhưng điều đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng dẫn dắt người lao
động ra khỏi sản xuất.
Đó chính là điều kiện mà chủ nghĩa tư bản cần. Các nhà tư bản cần một nhóm công nhân
mà Marx gọi là "đội quân dự trữ công nghiệp" - những người có thể được cần đến và bị
ném ra theo yêu cầu thay đổi của các nhà tư bản. Khi nền kinh tế đang được cải thiện, họ
cần công nhân ngay thì họ sẽ thuê một số người thất nghiệp. Khi kinh doanh bị giảm
xuống, cần tiết kiệm tiền thì bỏ những người đó đi.
Các nhà kinh tế học tư bản chủ nghĩa nói về cung và cầu lao động: bất kể tình hình của

nền kinh tế như thế nào, nhóm người thất nghiệp sẽ giúp giữ ổn định mức lương công
nhân và các yêu cầu khác giảm xuống. Marx chỉ ra rằng:
"Đội quân dự trữ công nghiệp trong thời kỳ đình trệ và sự bình ổn làm giảm hoạt động
của đội quân lao động; trong giai đoạn sản xuất thừa và bùng nổ, nó kìm hãm sự kì vọng.


Đội quân dự trữ công nghiệp là trung tâm mà theo đó luật về nhu cầu và cung ứng lao
động có hiệu quả. Nó giới hạn luật này trong những giới hạn hoàn toàn thuận tiện cho sự
khai thác và thống trị của giới tư bản."

2) Quan điểm toàn diện của triết học Marx - Lenin
Trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối liên hệ và tác
động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau.
Như chúng ta đã biết “Quan điểm toàn diện” là quan điểm được rút ra từ nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó phải tính đến những
mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục quan điểm phiến diện.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế giới vật chất,
không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế giới này có rất nhiều
mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng, giữa vật chất và tinh
thần. Các mối liên hệ đều là sự phản ánh những tác động qua lại, phản ánh sự quy định
lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Không chỉ có vậy, các mối
liên hệ còn có tính đa dạng:
+ Mối liên hệ bên trong và bên ngoài
+ Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp
Ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động lẫn nhau giữa các
sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn nhau của các mặt, các yếu tố,
các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên hệ cơ bản thuộc về bản chất của sự vật,

đóng vai trò quyết định, còn mối liên hệ không cơ bản chỉ đóng vai trò phụ thuộc, không
quan trọng. Đôi khi lại có mối liên hệ chủ yếu hoặc thứ yếu. Ở đó còn có mối liên hệ trực
tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ gián tiếp trong đó có các sự
vật và hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian.


Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia các mối liên hệ ra
thành từng loại như trên tuỳ theo tính chất đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp,
vai trò trực tiếp hay gián tiếp, nghiên cứu sâu hay sơ qua.
Phân chia các mối liên hệ phải phụ thuộc vào việc nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và
phát triển của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải có quan điểm toàn diện
tức là nhìn nhận sự việc, vấn đề ở mọi góc cạnh, mọi phương diện. Theo Lenin, muốn
thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mối quan hệ
trực tiếp và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một
cách hoàn toàn đầy đủ, những sự vật cần thiết phải xét đến tất cả mọi mặt sẽ đề phòng
cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và cứng nhắc ( Lê Nin toàn tập - NXB Tiến Bộ).
Khi xem xét sự vật hiện tượng thì luôn phải chú ý đến quan điểm toàn diện tức là khi
xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa
chúng, sự tác động qua lại của các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp cấu thành sự
vật đó, phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, nghiên cứu quá trình phát triển
từ quá khứ, hiện tại và dự đoán cho tương lai. Thế nhưng xem xét toàn diện không có
nghĩa là xem xét tràn lan mà phải xem xét từng yếu tố cụ thể nhưng có tính chọn lọc. Có
như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật.
Và cả khi nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm toàn diện vì các mối quan hệ
trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng đan xen tác động qua lại
với nhau .
Tình trạng thất nghiệp cũng là một vấn đề xã hội mà nguyên nhân gây ra là tập hợp của
nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng đến nhau. Chính vì vậy, trong bài tập lớn này em sẽ vận
dụng quan điểm triết học Marx - Lenin để phân tích tình trạng này.


II/ Phân tích thực trạng việc làm của Việt Nam hiện nay
1) Thực trạng:
a. Tình hình chung
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2016 tổng số
người thất nghiệp của Việt Nam là 1,12 triệu người, chiếm khoảng 2.23%. trong đó tỷ lệ


thất nghiệp của lao động có trình độ đại học trở lên của cả nước là 3.96% và số liệu này
đặc biệt cao ở khu vực thành thị.
Công bố tại họp báo ngày 25/3, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê –ông Nguyễn Bích
Lâm cho biết trong quý đầu năm, cả nước có 53,3 triệu người có việc làm, trong đó khu
vực thành thị chiếm 31,4%. "Nguồn nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng trình độ
tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi có tỷ
trọng người có việc làm chiếm tới gần 70% lao động của cả nước”
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến thời điểm 01/4/2016 ước tính là
54.4 triệu người, tăng 1.4% so với cùng thời điểm năm 2015. Đến thời điểm trên, lực
lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 47.8 triệu người, tăng 0.2% so với cùng
thời điểm năm trước. Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý 01/2016 ước tính là
53.3 triệu người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý 1/2016 ước tính là 2.23%. Tỷ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên của cả nước là 3.96% (cao
hơn 1.73 điểm phần trăm so với tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi).
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (15 - 24 tuổi) quý 1/2016 ước tính là 6.47%. Tỷ lệ thất
nghiệp của người từ 25 tuổi trở lên quý 1/2016 là 1.27%. Còn tỷ lệ thiếu việc làm của lao
động trong độ tuổi quý 1/2016 năm nay ước tính là 1.77% (quý 01/2015 tương ứng là
2.43%).
Đặc biệt, thanh niên ở khu vực thành thị tìm kiếm việc làm khó hơn ở khu vực nông thôn.
Ở nhóm thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp trên toàn quốc là 6,47%, cao gấp 5 lần thống kê
chung dành cho những người trên 25 tuổi. Báo cáo chỉ rõ : “Tỷ lệ này đặc biệt cao ở khu
vực thành thị với 9,51%, tức là cứ 10 thanh niên trong lực lượng lao động ở khu vực

thành thị thì có gần một người thất nghiệp”.
Cập nhật của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến tháng 9/2016, dân số cả nước ta ước
tính 92,70 triệu người, tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với năm
2015, bao gồm dân số thành thị 32,06 triệu người (chiếm 34,6%); dân số nông thôn 60,64
triệu người (chiếm 65,4%); nam giới 45,75 triệu người (chiếm 49,4%); nữ giới 46,95
triệu người (chiếm 50,6%).


Với cơ cấu dân số này, tính đến thời điểm 01/10/2016, ước tính cả nước có 54,44 triệu
người từ 15 tuổi trở lên, tăng 122,7 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2015. Trong
đó, nam giới 28,02 triệu người, chiếm 51,5%; nữ giới 26,42 triệu người, chiếm 48,5%. Số
người sống tại thành thị là 17,54 triệu người, chiếm 32,2%; còn 36,90 triệu người, chiếm
67,8% sống tại khu vực nông thôn.
Số người trong độ tuổi lao động khoảng 47,88 triệu người, giảm 233,2 nghìn người so
với cùng thời điểm tháng 9 năm ngoái. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng theo từng quý.
Cụ thể, quý I/2016 tỷ lệ là 2,25%; quý II là 2,29%; ước tính quý III là 2,34%. Tính chung
9 tháng năm nay, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,29%, trong đó khu vực
thành thị là3,23%; khu vực nông thôn là 1,82%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi) 9 tháng đầu năm là 7,04%, trong đó
khu vực thành thị là 11,65%; khu vực nông thôn là 5,27%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao
động trong độ tuổi quý I là 1,76%; quý II là 1,55%; quý III ước tính là 1,68%. Tính
chung 9 tháng năm 2016, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 1,66%, trong
đó khu vực thành thị là 0,70%; khu vực nông thôn là 2,11%.
Tổng cục Thống kê cũng cho biết, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ
nông, lâm nghiệp, thủy sản (gồm những người không làm việc trong khu vực hộ nông
nghiệp và thuộc một trong 3 nhóm: lao động gia đình không được hưởng công hưởng
lương; người chủ hoặc xã viên hợp tác xã của cơ sở chưa có đăng ký kinh doanh và người
làm công ăn lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn
nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc) quý
II là 56,1%; quý III ước tính là 55,8%. Tính chung 9 tháng năm 2016 cả nước có 55,9%

lao động có việc làm phi chính thức, trong đó khu vực thành thị là 47,1%; khu vực nông
thôn là 63,9%.
b. Các nhân tố
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã từng
bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế hàng hóa và
thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt đưọc những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập, chưa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh:


Ở khía cạnh cung - cầu lao động, việc làm mất cân đối lớn, cung lớn hơn cầu. Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị giảm chậm, tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn thấp, chỉ đạt trên, dưới
70%. Số doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp nên khả năng tạo việc làm và thu hút lao
động còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Tình trạng thiếu việc
làm cao, chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận
tâm với công việc.
Ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và vai trò điều tiết
của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động còn hạn chế. Sự kiểm soát, giám sát thị
trường lao động, việc làm chưa chặt chẽ. Cải cách hành chính hiệu quả thấp đối với bản
thân người lao động và cả xã hội.
Cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề
thấp. Kỹ năng tay nghề, thể lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công
nghiệp chưa cao. Các văn bản của Nhà nước hướng dẫn thực hiện các luật về lao động,
việc làm và thị trường lao động chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, gây áp lực
cho vấn đề giải quyết việc làm. Khả năng cạnh tranh yếu, nhất là ở những lĩnh vực yêu
cầu lao động có trình độ cao. Cơ cấu ngành nghề đào tạo chuyên môn kỹ thuật chưa đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế đòi hỏi.
Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh tranh diễn ra

ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp đến toàn nền kinh tế, từ bình diện
trong nước đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp không thích nghi kịp có nguy cơ
phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực
nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao động nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại
trong quá trình hội nhập. Di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các
khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy
cảm như "chảy máu chất xám, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2017 ước
tính là 2,30%, trong đó khu vực thành thị là 3,21%, khu vực nông thôn là 1,82%, nằm
trong top những nước có tỉ lệ thất nghiệp thấp trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là Việt Nam đang có tình trạng việc làm ổn định cho người dân.


Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (World Bank) thì nước ta đang rất thiếu lao động
có trình độ tay nghề, công nhân kĩ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
cũng thấp hơn nhiều so với các nước khác. Trong khi tồn tại một nghịch lý đó là cử nhân,
thạc sĩ ra trường không có việc làm vẫn còn ở mức báo động. Cử nhân mới ra trường
hoặc đã tốt nghiệp nhiều năm nhưng lại chưa có việc làm, thậm chí là thạc sĩ cũng chấp
nhận làm trái ngành được đào tạo. Sự dư thừa về lao động có trình độ dẫn đến tình trạng
hơn 100.000 cử nhân đang làm những công việc đơn giản, không yêu cầu bằng cấp đang
là thực tế của thị trường lao động hiện nay. Theo các chuyên gia thì ngay trong năm 2017
này sẽ có khoảng 200.000 cử nhân sẽ thất nghiệp.
Như vậy, so với thế giới, Việt Nam thuộc diện có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhưng đối với tình
hình lao động việc làm trong nước thì tỉ lệ thất nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao.

2) Nguyên nhân của sự thất nghiệp tại Việt Nam
a. Nguyên nhân sâu xa
Nguyên nhân khiến người lao động bị mất việc chủ yếu là do suy thoái kinh tế toàn cầu.
Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, có doanh nghiệp phải đóng cửa hoàn toàn do
sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, nhất là những doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì

vậy họ phải cắt giảm bớt nguồn nhân lực khiến nhiều người mất việc làm. Không những
vậy tình hình dân số tăng nhanh cũng khiến cơ hội việc làm của nhiều người gặp khó
khan.
Số người cần việc luôn tăng, việc làm thì không đáp ứng được. Chất lượng việc làm mới
vẫn thiếu bền vững và thấp. Theo số liệu của PGS-TS Trần Đình Thiên và các cộng sự
(Viện Kinh tế Việt Nam), trong năm 2014, nền kinh tế có những dấu hiệu tích cực hơn so
với 2 năm 2012 và 2013 nên đã giải quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tăng
3,6% so với thực hiện năm 2013, trong đó tạo việc làm trong nước khoảng 1,494 triệu lao
động, đạt 98,8% kế hoạch, tăng 2,7% so với năm 2013. Tuy nhiên, đó chỉ là dấu hiệu tích
cực về mặt số lượng, chất lượng việc làm mới vẫn thấp và thiếu bền vững. Cụ thể hơn về
tình trạng này, TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc
hội, cho biết: Đến thời điểm 31-12-2014, dân số cả nước là 90,7 triệu người, trong đó có
54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động. Cả nước đã có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu
việc làm (tỉ lệ 2,45%, trong đó khu vực thành thị là 1,18% và nông thôn là 3,01%) và gần


1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,08%; trong số này khu vực thành thị là 3,43% và
nông thôn là 1,47%.
Như vậy, số việc làm tạo ra dù tăng nhưng không theo kịp số người có nhu cầu tìm việc,
vì vậy tỉ lệ thất nghiệp vẫn nóng bỏng.
Ở nước ta, lực lượng lao động phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế, chủ yếu
tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Tình trạng mất cân đối
cung – cầu lao động cục bộ vẫn thường xuyên xảy ra. Thị trường lao động nước ta chủ
yếu tập trung ở các thành phố lớn, nơi có nhiều KCX-KCN, các vùng kinh tế trọng điểm.
Nhưng một số tỉnh lại có tình trạng dư cung, đang phải đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp cao.
Hơn thế nữa, hiệu quả, năng suất lao động trong các ngành kinh tế thấp và có sự khác biệt
đáng kể giữa khu vực công nghiệp, khu vực nông nghiệp với và khu vực dịch vụ. Vì vậy,
chúng ta chưa tạo điều kiện phát huy được lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao
động và góp phần phân bố lại lực lượng lao động hợp lý hơn. Đây chính là nguyên nhân
tạo ra sự mất cân đối về lao động và là tác nhân của thiếu việc làm, thất nghiệp.

Không chỉ vậy, chất lượng lao động còn thấp. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được
khảo sát tại châu Á.
Việc đào tạo nhân lực với chất lượng, hiệu quả kém cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến
năng suất lao động của Việt Nam thấp. Theo số liệu của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế
ILO, năm 2014, năng suất lao động của Việt Nam được xếp vào nhóm thấp nhất của khu
vực châu Á Thái Bình Dương: thấp hơn Thái Lan 2,7 lần; Philippines 1,8 lần; Indonesia
2,4 lần; Malaysia 6 lần; Singapore 15,6 lần; Brunei 17,6 lần.
Một số nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới năng suất lao động của nước ta đạt thấp so
với các nước trong khu vực, theo TS Bùi Sỹ Lợi (tại Diễn đàn Kinh tế mùa xuân, vừa tổ
chức tuần này ở TP Vinh, tỉnh Nghệ An): Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch
tích cực nhưng tỉ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn ở mức
cao. Chất lượng nguồn lao động thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, hiệu quả sử dụng qua
đào tạo chưa cao. Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu với tỉ lệ doanh
nghiệp công nghệ thấp và trung bình trong toàn ngành chế biến, chế tạo. Trình độ tổ chức
quản lý, quản trị doanh nghiệp còn yếu cùng với hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp.


Ngoài ra, tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam trong các ngành sản xuất và dịch
vụ vẫn còn ở mức thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Điều này cho thấy
thị trường lao động Việt Nam thiếu ổn định, việc làm chưa đầy đủ và bền vững, với năng
suất lao động thấp.
Năng suất lao động thấp như vậy sẽ là một thiệt thòi lớn cho lao động Việt Nam khi hội
nhập quốc tế.
Nguồn nhân lực nước ta yếu về chất lượng, tác phong lao động công nghiệp, thiếu năng
động và sáng tạo… Thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, chưa đáp ứng
được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu
chuẩn của quốc tế.
Lao động nước ta chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, ngại
phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu

rủi ro. Vì vậy mà tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam không ngừng tăng cao.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy một hiện tượng là sinh viên tốt nghiệp ra trường chỉ muốn
trụ lại thành phố để làm việc kể cả những sinh viên xuất thân và lớn lên từ những miền
quê. Họ chấp nhận ở lại thành phố để làm việc dù là việc không đúng với ngành được đào
tạo hoặc có thu nhập thấp. Như vậy một số nơi như hải đảo, vùng sâu, vùng xa thì vẫn
thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trong khi thành phố vẫn phải đương đầu với sức ép của
tình trạng thất nghiệp. Trên thực tế, sinh viên tốt nghiệp cầm trên tay tấm bằng đỏ đại học
nhưng vẫn phải đi làm công nhân; 2-3 năm mỏi mắt không kiếm được việc làm đúng
chuyên ngành đã được đào tạo vì đa phần đều bị các doanh nghiệp “từ chối” do thiếu
kinh nghiệm…
Mặc dù đã tiến hành 2 đợt cải cách tiền lương, tạo điều kiện đổi mới chính sách tiền
lương khu vực sản xuất kinh doanh theo định hướng thị trường nhưng mức tiền lương tối
thiểu thấp chưa được tính đủ, tính đúng cho mức sống tối thiểu và chỉ đáp ứng được 70%
nhu cầu cơ bản của người lao động, thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên thị trường
khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của
khu vực ASEAN.
Công tác quản lý nhà nước về việc làm – lao động còn nhiều hạn chế, hệ thống thông tin
thị trường lao động còn sơ khai thiếu đồng bộ, các chính sách, pháp luật đang từng bước
hoàn thiện. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp hết sức tiến bộ nhưng chưa đạt được như


những gì mong muốn nhằm không chỉ hỗ trợ cuộc sống người lao động khi mất việc làm
mà còn phải tư vấn, đào tạo nghề, hỗ trợ để giúp quay lại thị trường lao động.
Những nguyên nhân trên đã cho ta thấy về tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam, đây là một
vấn đề nhức nhói cần được giải quyết càng sớm càng tốt.
b. Nguyên nhân trực tiếp
Một trong những nguyên nhân chính là cung không gắn với cầu. Người “cung” nguồn
nhân lực chính là các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ giáo dục quản lý. Trách nhiệm
của người đứng đầu ngành giáo dục như thế nào khi hàng năm, số lượng sinh viên ra
trường ồ ạt nhưng các trường thi nhau mở các ngành tràn lan xảy ra tình trạng “thừa thầy

thiếu thợ”. Sinh viên ra trường thất nghiệp ồ ạt, phần nhiều là vì:
- Thiếu định hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc phụ huynh.
Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹ thường thiên về những
ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ,… Mặt khác, xu hướng thị
trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề
“hot” để theo kịp bạn bè, ra oai chứ không thực sự vì đam mê và sở trường.
Nhiều nhà chuyên môn cũng như các nhà tuyển dụng đều cho rằng, khâu đào tạo tại
nhiều trường hiện đều rất kém. Nhiều sinh viên sau khi thi trượt ngành mình mong muốn
thì chuyển sang ngành học khác hoặc học các ngành không theo lựa chọn của bản thân
mà theo sự “ép buộc” từ gia đình, dẫn đến việc chỉ học để có được tấm bằng khi ra
trường.
- Học thụ động
Học thụ động là cách học lỗi thời, chờ đợi kiến thức từ giáo viên đưa xuống, không
chuẩn bị cho môn học, lười áp dụng bài học vào cuộc sống. Cách học này khiến sinh viên
không nắm được kiến thức, quen với tính cách lười nhác dẫn đến thiếu chủ động trong tất
cả các công việc sau này. Mà rõ ràng, sẽ không có nhà tuyển dụng nào lại muốn bỏ tiền ra
để mời một nhân viên máy móc, lười nhác, và không có tinh thần cầu tiến về làm việc.
Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, sinh viên học đến đâu sẽ được thực hành ngay đến
đó, nên sẽ nhớ rất lâu. Nhiều vấn đề thay vì phải giảng giải lý thuyết như ở Việt Nam, thì
sinh viên nước ngoài được thực hành ngay. Mỗi khi thực tập, sinh viên được đến các


công ty và thực hành ngay tại đó, vì thế kỹ năng làm việc của sinh viên được hình thành
ngay từ khi bắt đầu vào học tại trường.
Ở Việt Nam, chương trình cử nhân trung bình phải mất 4 năm, tách bạch giữa học và
hành. Trong 3,5 năm đầu của khóa học, sinh viên được học “nhồi nhét” kiến thức, chỉ còn
một kỳ cuối của khóa học là được dành cho cả chương trình thực tập và làm đề án tốt
nghiệp. Nội dung chương trình thực tập ngắn, lại rất sơ sài, nên cuối cùng, sau 4 năm
học, sinh viên chỉ có kiến thức lý thuyết “nhồi nhét”, còn kỹ năng làm việc được trang bị

rất ít, hoặc thậm chí không có.
Nhiều sinh viên đi tìm việc làm sau khi tốt nghiệp đã bị nhà tuyển dụng loại sớm bởi cách
trình bày hồ sơ xin việc sơ sài, ngôn ngữ sử dụng thiếu tính chuyên nghiệp, thậm chí địa
chỉ email liên lạc cũng thiếu nghiêm túc,…
- Tiếng Anh hạn chế
Một trong các lý do tạo nên thực trạng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh.
Tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất cả mọi ngành nghề trong thời
hiện đại. Hầu hết sinh viên ở các trường đại học đều được học tiếng Anh, nhưng chính
thái độ học thụ động, cơ sở vật chất thiếu, giáo viên không đủ trình độ khiến kỹ năng
ngoại ngữ kém. Chỉ khi có được động lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào
thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển
dụng.
Tất cả sinh viên đều được học tiếng Anh trong trường và đa số các bạn đều có sẵn bằng
cấp tiếng Anh để ứng tuyển vào các công ty. Tuy nhiên, cách thức dạy và học thụ động,
không áp dụng thực tế làm cho kỹ năng ngoại ngữ chỉ còn là con số 0. Các công ty mong
muốn nhân viên phải vận dụng được tiếng Anh, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp vào công
việc nhưng đa số sinh viên không thể đáp ứng được. Chính vì thế, để vượt qua hạn chế
này, các bạn sinh viên nên cố gắng thực hành tiếng Anh càng nhiều càng tốt hơn là chỉ cố
gắng học để lấy được một bằng cấp hữu danh vô thực. Một khi tiếng Anh vững chắc thì
thành công sẽ mở lối cho chúng ta.
- Không chú trọng trang bị kỹ năng mềm
Một trong những yêu cầu quan trọng mà nhà tuyển dụng cực kỳ quan tâm, đó chính là kỹ
năng mềm. Trong suốt 4 năm ở trường đại học, rất nhiều sinh viên quan niệm rằng chỉ


cần vào lớp nghe giảng, học những gì được dạy trên giảng đường là đủ rồi. Hầu hết thời
gian còn lại các bạn dành cho các trò giải trí vô bổ như nhậu nhẹt, game online... Các bạn
không biết rằng, trong môi trường công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang bị tốt
cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết trình, quản lý thời gian,… mới thực sự
là yếu tố quyết định giúp khác biệt và làm việc hiệu quả.

Khi còn đi học, nhiều sinh viên cho rằng để có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc
thì cần phải có các chứng chỉ vi tính, ngoại ngữ,… nên đổ xô đi học tại các trung tâm để
có được các bằng cấp này.
Tuy nhiên, trong thực tế, các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty nước ngoài lại rất chú
trọng đến kỹ năng làm việc, xử lý tình huống, kỹ năng ứng xử, giao tiếp, truyền đạt, khả
năng làm việc theo nhóm,…
Các công ty thường đưa ra thời gian thử việc từ 1 đến 2 tháng, và trong khoảng thời gian
này, không có nhiều những ứng viên thực sự có khả năng tiếp thu, xử lý công việc. Ngay
cả những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi với điểm số rất cao, qua thử việc thực tế, các sinh
viên này lại không được đánh giá cao và không được nhận làm.
Có một nghịch lý hiện đang tồn tại là dù số lượng sinh viên ra trường có tỷ lệ thất nghiệp
cao nhưng các công ty vẫn thiếu người làm, bởi lẽ, sinh viên không có kỹ năng để đáp
ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
Sinh viên hiện nay kỹ năng mềm còn hạn chế, kiến thức cơ bản chưa vững. Do vậy chất
lượng của sinh viên có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất khoảng 20% là các sinh
viên tích cực, chăm chỉ trong học tập và có thái độ nghiêm túc; Nhóm thứ 2 khoảng 30%
là các sinh viên học bình thường; Nhóm thứ 3 khoảng 50% là sinh viên học đối phó và
lười học.
Thế nhưng kết quả cấp bằng của một số ngành đưa ra con số đáng kinh ngạc, khoảng
70% bằng giỏi, điều này không những phản ánh không thật về chất lượng đào tạo mà còn
ảnh hưởng tới uy tín của Nhà trường.
- Chất lượng của các đại học tại Việt Nam còn nhiều hạn chế:
Nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo đại học của Việt Nam còn hạn chế, theo
các chuyên gia đánh giá: Chưa làm chủ được công nghệ truyền tải, kỹ năng chuyên
nghiệp yếu, thiếu tư duy sáng tạo, kỹ năng mềm yếu, chưa thâm nhập được vào công


việc, năng suất lao động thấp, quan cách trong phục vụ, thụ động trong công việc... Chất
lượng đào tạo kém do nhiều nguyên nhân khác nhau, cụ thể: Năng lực yếu kém của bộ
máy tham mưu, quản lý và điều hành giáo dục cấp vĩ mô và vi mô.

Các trường chạy theo số lượng đào tạo mà coi nhẹ chất lượng. Trong cơ chế tự chủ tài
chính nửa vời như hiện nay đã dẫn tới đa số các trường đại học chạy theo số lượng quy
mô đào tạo để có nguồn tài chính bù đắp các khoản chi thường xuyên. Hệ quả là một số
trường công đua nhau tuyển giảng viên để tăng số lượng theo quy chế của Bộ Giáo dục
và Đào tạo mà coi nhẹ chất lượng giảng dạy, để từ đó có điều kiện tuyển số lượng sinh
viên mà không quan tâm tới nhu cầu của xã hội và chất lượng đào tạo, dẫn đến lượng
sinh viên tốt nghiệp bị thất nghiệp ngày càng cao.
Về chương trình đào tạo Chương trình đào tạo đại học của các trường đại học thường xây
dựng chưa được công phu, chưa đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao động, chưa xuất
phát từ điều kiện thực tiễn của nền kinh tế có nhiều biến động. Thông thường xây dựng
chương trình đào tạo còn mang tính chủ quan, chưa thông qua kết quả khảo sát, nghiên
cứu của các chuyên gia và doanh nghiệp... Nhiều trường đại học sử dụng chương trình
còn sao chép của các trường khác, sau đó cắt bớt tỷ lệ % số tiết theo chủ quan của người
xây dựng.
- Nhiều công ty chỉ tuyển dụng người có kinh nghiệm và ngoại hình. Kinh nghiệm và
hình thức là yêu cầu thường thấy trong các mẫu tin tuyển dụng của các công ty. Qua các
tin này, chúng ta thường thấy yêu cầu của nhiều nhà tuyển dụng hay có gạch đầu dòng
đầu tiên là - "Hình thức khá" hoặc "Ngoại hình ưa nhìn" tiếp sau đó mới đến các yêu
cầu về bằng cấp, kỹ năng... Điều này cũng dễ lý giải bởi vì bất kỳ công ty nào cũng mong
muốn tuyển được một nhân viên có kinh nghiệm làm việc để có thể giảm thời gian và chi
phí trong công tác đào tạo người mới. Thêm vào đó, một hình thức ưa nhìn sẽ luôn được
ưu tiên vì ai cũng yêu thích nhìn cái đẹp thị giác, đặc biệt là những công việc có tính chất
xã giao, tiếp xúc với khách hàng. Thực tế, chỉ có số ít các công ty muốn tuyển dụng
người mới ra trường mà không cần kinh nghiệm. Những ai trải qua quá trình tìm việc và
phỏng vấn chắc hẳn sẽ thấy rõ thực trạng này. Đây cũng là một thử thách khó khăn cho
các bạn sinh viên trong quá trình xin việc đầy cạnh tranh hiện nay.

3) Giải pháp



a. Với sinh viên và phụ huynh
- Phụ huynh cần có cái nhìn đúng đắn, đừng có suy nghĩ chỉ có con đường đại học mới có
thể dẫn tới thành công. Phải nói rằng có được tấm bằng đại học để ra nghề là một điều rất
cần và quan trọng Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng đại học chưa phải là con đường
duy nhất để lập nghiệp. Vì vậy bản thân đối tượng được đào tạo cũng như các bậc phụ
huynh cần phải đánh giá lại cách nhìn nhận làm sao để chọn ngành phù hợp cho con em
mình và hoàn cảnh gia đình mà vẫn có ích cho xã hội.
- Những sinh viên ra trường cũng cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn
cho mình một nơi làm việc. Có thái độ đúng đắn, tích cực trong học tập, chăm sang tạo
nâng cao thành tích.
b. Với Nhà nước
- Đẩy mạnh các chính sách giáo dục – đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ,
đẩy mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo.
- Đứng trước áp lực sinh viên mới ra trường có tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đưa ra lộ trình ngừng tuyển sinh hệ cao đẳng và trung cấp tại các cơ sở đào tạo
đại học nhằm tập trung nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân và thạc sỹ cũng như giảm tỷ
lệ sinh viên thất nghiệp.
- Phát triển các trường dạy nghề để đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn cao,
giúp họ nhận thức được tầm quan trọng của việc học hỏi, nâng cao trình độ, tay nghề.
- Hỗ trợ học phí cho các học viên về các ngành nghề mà các doanh nghiệp cần nhưng ít
người được học như cơ khí, kĩ sư.
- Phát triển mạng lưới thông tin thị trường, giới thiệu các cơ sở tuyển dụng việc làm cho
doanh nghiệp đến đông đảo người lao động, giúp họ dễ dàng tìm được việc thích hợp.
- Xây dựng chế độ tiền lương, chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân viên một cách hợp
lý. Cần có chế độ thưởng, phạt công khai, rõ ràng theo năng lực và thành tích cá nhân
như các doanh nghiệp nước ngoài áp dụng cho nhân viên của mình sẽ tạo động lực cho
nhân viên phát huy hết khả năng mà họ đang có.
Như vậy, với những hướng giải quyết đơn giản như trên nhưng có thể trong tương lai gần
Việt Nam sẽ thu hút thêm được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn nữa để trở thành một
nước có nền kinh tế phát triển đứng vào hàng ngũ các nước công nghiệp trên thế giới.



Các nguồn tài liệu tham khảo:
/> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> />



×