Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý HOẠT ĐỘNG NGHIÊN cứu KHOA học của SINH VIÊN TRƯỜNG đại học CÔNG NGHIỆP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.8 KB, 90 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1

1.1.
1.2.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Các khái niệm cơ bản

11
11

Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa hoc của sinh
viên Đại học
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nghiên cứu
khoa học của sinh viên Đại học

27

THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC


CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

37

Khái quát chung về trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội
Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

37
42

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

66

3.1.

Định hướng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội
Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp


66

1.3.
Chuơng 2

2.1.
2.2.
2.3.

3.2
3.3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn xác định khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng

31

54

69
81
89
92
96



2

đối với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngay từ khi
bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đến khoa học
và công nghệ, coi đó là nhân tố quyết định tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày
30/3/1991 của Bộ Chính trị (Khóa VI) về “Khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp đổi mới” Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi
khoa học và công nghệ là động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới đất
nước, ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, coi những người làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán
bộ tin cậy, quí báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta". Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển
khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững” [10, tr.132], đồng thời chủ trương “hướng mạnh
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ gắn với yêu cầu phát triển
của từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm, gắn với đào tạo và sản xuất
kinh doanh” [10, tr.134].
Đối với lĩnh vực giáo dục, NCKH là một chức năng của các trường đại
học. Với chức năng này, các trường đại học không chỉ là trung tâm đào tạo mà
còn trở thành trung tâm NCKH, sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri
thức, chuyển giao công nghệ mới và hiện đại. Hoạt động NCKH được coi là
một trong những nội dung quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
đồng thời góp phần khẳng định thương hiệu của mỗi nhà trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Với các trường đại học Công Nghiệp Hà Nội, nghiên cứu
khoa học trở thành nhiệm vụ chính trị trung tâm, phục vụ trực tiếp cho công tác
giáo dục, đào tạo, xây dựng nhà trường và phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
CNH và HĐH đất nước trong tình hình mới.
Vì lẽ đó, vấn đề tổ chức NCKH cho SV ở trường Đại học nhằm trang

bị cho họ kỹ năng và phương pháp NCKH, có khả năng làm việc độc lập,
sáng tạo để tiếp tục đi sâu vào chuyên môn của mình, nâng cao tầm hiểu biết
để tiến kịp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, thời đại là vấn đề cấp thiết
hiện nay.
Tiến hành khảo sát thực trạng việc tổ chức thực hiện hoạt động NCKH
của SV ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội để từ đó tìm biện pháp quản
lý hoạt động NCKH cuả SV có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng NCKH
cho SV thực hiện tốt công tác đào tạo.


3

Từ lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ” làm luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
* Các công trình nghiên cứu về nghiên cứu khoa học
Các tác giả Hoàng Đạo, Đào Đình Thức, Nguyễn Đình Khoa cho
rằng: công tác hướng dẫn đánh giá sản phẩm khoa học của SV có tác động
không nhỏ tới kết quả NCKH của SV, các tác giả cho rằng: tổ chức hướng
dẫn SV NCKH trên tinh thần giáo viên chủ động hướng dẫn, theo sát SV
trong quá trình thực hiện các kế hoạch nghiên cứu, kiểm tra chặt chẽ các kết
quả nghiên cứu, không làm thay SV nhưng cũng không phó mặc cho SV mò
mẫm, hướng dẫn tốt các mặt lý thuyết, phương pháp rèn luyện tác phong của
người làm công tác NCKH, các tác giả cho rằng phải; đánh giá quá trình
NCKH của SV, đánh giá nội dung, hình thức của các đề tài khoa học do SV
thực hiện; đánh giá dựa trên kết quả của buổi bảo vệ đề tài khoa học của SV.
Tạp chí giáo dục đã đăng tải một số công trình nghiên cứu và bài viết
về hoạt động NCKH ở giáo dục đại học với các cách tiếp cận khác nhau
như: “Nghiên cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm

nâng cao chất lượng đào tạo đại học” của TS. Đỗ Thị Châu – Tạp chí giáo
dục số 96/2004; “Nghiên cứu khoa học giáo dục trong giai đoạn tới” của
PGS.TS. Nguyễn Hữu Châu – Tạp chí giáo dục số 98/2004; “Logic nội dung
và các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài khoa học về giải pháp quản lý giáo dục”
của TS. Nguyễn Phúc Châu – Tạp chí giáo dục số 143(kỳ I)/2006; “Khảo sát
thực trạng quản lý nghiên cứu khoa học trong đại học đa nghành, đa lĩnh
vực” của Lê Yên Dung – Tạp chí giáo dục số 211/2009… các bài viết này đã
đề cập đến vai trò , ý nghĩa của NCKH đối với việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Chỉ ra nội
dung, nhiệm vụ và định hướng NCKH giáo dục. Tuy nhiên các nghiên cứu
trên chỉ dừng lại ở nghiên cứu công bố trên các tạp chí nên chưa làm rõ được
thực trạng và đưa ra các giải pháp cụ thể trong công tác quản lý hoạt động
NCKH trong các trường đại học.
Nhiều tác giả, các nhà khoa học đã cho ra các giáo trình hướng dẫn
SV Đại học, Cao đẳng NCKH dưới các tiêu đề “Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học”,“Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” của
PGS.TS. Phạm Viết Vượng; “Phương pháp luận nghiên cứu học tập nghiên cứu” của GS. Nguyễn Văn Lê; “Phương pháp luận nghiên cứu khoa


4

học” của TS. Vũ Cao Đàm; “Phương pháp luận khoa học giáo dục” của
PGS.TS. Đặng Vũ Hoạt; TS. Hà Thị Đức; “ phương pháp học tập nghiên
cứu của SV Cao đẳng, Đại học” của TS. Phạm Trung Thành với mục đích
cung cấp cho SV cơ sở phương pháp luận, phương pháp NCKH để họ rèn
luyện, thực hành tập dượt NCKH có hiệu quả. Các giáo trình mà các nhà
khoa học cho xuất bản ngày càng khai thác, cập nhật bổ sung thông tin khoa
học, tăng cường sự chính xác hoá loại bỏ những thông tin khoa học lạc hậu,
đưa vào giáo trình các thông tin khoa học mới, bên cạnh đó có tính tới trình
độ nghiên cứu của SV.

Tóm lại, điểm qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước về vấn đề tổ chức nghiên cứu khoa học cho SV, chúng tôi nhận
thấy: các tác giả đã tập trung phản ánh tính cấp thiết, vai trò quan trọng của
việc tổ chức cho SV NCKH. Một số tác giả đề xuất phương pháp, biện pháp,
cách thức hướng dẫn đánh giá nhằm nâng cao chất lượng NCKH của SV
trên cơ sở khảo sát thực trạng hoạt động NCKH của SV các trường Đại học.
* Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động NCKH
Các công trình nghiên cứu về vấn đề quản lý hoạt động NCKH đã
và đang được tiến hành nghiên cứu như: “Nghiên cứu các giải pháp đẩy
mạnh hoạt động khoa học, công nghệ của các trường Cao đẳng và Trung
học chuyên nghiệp” (Nguyễn Đức Trí chủ nhiệm); “Nghiên cứu những biện
pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ và
lao động sản xuất trong nhà trường” (Vũ Tiến Thành chủ nhiệm); “Điều tra
đánh giá tiềm lực khoa học và công nghệ của cấc trường đại học và cao
đẳng Việt Nam” (Thân Đức Hiền chủ nhiệm) “Nâng cao chất lượng hoạt
động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, cao đẳngtrên địa bần
thủ đô”(Nguyễn Văn Cường chủ biên)...cũng đã phân tích thực trạng và đưa
ra những giải pháp để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH.
Những nghiên cứu này mới chỉ đưa ra các giải pháp nói chung cho tất cả các
trường và nội dung quản lý hoạt động NCKH chưa được đề cập nhiều.
Một số luận văn thạc sỹ “Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học của trường Cao đẳng Hưng Yên” (2005) của Đỗ Thị Nhung;
“Một số biện pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của giáo viên trường Cao đẳng sư phạm Nghệ An” (2006) của Trần Văn
Phước;…đã đề cập đến công tác quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại
học, cao đẳng. Trong đó các tác giả luận văn đã xây dựng cơ sở lý luận của
vấn đề quản lý hoạt động NCKH ở các trường sư phạm, chỉ ra được thực


5


trạng các biện pháp quản lý hoạt động NCKH và đưa ra các nhóm giải pháp
nhằm tăng cường công tác quản lý hoạt động NCKH trong trường sư phạm
với những đặc thù riêng.
Trên quan điểm tiếp cận hệ thống, tiếp cận phát triển và tiếp cận
mục tiêu luận án tiến sỹ: “Mô hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
trong đại học đa ngành, đa lĩnh vực” của Lê Yên Dung (2010) đã tập trung
nghiên cứu để tìm ra phương thức tổ chức, cơ chi vận hành, giải pháp tác
động,…cho mô hình quản lý NCKH ở các trường đại học đa ngành, đa lĩnh
vực ở Việt Nam. Cơ sở của luận án được xây dựng dựa trên quan điểm quản
lý chất lượng tổng thể đó là xây dựng mô hình cấu trúc chức năng quản lý
hoạt động NCKH ở đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Kết quả nghiên cứu của
luận án của tác giả cho thấy việc vận dụng mô hình quản lý chất lượng tổng
thể để quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa ngành, đa lĩnh vực là phù hợp
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động NCKH, phát triển và nâng cao vị
thế trường đại học.
Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu trên đã có những đóng góp đáng
kể cho nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động NCKH ở các
trường đại học, cao đẳng. Mỗi đề tài nghiên cứu trên một phạm vi, thời gian,
đối tượng khác nhau gắn với một nhà trường cụ thể, làm sáng tỏ nhiều vấn
đề của quản lý hoạt động NCKH. Có thể nói ở Việt Nam chưa có công trình
nghiên cứu nào giải quyết đầy đủ, cụ thể vấn đề quản lý hoạt động NCKH ở
trường đại học, cao đẳng. Hơn nữa, vấn đề quản lý hoạt động NCKH của SV
trong nhóm các trường đại học kỹ thuật như Trường Đại học Công nghiệp
Hà Nội chưa thấy tác giả nào đề cập đến.
Tiến hành khảo sát thực trạng việc tổ chức thực hiện hoạt động NCKH
của SV ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội để từ đó tìm biện pháp quản
lý hiệu quả hoạt động NCKH nhằm nâng cao chất lượng NCKH của SV,
thực hiện tốt công tác đào tạo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng tổ chức hoạt
động NCKH của SV Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, đề xuất biện
pháp quản lý hoạt động NCKH của SV để góp phần thực hiện tốt mục tiêu
đào tạo ở Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu


6

Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động NCKH cho
sinh viên đại học.
Khảo sát thực trạng biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh
viên trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động NCKH của sinh viên t
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
4. Khách thể và đối tượng phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục- đào tạo của SV trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động NCKH của SV trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động NCKH của SV Đại học có rất nhiều hình thức: làm bài tập
lớn, đồ án tốt nghiệp, chế tạo Robocon, tham gia đề tài khoa học cấp trường
của SV dưới sự hướng dẫn của GV.
Luận văn nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động NCKH của SV
trong Đại học Công nghiệp Hà Nội
Thời gian nghiên cứu khảo sát, điều tra từ năm 2011-2014
5. Giả thuyết khoa học
NCKH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của SV Trường Đại

học Công nghiệp Hà Nội. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của SV giữ
vai trò trọng yếu, chất lượng NCKH của sinh viên và quản lý hiệu quả NCKH
của SV nhà trường, nếu thực hiện tốt qui trình quản lý hoạt động NCKH của
SV; xây dựng được hệ thống văn bản và cơ chế quản lý phù hợp; chỉ đạo, tổ
chức tốt việc ứng dụng kết quả NCKH vào thực tiễn GD& ĐT của Nhà trường;
phát huy vai trò của chủ thể quản lý và vai trò tự quản lý của SV; xây dựng môi
trường NCKH và tăng cường các điều kiện bảo đảm, thì chất lượng NCKH của
SV Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội được nâng lên, góp phần nâng cao chất
lượng ĐT của nhà trường, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp GD trong giai đoạn CNH
– HĐH đất nước.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam, Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về giáo dục
đào tạo và quản lí giáo dục, quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Đồng


7

thời đề tài nghiên cứu còn được thực hiện dựa trên quan điểm hệ thống – cấu
trúc; đối chiếu – so sánh, Lịch sử, logic, quan điểm thực tiễn trong nghiên
cứu khoa học quản lý giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa quản lý
giáo dục trong đó tập trung một số phương pháp chủ yếu như:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thông qua việc đọc các tài liệu, tác giả phân tích, tổng hợp và hệ
thống hóa các vấn đề lý thuyết có liên quan thành một hệ thống lý luận để
hình thành các khái niệm, nêu giả thuyết khoa học định hướng cho quá trình

nghiên cứu đề tài. Nghiên cứu các văn kiện, chính sách của Đảng và Nhà
nước, các văn bản qui phạm, qui chế về công tác quản lý giáo dục, quản lý
hoạt động khoa học và công nghệ, về những nhiệm vụ phát triển của Trường
Đại học Công Nghiệp Hà Nội trong giai đoạn tới.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Xây dựng các mẫu phiếu điều
tra thu thập thông tin về thực trạng hoạt động NCKH của sinh viên và quản
lý hoạt động NCKH ở Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động lãnh đạo, tác phong quản
lí của đội ngũ quản lí, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên để rút ra
những kết luận về nội dung cần nghiên cứu.
Phương pháp trò chuyện - phỏng vấn: Phương pháp nghiên cứu bằng
trò chuyện bổ xung cho phương pháp điều tra bằng an két, nhằm đảm bảo cho
tính khách quan các số liệu thu được.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Để đảm bảo tính khách quan các
số liệu thu được, sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm có liên quan tới
nghiên cứu khoa học của nhà trường như: Văn bản, tài liệu, các bài tập nghiên
cứu của sinh viên… Trên cơ sở đó để tìm hiểu thực trạng việc quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
quản lý khoa học trong những năm vừa qua, để xây dựng biện pháp tổ chức
nghiên cứu cho sinh viên.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến một số cán bộ quản lý giáo dục,
cán bộ quản lý khoa học về nội dung nghiên cứu luận văn.
+ Nhóm phương pháp thống kê toán học: Sử dụng toán thống kê để
xử lý các số liệu đã thu thập được kết quả nghiên cứu.


8


7. Ý nghĩa của luận văn
- Để xuất các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học công Nghiệp Hà Nội. Góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ giảng viên và sinh viên các trường cao đẳng và đại học.
8. Kết cấu của luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm; 3 chương(9 tiết); Kết luận và kiến nghị;
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm hoạt động nghiên cứu khoa học
Theo nghĩa thông thường NCKH thường được hiểu là nghiên cứu
những vấn đề của khoa học như: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa
học kỹ thuật. Nói chung, NCKH là tìm kiếm, xem xét, điều tra có khi cần cả
đến thí nghiệm, thực nghiệm để từ những dữ kiện đã có (kiến thức, tài liệu,
phát minh) đạt đến một kết quả mới hơn, cao hơn, giá trị hơn.
Trong cuốn “Bước đầu tìm hiểu phương pháp nghiên cứu khoa học
giáo dục” (tạp chí nghiên cứu giáo dục, 1974) của tác giả Phạm Minh Hạc
đã đưa ra định nghĩa “Nghiên cứu khoa học là phát hiện những hiện tượng
sự việc mới, có tính chân lý trong hiện thực hoặc khám phá những qui luật
nguyên lý mới trong hiện thực đó”.
Nhóm tác giả Trịnh Đình Thắng, Đỗ Công Tuấn, Lê Hoài An, với tác
phẩm “Nghiên cứu khoa học là một hoạt động trí óc bằng những phương
pháp nhất định để tìm kiếm, vạch ra một cách chính xác và có mục đích
những gì mà con người chưa biết đến tức là tạo ra sản phẩm dưới dạng kiến
thức mới”. Ở đây, định nghĩa về NCKH được các tác giả nêu nên như một
dạng lao động đặc thù - lao động trí óc với mục tiêu là làm ra những giá trị

nhận thức mới mà trước đó chưa ai biết.
Tác giả Vũ Cao Đàm đã nêu nên khái niệm về NCKH như sau:
“Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm
những điều mà khoa học chưa biết, hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát


9

triển nhận thức khoa học về thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới
hoặc là phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới”[8, tr.14].
Tác giả Phạm Viết Vượng – Nguyễn Xuân Thức cho rằng: “Bản chất
của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, tạo
ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới” [34, tr.22].
Với quan niệm bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo, thì sản phẩm của
NCKH chính là hệ thống thông tin mới về thế giới và những giải pháp cải
tạo thế giới. Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, hoàn thiện và bổ sung
theo sự phát triển của xã hội loài người và tiệm cận tới chân lý khách quan.
Như vậy, có thể quan niệm: Nghiên cứu khoa học là hoạt động có mục
đích, có kế hoạch của người nghiên cứu hướng vào việc tìm kiếm những điều
mà con người chưa biết hoặc phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức
khoa học về thế giới, hoặc là sáng tạo phương pháp mới, phương tiện kỹ thuật
mới để cải tạo thế giới.
Bản chất của NCKH là nhằm tạo ra giá trị nhận thức mới chưa ai biết
về đối tượng trong thế giới hiện thực.
Mục đích của NCKH là nâng cao năng lực nhận thức của loài người,
tạo ra hệ thống tri thức mới góp phần cải tạo cuộc sống và sản xuất.
Chủ thể của NCKH là các nhà khoa học với những phẩm chất trí tuệ
và tài năng vượt trội. Sự sáng tạo khoa học thường được bắt đầu từ ý tưởng
cá nhân sau đó được sự hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu của tập thể, theo định
hướng của người chủ trì.

Khách thể của NCKH là các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội,
tư duy mà nhà khoa học nghiên cứu để khám phá, sáng tạo ra tri thức khoa
học.
Đối tượng của NCKH là tri thức khoa học. Tri tức khoa học là “kết
quả của quá trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và
phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện”[35, tr 16].
Chức năng của NCKH là nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri
thức về nhận dạng, đánh giá một sự vật, giải thích nguồn gốc, trạng thái cấu
trúc, quy luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật. Đưa ra các giải
pháp, các nhận dạng trạng thái của sự vật trong tương lai.
Vai trò của khoa học và NCKH: Hiện nay trên thế giới, cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đang phát triển nhanh như vũ bão cùng với khối
lượng tri thức khoa học tăng lên nhanh chóng và không có giới hạn. Thời
gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất và đời sống hàng


10

ngày càng rút ngắn đi. Nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới, nhiều ngành nghề
mới xuất hiện. Khoa học và thành tựu của nó ngày càng xâm nhập rộng rãi
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều thành tựu của khoa học được
ứng dụng vào sản xuất với mục đích tạo ra của cải ngày càng nhiều cho xã
hội. Khoa học ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố
cần thiết cho mọi tiến bộ xã hội. “ khoa học là linh hồn sự phồn vinh của
các quốc gia, là nguồn sống dồi dào của mọi tiến bộ xã hội. Chính những
phát minh khoa học và những ứng dụng của nó dẫn dắt chúng ta đi” [40, tr
34]. Khoa học học đang tham gia vào sản xuất trực tiếp của xã hội, nó không
là cái gì đó còn đứng ngoài sản xuất mà đang trở thành cơ sở lý luận của sản
xuất. Rõ ràng trong điều kiện như vậy, việc tham gia NCKH nhằm tìm ra
những giá trị nhận thức mới, phương pháp lao động mới, cách thức tổ chức

quản lý mới, phát minh, những sáng chế bổ sung thêm vốn hiểu biết về
ngành nghề lao động của mình là một đòi hỏi tất yếu đặt ra đối với mỗi cán
bộ làm khoa học trong thời đại “bùng nổ thông tin” như hiện nay, có như vậy
họ mới không bị lạc hậu, bị đào thải bởi sự tiến bộ của khoa học công nghệ,
phát triển xã hội và phát triển chính bản thân mình, tạo điều kiện xoá bỏ đi
hố sâu ngăn cách giữa các quốc gia, hoà nhập vào dòng chảy chung của một
thế giới hội nhập. Nói về tầm quan trọng của NCKH, từ xưa Anhxtanh đã
cho rằng: “Nếu nghiên cứu khoa học teo đi, đời sống tinh thần của đất nước
ngừng trệ và do đó bao khả năng tiến bộ tương lai tan thành mây khói”.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng – Nguyễn Xuân Thức, căn cứ vào trình
độ nhận thức của loài người, có thể phân chia các loại hình NCKH thành 4
loại hình nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ bản: là loại hình nghiên cứu nhằm mục tiêu tìm tòi,
sáng tạo ra những tri thức mới, những giá trị mới cho nhân loại.
Nghiên cứu ứng dụng: là loại hình nghiên cứu nhằm tìm ra cách vận
động những tri thức cơ bản để tạo ra quy trình công nghệ mới, những
nguyên lý mới trong quản lý kinh tế và xã hội.
Nghiên cứu triển khai: là loại hình nghiên cứu nhằm tìm khả năng áp
dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời
sống xã hội, tạo ra các mô hình chế biến thông tin khoa học thành sản phẩm
tinh thần hay vật chất.
Nghiên cứu dự báo: là loại hình nghiên cứu nhằm phát hiện những
triển vọng, những khả năng, những xu hướng mới của sự phát triển khoa học
và thực tiễn. Nghiên cứu dự báo dựa trên các quy luật và tốc độ phát triển


11

của khoa học hiện đại, trên cơ sở khoa học quốc gia và thế giới. Nghiên cứu
dự báo dựa trên kết quả phân tích và tổng hợp một số lượng lớn thông tin

khách quan về thành tựu của khoa học, đồng thời dựa và khả năng và nhu
cầu cuộc sống hiện tại.
Các giai đoạn của NCKH là một hoạt động được tổ chức với một trình
tự logic các thao tác khoa học. Hiệu quả của NCKH phụ thuộc rất nhiều ở
cách thức tổ chức hợp lý trình tự thực hiện và nó được xác định bởi các giai
đoạn sau:
Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu bao gồm các công việc sau:
Xác định tên đề tài: Xác định vấn đề làm đối tượng để nghiên cứu. Đây là
việc làm không đơn giản, là khâu then chốt bởi nhiều khi phát hiện vấn đề
còn khó hơn giải quyết vấn đề. Một công trình khoa học dù ở cấp độ nào, tôi
cho rằng cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Tính mới: Đề tài được thực
hiện không trùng lặp hoàn toàn với các công trình khoa học trước đó. Tính
thời sự: Xã hội hiện nay đang quan tâm, cơ sở đang cần giải quyết…Tính
thực tiễn: Đề tài phải giải quyết các vấn đề của xã hội, của cơ sở đang diễn
ra, hoặc sắp diễn ra trong tương lai gần đối với đất nước, hoặc 1 địa phương,
hoặc đáp ứng được những đòi hỏi của một địa chỉ cụ thể. Tính khả dụng:
Khi sản phẩm hoàn thành, có thể được ứng dụng ngay để giải quyết các vấn
đề đang đặt ra, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, không bị lệ thuộc quá nhiều
vào điều kiện khách quan. Tính hợp lý: Phải chứng minh được bằng những
lý thuyết, những lập luận logic, những thông tin và số liệu thống kê, điều tra,
- Xây dựng đề cương nghiên cứu: Đề cương nghiên cứu là bản thuyết
minh về ý nghĩa, nội dung và phương pháp nghiên cứu một đề tài. Đề cương
có kết cấu logic sau:
- Tính cấp thiết của đề tài (lý do chọn đề tài): Xác định tầm qua trọng
và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài về mặt lý luận và thực tiễn.
- Mục đích nghiên cứu: Là mục tiêu, định hướng chiến lược những
vấn đề cần giải quyết trong đề tài.
- Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Khách thể nghiên cứu: là một bộ phận nhỏ bé của thế giới khách
quan được đưa vào hoạt động của nhà nghiên cứu, nó tồn tại độc lập với ý

thức của chủ thể. Xác định khách thể là xác định một giới hạn bắt buộc để
hướng đề tài đến mục tiêu đó.
+ Đối tượng nghiên cứu: là một bộ phận của khách thê được nhà
nghiên cứu nhận thức và cải tạo.


12

- Giả thuyết khoa học: Là mô hình giả định, một dự đoán về bản chất
của đối tượng nghiên cứu với chức năng tiên đoán bản chất đối tượng định
hướng cho con đường nghiên cứu. Một công trình khoa học, thực chất là
chứng minh một giả thuyết khoa học, vì vậy xây dựng giả thuyết khoa học
phải tuân thủ yêu cầu sau đây: Giả thuyết phải có tính thông tin về sự kiện
không mâu thuẫn với lý thuyết khoa học đã chứng minh, với sự thật hiển
nhiên của thực tế. Giả thuyết có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm.
Nếu đúng sẽ trở thành một bộ phận của lý thuyết khoa học.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để chứng minh giả thuyết khoa học, nhà
NCKH phải đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể nghĩa là phải trả lời câu
hỏi: Tác giả sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể gì mới cho lý luận cũng như
cho thực tiễn? Thông thường một đề tài luận văn, luận án khoa học thường
có 3 nhiệm vụ. Nhiệm vụ xây dựng cơ sở lý thuyết. Nhiệm vụ phân tích làm
rõ bản chất về quy luật của đối lượng nghiên cứu. Nhiệm vụ đề xuất những
giải pháp ứng dụng cải tạo hiện thực.
- Phương pháp nghiên cứu: Việc xác định những phương pháp nghiên
cứu có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết các nhiện vụ nghiên cứu và
chứng minh giả thuyết khoa học. Xác định những phương pháp chủ yếu và
nêu sơ lược nội dung cách thức thực hiện từng phương pháp ấy.
- Phạm vi giới hạn nghiên cứu: Xác định phạm vi nghiên cứu giúp cho
nhà nghiên cứu có phạm vi hoạt động rõ ràng vừa sức, phù hợp với mục
đích, tính chất của đề tài, khả năng chủ quan cũng như điều kiện khách quan.

- Dự thảo nội dung nghiên cứu: Là dàn ý chi tiết của công trình nghiên
cứu. Vì vậy cần phải chuẩn bị công phu theo chiến lược chung để định
hướng cho toàn bộ công trình nghiên cứu. Thông thường dàn ý gồm có các
vấn đề chính: Lịch sử vấn đề nghiên cứu; Thực trạng của vấn đề nghiên cứu;
Thực nghiệm và kết quả thực nghiệm khoa học. Kết luận - đề xuất - khuyến
nghị ứng dụng.
Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu: Kế hoạch triển khai nghiên cứu là
văn bản trình bày kế hoạch dự kiến triển khai đề tài về tất cả các phương
diện như: nội dung công việc, thời gian hoàn thành, sản phẩm dự kiến của
từng công việc đó.
- Giai đoạn triển khai nghiên cứu:
Đây là giai đoạn chủ yếu trong quá trình nghiên cứu bao gồm các
bước: Lập đề mục các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu; Thu thập các
dữ liệu, tài liệu có liên quan trực tiếp, gián tiếp tới công trình nghiên cứu để


13

đưa ra tổng quan vấn đề nghiên cứu; Xây dựng cơ sở lý thuyết của vấn đề
nghiên cứu: Đây là cơ sở lý thuyết mà nhà khoa học phải phân tích khái quát
hoá, hệ thống tài liệu và bằng suy luận để tạo ra lý luận cho đề tài; Phát hiện
thực trạng phát triển của đối tượng bằng các phương pháp nghiên cứu thực
tiễn. Các tài liệu thu được từ các phương pháp quan sát, kiểm tra, thí
nghiệm, thực nghiệm phải qua xử lý bằng toán học thống kê để cho ta những
tài liệu khách quan về đối tượng. Các tài liệu lý thuyết và thực tế thu được từ
các phương pháp khác nhau giúp cho việc chứng minh giả thuyết khoa học
đề xuất ban đầu; Kiểm tra giả thuyết bằng việc lặp lại các thí nghiệm, thực
nghiệm được kiểm tra bởi các phương pháp đã sử dụng ban đầu để khẳng
định tính chân thực của kết luận; Tổ chức hội thảo khoa học để lấy ý kiến
đóng góp của các chuyên gia về hướng đi và sản phẩm nghiên cứu. Trên cơ

sở đó để sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện công trình.
- Giai đoạn hoàn thành công trình khoa học:
Đây là giai đoạn hoàn thành công trình khoa học bằng một văn bản
chính thức, sản phẩm cụ thể. Đó là văn bản khoa học, sản phẩm đảm bảo đầy
đủ về mặt kỹ thuật in ấn, trình bày nội dung, minh hoạ, phụ lục,… đảm bảo
độ chính xác cao về nội dung, có tư tưởng học thuật và văn phong khoa học
rõ ràng đem lại những điều mới mẻ cho khoa học, có tính thực tiễn cao.
Giai đoạn báo cáo nghiệm thu:
Giai đoạn báo cáo nghiệm thu các đề tài khoa học trong khoá luận,
luận văn, đồ án tốt nghiệp, đề tài NCKH cấp khoa, cấp trường,… là hình
thức đánh giá năng lực thực tế cao nhất ở sinh viên. Các tiêu chí đánh giá
báo cáo nghiệm thu dựa trên 3 nội dung chủ yếu:
Đánh giá về quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài (ý thức, thái độ, tác
phong làm việc )
Đánh giá về nội dung hình thức của đề tài nghiên cứu (cách diễn đạt,
lập luận, các phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu, trình bày rõ
ràng, khoa học phản ánh trình độ tư duy của người làm công tác khoa học )
Kết quả bảo vệ đề tài đánh giá trên các mặt như: cách trình bày vấn đề
khoa học, khả năng lập luận bảo vệ tư tưởng, quan điểm khoa học của SV, sự
vững vàng trong tư thế tác phong thể hiện mức độ nắm vững chuyên môn và sự
am hiểu vấn đề nghiên cứu, trả lời tốt những câu hỏi của hội đồng khoa học.
Đánh giá các hình thức NCKH của SV là đánh giá khả năng, trình độ,
tiềm năng nghiên cứu của họ, đồng thời cũng là sự thể hiện chất lượng đào
tạo của trường Đại học.


14

Tóm lại: Dựa vào những vấn đề lý luận nghiên cứu trên chúng tôi
khẳng định: Tổ chức NCKH cho SV là một nhiệm vụ quan trọng. Đây là một

trong những hình thức tổ chức dạy học mang lại hiệu quả cao trong quá trình
đào tạo đội ngũ trí thức, những chuyên gia cho xã hội. Bởi vậy NCKH là
một hoạt động, một khâu, một mắt xích không thể thiếu được trong nội dung
chương trình đào tạo ở bậc Đại học có tác dụng giáo dục toàn diện nhân
cách người SV. Vì vậy quản lý tốt hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho sinh
viên thực hiện hiệu quả hoạt động NCKH, trưởng thành vững vàng trong
chuyên môn, giỏi về năng lực thực hành, tăng cường đạo đức tác phong của
người cán bộ khoa học. Đó là mục tiêu, nhiệm vụ là mục đích mà trường Đại
học hướng tới.
1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của sinh viên
trong Trường Đại học
Cùng với giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ
trọng tâm của Trường Đại học
Luật Giáo dục đại học (năm 2012) đã xác định mục tiêu chung của
giáo dục đại học là: 1) Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân
tài; NCKH, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. 2)
Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng
thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng
KH&CN tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng
tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý
thức phục vụ nhân dân. Như vậy, có thể nhận thấy trường đại học có hai
chức năng, nhiệm vụ cơ bản là quản lý, tổ chức hoạt động GD&ĐT và
hoạt động KH&CN.
Hoạt động khoa học và công nghệ góp phần tạo nên chất lượng giáo
dục và đào tạo trong trường đại học
Hoạt động NCKH trong trường đại học góp phần quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng GD&ĐT, năng lực nghiên cứu và khả năng ứng
dụng KH&CN của giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý,…; hình
thành và phát triển năng lực NCKH học cho người học; phát hiện và bồi

dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao. Đồng thời,
hoạt động NCKH là hoạt động chính tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp
mới để phát triển khoa học và giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.


15

Đối với trường đại học sẽ không thể có chất lượng cao trong đào tạo
nếu không tăng cường hoạt động KH&CN nói chung, hoạt động NCKH nói
riêng. NCKH là một đòi hỏi khách quan của quá trình đào tạo bậc đại học.
Bởi vì, NCKH trước hết là phương thức tự đào tạo của giảng viên,
CBQLGD, tự tạo ra tiềm lực để nâng cao trình độ, nâng cao chất lượng hoạt
động chuyên môn, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng GD&ĐT. Kiến thức
của nhân loại phát triển nhanh chóng, tri thức của giảng viên, CBQLGD nếu
không được cập nhật thường xuyên thì không thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình. NCKH chính là một trong những biện pháp để cập nhật tri thức. Thực
tiễn luôn đặt ra cho khoa học những vấn đề cần nghiên cứu để thúc đẩy quá
trình nghiên cứu chung, đồng thời cũng là nơi thử thách, kiểm nghiệm và
chứng minh những thành quả NCKH. Công việc giảng dạy, quản lý có thể
thực sự hấp dẫn và hứng thú nếu mỗi giảng viên, CBQLGD đều thấy có sự
sáng tạo trong lao động của mình và tham gia hoạt động KH&CN chính là
tạo ra sự đường sáng tạo đó. Đối với giảng viên, tham gia NCKH còn góp
phần đổi mới phương pháp giảng dạy qua cách cấu trúc lại nội dung bài
giảng hợp lý và hiệu quả hơn; với những công trình khoa học, giảng viên tự
khẳng định mình trước đồng nghiệp và trước người học.
Trong các trường đại học hoạt động NCKH là một trong hai nhiệm vụ
trọng tâm của các trường đại học. Tuy hai nhiệm vụ này thuộc hai lĩnh vực
khác nhau nhưng lại có sự tác động qua lại hỗ trợ mật thiết cho nhau. Mỗi
nhiệm vụ có vị trí, vai trò riêng, song chúng đều thống nhất với nhau ở

mục tiêu, yêu cầu đào tạo, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị của mỗi nhà trường. Như vậy, hoạt động KH&CN và hoạt
động GD&ĐT gắn bó chặt chẽ với nhau, có mối quan hệ biện chứng với
nhau và là điều kiện tồn tại của nhau. Cả hai hoạt động đều cùng hướng tới
một mục đích chung, tuân theo một kế hoạch thống nhất, bám sát yêu cầu
"chuẩn hoá, hiện đại hoá" hoạt động GD&ĐT, cung cấp nguồn nhân lực bậc
cao cho quân đội. Hiệu quả của mỗi hoạt động sẽ bị hạn chế nếu hai hoạt
động này cô lập, tách rời nhau, dẫn đến phát sinh nhiều rào cản trong quá
trình hoạt động. Do đó, cần phải nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của hoạt
động KH&CN làm cơ sở để đi sâu nghiên cứu làm rõ nội dung quản lý,
xây dựng các biện pháp quản lý bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả và khả thi
nhằm nâng cao chất lượng cũng như hiệu lực, hiệu quả trong quản lý hoạt
động KH&CN.


16

1.1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên Trường Đại học
Theo một cách chung nhất NCKH là tất cả các hoạt động có hệ thống
liên quan chặt chẽ đến việc sản xuất, nâng cao và ứng dụng các kiến thức về
khoa học công nghệ.
Nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động có kế hoạch, có tổ
chức trong nhiệm vụ của SV hướng vào việc tìm kiếm tri thức khoa học
hoặc phát hiện bản chất sự vật, hoặc là sáng tạo phương pháp mới, phương
tiện kỹ thuật mới để phục vụ lợi ích của con người thông qua phương pháp,
phương tiện phù hợp.
Theo tác giả Lê Yên Dung thì: “Nghiên cứu khoa học là loại hình lao
động đặc biệt, được tiến hành bởi chủ thể nghiên cứu, thông qua hệ thống
các phương pháp, các phương tiện kỹ thuật phù hợp nhằm phát hiện những

hiểu biết mới mang tính quy luật, tạo ra sản phẩm mới phục vụ mục tiêu
hoạt động động của con người” [6]
Vì vậy, NCKH của SV đại học là bao gồm tất cả các hoạt động phát
hiện, tổng hợp các kiến thức có thể đóng góp cho kho tàng kiến thức của
nhân loại hoặc cho chính bản thân SV, giúp sinh viên hiểu biết sâu hơn, rộng
hơn về kiến thức, chuyên môn được đào tạo hoặc tìm ra kiến thức tổng hợp
liên ngành. NCKH của sinh viên cũng giống như NCKH nói chung nhằm
thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người, nhằm tìm ra lời giải cho các tình
huống có vấn đề, lời giải đó có thể là một thông tin, một phương pháp,…mà
trước đó chưa có.
Nghiên cứu khoa học của SV là một nội dung quan trọng trong
chương trình đào tạo ở trường đại học, qua đó hình thành tư duy và phương
pháp NCKH, đáp ứng yêu cầu: giảng dạy kết hợp với thực hành và NCKH,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện; Phát huy tính năng động,
sáng tạo, khả năng NCKH độc lập của SV, hình thành năng lực tự học cho
sinh viên; Góp phần tạo ra tri thức, sản phẩm mới cho xã hội.
* Các hình thức nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học
- Bài tập nhỏ (bài tập môn học)
Bài tập nhỏ thuộc loại hình nghiên cứu, xử lý một số vấn đề khoa học
cụ thể, thường được thực hiện ngay từ năm thứ nhất và là dịp tổng kết những
kiến thức trọng tâm trong chương trình môn học. Ở những bài tập này có thể
liên hệ mở rộng thêm kiến thức ngoài nội dung giảng dạy và học tập được
quy định trong chương trình. Giảng viên hướng dẫn cho SV tìm hiểu, tra cứu


17

tài liệu, nghiên cứu thêm một số vấn đề nhằm mở rộng tầm hiểu biết, vận
dụng và khai thác thêm tri thức mới. Thời gian tiến hành bài tập cùng với
thời gian học tập chương trình môn học. Yêu cầu SV tham gia nghiên cứu ở

loại hình này chỉ là: phát hiện các vấn đề trọng tâm của môn học, có khi là
tập xử lý một đề tài mà người khác đã bàn tới hoặc tóm tắt các nội dung
chính, sưu tầm tài liệu, ứng dụng thực tế có liên quan đến môn học. Đưa ra
những đánh giá nhận xét với nhận thức chủ quan của mình trên cơ sở nắm
bắt đầy đủ lý thuyết. Vấn đề cốt lõi ở đây là để cho SV hứng thú và có ý
tưởng mới, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu tạo phong cách của cá nhân trong
quá trình học tập tiếp theo.
- Bài tập lớn
Đây là loại bài tập chính thức được quy định trong chương trình đào
tạo, sau khi SV đã học kiến thức cơ sở ngành và kiến thức chuyên môn. Với
hình thức bài tập này, tất cả SV đều phải làm dưới sự hướng dẫn của GV.
Đây là loại hình nghiên cứu yêu cầu cao hơn bài tập nhỏ, thời gian nghiên
cứu dài hơn và có quy định cụ thể về nội dung, thời gian hoàn thành, hình
thức đánh giá. Việc tiến hành làm bài tập lớn thường gắn với việc học tập
chuyên đề từ năm thứ hai. Những chuyên đề hỗ trợ rất tốt về chất lượng cho
việc làm bài tập lớn của SV. Mục đích chủ yếu của hình thức nghiên cứu này
là cho SV thực hành với các thủ pháp NCKH, tìm hiểu, tra cứu tài liệu, phát
hiện ứng dụng, liên hệ thực tế chứ chưa làm giàu cho khoa học bằng kết quả
của các công trình nghiên cứu. Bài tập lớn được hoàn thành có thể được bảo
vệ trước bộ môn hoặc do hội đồng đặc biệt được bộ môn thành lập. Kết quả
được đánh giá bằng điểm số của môn học. Việc hoàn thành bài tập lớn có ý
nghĩa quan trọng đặt tiền để cho các hình thức nghiên cứu cao hơn như: làm
khoá luận, đồ án tốt nghiệp.
- Khoá luận tốt nghiệp
Khoá luận là hình thức nghiên cứu cao hơn làm bài tập lớn. Đây là bài
tập NCKH cuối khoá chỉ dành riêng cho những SV có kết quả học tập đạt từ
loại khá trở lên đối với mọi sinh viên Đại học thuộc khoa học xã hội. Giá trị
của khoá luận được tính từ 3 đến 4 đơn vị học trình. Nếu SV chọn đề tài
khoá luận thuộc học phần thi tốt nghiệp nào thì họ được miễn thi học phần
đó để làm khoá luận. Khi làm khoá luận, SV phải đọc nhiều tài liệu có liên

quan nhất là những sách chuyên khảo và phải được một GV chính hướng
dẫn trên cơ sở tinh thần chủ động, độc lập nghiên cứu của SV là chủ yếu.
Việc đánh giá kết quả của khoá luận do một hội đồng do Hiệu trưởng quyết


18

định thành lập. SV được dành khoảng thời gian 30 phút để báo cáo tóm tắt
khoá luận. Sau khi phản biện đọc nhận xét, người hướng dẫn đánh giá kết
quả và thái độ làm việc của sinh viên. Toàn thể hội đồng thảo luận kết quả kể
cả việc chất vấn tác giả, cuối cùng là phần bỏ phiếu kín cho điểm theo thang
điểm 10. Điểm của khoá luận là điểm trung bình của các thành viên hội đồng
được công bố công khai ngay trong buổi nghiệm thu.
- Luận văn tốt nghiệp
Loại hình này áp dụng thường ở bậc đào tạo trình độ thạc sĩ. Yêu cầu
của luận văn phải thể hiện rõ tính sáng tạo của người nghiên cứu. Việc đánh
giá và xếp loại kết quả luận văn cũng được thực hiện theo phương thức tổ
chức hội đồng nghiệm thu như đánh giá do nhà trường tổ chức.
- Đồ án tốt nghiệp (dành cho các sinh viên các ngành kỹ thuật).
Về tính chất và mức độ các yêu cầu của đồ án tốt nghiệp cũng như
yêu cầu của khoá luận, luận văn. Song việc làm đồ án tốt nghiệp được thực
hiện bởi SV các ngành kỹ thuật. Đồ án tốt nghiệp được xem như chương
trình nghiên cứu cuối cùng, khi SV đã hoàn thành tất cả các môn học và
chương trình học tập khác. Nội dung của đồ án tốt nghiệp đối với các khối
ngành kỹ thuật là những hình thức nghiên cứu hướng tới mục đích là để SV
thực hiện NCKH. Đây là cơ sở nền móng giúp cho những chuyên gia sau
này không những giỏi về chuyên môn, mà còn tham gia NCKH có hiệu quả,
chủ động sáng tạo trong công việc. SV làm đồ án tốt nghiệp tự chọn đề tài
hoặc GV hướng dẫn gợi ý đề tài nghiên cứu. Quá trình thực hiện đề tài SV
phải tra cứu tài liệu, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên ngành, có ý tưởng, mô

hình cụ thể để ứng dụng các nghiên cứu. Đồ án tốt nghiệp gồm thuyết minh,
số liệu tính toán, so sánh tính kinh tế kỹ thuật lựa chọn phương án, bản vẽ,
mô hình, sản phẩm ứng dụng. Đồ án tốt nghiệp được bảo vệ trước hội đồng
do hiệu trưởng ra quyết định thành lập, kết quả được tính là điểm tốt nghiệp
của SV.
Ngoài các hình thức NCKH thuộc chương trình đào tạo trên, các SV
còn tham gia nhiều hình thức NCKH khác như: thi Olympic, thực tập tốt
nghiệp tại doanh nghiệp, chế tạo Robocon, tham gia đề tài NCKH cấp khoa,
cấp trường,… do giảng viên hướng dẫn.
1.1.4. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường
Đại Học Công Nghiệp Hà Nội
Theo cách tiếp cận riêng để hiểu quản lý, nhưng trên cơ sở những
quan điểm chung đề tài đưa ra khái niệm quản lý: Quản lý là sự tác động có


19

tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý trong việc
huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực
một cách tối ưu nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Khái niệm quản lý hoạt động NCKH của SV Trường Đại Học Công
Nghiệp Hà Nội được xây dựng trên cơ sở luận giải 3 vấn đề chính:
Quản lý giáo dục, đào tạo;
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học;
Quản lý đội ngũ sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội;
Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: Quản lý hoạt động
NCKH của sinh viên Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội là những tác động
có mục đích, có định hướng, được thực hiện một cách khoa học của chủ thể
quản lý đến quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu, đánh giá và ứng dụng kết quả nghiên cứu của sinh viên, nhằm thực

hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Quản lý hoạt động NCKH của SV là một loại hình quản lý giáo dục,
đào tạo ở nhà trường, thuộc quản lý nguồn nhân lực.
Mục đích quản lý hoạt động NCKH của SV là tổ chức và thực hiện
các hoạt động NCKH của SV một cách hợp lý, đạt chất lượng, hiệu quả tốt
nhất; góp phần hoàn thành tốt mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ GD, ĐT NCKH
của Nhà trường.
Chủ thể quản lý hoạt động NCKH của SV là Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Nhà trường; Phòng Khoa học, Công nghệ; Phòng Đào tạo; trực tiếp là các
khoa, ban và chính bản thân SV.
Sinh viên là chủ thể quản lý hoạt động NCKH; đồng thời, hoạt động
NCKH của SV lại là đối tượng bị quản lý của các chủ thể quản lý. Như vậy,
sinh viên vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ thống quản lý.
Nội dung quản lý hoạt động NCKH của sinh viên Trường Đại Học
Công Nghiệp Hà Nội gồm:
Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp
nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động NCKH của SV.
Xây dựng hệ thống văn bản, quy chế, quy định về hoạt động nghiên
cứu khoa học của sinh viên;
Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, đánh giá, nghiệm
thu kết quả NCKH của SV (đây là các bước trong một quy trình khép kín);
Triển khai ứng dụng kết quả NCKH của SV vào thực tiễn hoạt động
giáo dục, đào tạo của Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội.


20

Xây dựng cơ chế quản lý hoạt động NCKH của SV và tổ chức thực
hiện bồi dưỡng năng lực, quản lý hoạt động NCKH đội ngũ sinh viên;
Xây dựng môi trường và đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt

động NCKH của SV.
Phương thức quản lý: Quản lý bằng điều lệ, quy chế, quy định của
Nhà nước, nhà trường; quản lý bằng kế hoạch và thông qua kế hoạch; quản
lý thông qua tư vấn của hội đồng khoa học và cơ quan chức năng quản lý
khoa học; thông qua vai trò tự quản lý của cán bộ khoa học, các tập thể khoa
học phòng, khoa, tổ bộ môn.
Biện pháp quản lý hoạt động NCKH của SV là tổng hợp các cách thức
quản lý của chủ thể quản lý tác động tới quá trình thực hiện các nhiệm vụ
NCKH, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động NCKH của SV
Khi nói đến quản lý hoạt động NCKH của SV trường đại học, chúng
ta có thể nói đến một quy trình tác động mang tính pháp lý, tính khoa học,
có mục tiêu rõ ràng của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý nhằm chỉ
huy và điều hành đối tượng bị quản lý và hoạt động NCKH của họ theo
đúng mục tiêu của hoạt động NCKH đã đề ra, nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động NCKH trong nhà trường nói riêng và chất lượng đào tạo nói
chung. Quản lý hoạt động NCKH của SV mang tính pháp lý được thực hiện
dựa trên cơ sở pháp luật và các văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ
GD&ĐT và điều lệ nhà trường về hoạt động NCKH của sinh viên.
Quản lý hoạt động NCKH của SV là việc thực hiện các chức năng
quản lý, có xét đến các đặc điểm phù hợp của SV như: Năng lực trí tuệ,
hứng thú và nguyện vọng của SV, nội dung chương trình đào tạo, yêu cầu
thực tiễn của xã hội, định hướng của KHCN chuyên ngành,…để nâng cao
chất lượng đào tạo và chất lượng NCKH của sinh viên.
Vậy quản lý hoạt động NCKH của sinh viên là: cách thức cụ thể mà chủ
thể quản lý trường đại học thực hiện việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ
đạo và kiểm tra đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhằm đạt
mục tiêu nghiên cứu khoa học và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Chất lượng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội bao gồm: hất lượng nghiên cứu khoa
học của sinh viên và chất lượng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học.

1.2. Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa hoc của sinh
viên
1.2.1. Quản lý mục tiêu nghiên cứu khoa học của sinh viên


21

Mục tiêu quản lý hoạt động NCKH của sinh viên trường đại học
nhằm góp phần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản: Nâng cao chất lượng đào
tạo đại học, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
cho CNH – HĐH của đất nước; kết hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học
với các nhiệm vụ đào tạo của nhà trường, ứng dụng các thành tựu khoa học,
các tiến bộ kỹ thuật phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển sự
nghiệp GD&ĐT, phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng và phát triển tiềm
lực NCKH của trường, từng bước hội nhập với nền KHCN hiện đại của khu
vực và trên thế giới.
Quản lý hoạt động NCKH của SV được triển khai theo hệ thống văn
bản mang tính pháp lý. Đòi hỏi GV hướng dẫn, SV NCKH phải tuân thủ
những quy định mang tính hành chính về quy trình đăng ký, xét duyệt đề tài,
tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu theo sự chỉ
đạo thực hiện của những người có trách nhiệm quản lý: trưởng Khoa, trưởng
phòng Quản lý khoa học, chủ tịch Hội đồng khoa học trường.
Đối với trưởng khoa, quản lý hoạt động NCKH của SV với các chức
năng quản lý thuộc khoa mình phụ trách: lập kế hoạch; tổ chức phân công,
sắp xếp nguồn lực, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá công tác thực hiện
kế hoạch theo nhiệm vụ được giao và kế hoạch của nhà trường đã phê duyệt.
1.2.2. Kế hoạch hóa hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Kế hoạch hóa là 1 chức năng cơ bản trong các chức năng quản lý.
Trong các trường đại học công lập thường áp dụng mô hình quản lý chính
quy, định nghĩa mô hình này do Tony Bush đề xuất, cùng với những đặc

trưng chủ yếu của các mô hình chính quy:“Những mô hình chính quy giả
định rằng các tổ chức là những hệ thống có tôn ti, thứ bậc trong đó người
quản lý sử dụng những biện pháp duy lý để theo đuổi những mục tiêu đã
được thoả thuận. Những người đứng đầu có thẩm quyền được hợp pháp hoá
bằng vị trí chính thức của họ bên trong tổ chức và họ có trách nhiệm trước
những thực thể bảo trợ về hoạt động của các thiết chế của họ.” [20, tr 17]
Kế hoạch hóa hoạt động NCKH cho SV là quá trình bao gồm: xây
dựng mục tiêu cho tổ chức (với số lượng đề tài, nội dung thực hiện); nguồn
lực, biện pháp tổ chức; tiến độ thực hiện, thời gian hoàn thành; tiêu chí đánh
giá nghiệm thu theo một quy trình thống nhất và được phê duyệt.
Hoạt động NCKH của SV được tiến hành theo kế hoạch phù hợp với
kế hoạch năm học. Tính kế hoạch trong hoạt động NCKH của SV được


22

thể hiện qua các khâu trong tổ chức xét duyệt đề tài, tổ chức nghiên cứu và
đánh giá kết quả nghiên cứu.
1.2.3. Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên
Trong quản lý hoạt động NCKH của SV chức năng tổ chức là xây
dựng vai trò nhiệm vụ, cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận
trong tổ chức. Sắp xếp phân bổ nguồn lực cho từng bộ phận, từng thành viên
đảm bảo cho họ thực hiện nhiệm vụ của mình, qua đó thực hiện thành công
mục tiêu của tổ chức. Thông qua đó, chủ thể quản lý tác động đến đối tượng
quản lý một cách có hiệu quả bằng cách điều phối nguồn lực của tổ chức
như: nhân lực, vật lực, tài lực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ
chức phải đảm bảo các yêu cầu về tính tối ưu, tính linh hoạt, tính kinh tế và
độ linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ.
Hoạt động NCKH của SV được tổ chức theo mục tiêu định trước với

những quy định chặt chẽ, theo định hướng của nhà Trường, của Khoa và
GV hướng dẫn.
1.2.4. Chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Chỉ đạo là phương thức tác động của chủ thể quản lý, nhằm điều hành
tổ chức nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra,
chỉ đạo là một trong 4 chức năng của quản lý có vai trò rất quan trọng trong
chỉ đạo, tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình nội dung và các quyết
định quản lý. Chỉ đạo là chức năng của quản lý, chủ thể quản lý phải trực
tiếp ra quyết định cho nhân viên dưới quyền, theo dõi giúp đỡ, động viên để
thúc đẩy hoạt động thực hiện kế hoạch đã vạch ra, đạt các mục tiêu của tổ
chức bằng những biện pháp khác nhau. Đây là quá trình sử dụng quyền lực
quản lý để tác động đến đối tượng bị quản lý một cách có chủ đích nhằm
phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục tiêu chung của tổ
chức. Chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học giúp cho sinh viên đạt đợc những mục tiêu yêu cầu đào tạo, và
chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên ở nhà trường hiện nay.
1.2.5. Kiểm tra hoạt động nghiên cứu khoa học
Kiểm tra là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể
quản lý thông qua một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức để xem xét thực
tế, đánh giá, giám sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh
các sai lệch nhằm thúc đẩy hệ thống đạt tới mục tiêu đã định. Để tiến hành
kiểm tra cần phải có tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra. Nhà


23

quản lý phải thu thập thông tin từ các bộ phận, các thành viên trong tổ chức
để đánh giá, kịp thời phát hiện sai sót và điều chỉnh. Đồng thời tìm ra
nguyên nhân của thành công và thất bại để rút ra bài học kinh nghiệm.
1.2.6. Quản lý các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa

học của sinh viên
Nghiên cứu khoa học của SV là một hoạt động đầy khó khăn thử
thách.
Đòi hỏi SV phải kiên trì tập trung trí tuệ, sức lực, thời gian cho công
trình nghiên cứu. Vì vậy, cơ quan quản lý hoạt động NCKH, GV cần phải có
những biện pháp động viên, khuyến khích, hành động thuyết phục để khích
lệ sinh viên tập trung cho hoạt động nghiên cứu, không nản chí hay bỏ giữa
chừng, nhằm tạo động lực cho người học hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu.
Quản lý các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động NCKH gồm: quản lý bố trí
sắp xếp để các GV nhiều kinh nghiệm, năng lực chuyên môn tốt, nhiệt tình
tham gia hướng dẫn SV NCKH. Đầu tư thỏa đáng có trọng điểm về điều
kiện, cơ sở vật chất như: thư viện, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, hợp
tác liên kết với cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, tổ chức các đoàn tham quan
doanh nghiệp cho SV để SV có cơ hội phát hiện ra đề tài nghiên cứu thiết
thực, có ý nghĩa cho mình. Tạo điều kiện thuận lợi để SV có thể tìm hiểu,
tiếp cận thực tế trong quá trình học tập, NCKH và tìm kiếm việc làm khi ra
trường. Đặc điểm của quản lý hoạt động NCKH của SV.
Mục tiêu quản lý hoạt động NCKH của SV của trường đại học
nhằm góp phần giải quyết các vấn đề sau: Nâng cao chất lượng đào tạo đáp
ứng yêu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao của đất nước; kết hợp thực
hiện các nhiệm vụ khoa học với các nhiệm vụ đào tạo của nhà trường ứng
dụng các thành tựu khoa học, các tiến bộ kỹ thuật phục vụ việc thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước; xây dựng và phát triển
tiềm lực NCKH của trường, từng bước hội nhập với nền KHCN hiện đại của
khu vực và trên thế giới.
Vì vậy, khi nói đến đặc điểm của quản lý hoạt động NCKH của SV
trường đại học, chúng ta có thể nói đến một quy trình tác động mang tính
pháp lý, tính khoa học, có mục tiêu rõ ràng của chủ thể quản lý đến đối
tượng bị quản lý nhằm chỉ huy và điều hành đối tượng bị quản lý và hoạt
động NCKH của họ theo đúng mục tiêu của hoạt động NCKH đã đề ra,

góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động NCKH trong nhà trường nói
riêng và chất lượng đào tạo nói chung.


24

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nghiên cứu khoa
học của sinh viên Trường Đại học
1.3.1. Các yếu tố thuộc về môi trường quản lý
Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân và toàn xã
hội trong đó có các trường đại học đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành Luật Khoa học và Công nghệ,
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành để tạo thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng
bộ. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý đã phục vụ cho các cuộc đàm phán
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đưa Việt Nam hòa nhập với
các chuẩn thương mại quốc tế.
Các quy định pháp lý về cơ chế, chính sách tài chính đã được thể
hiện trong nhiều văn bản như: Nghị định 115/2005/NĐ-CP là văn bản quan
trọng về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công
nghệ công lập; Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về Quỹ phát triển khoa học
và công nghệ Quốc gia; Nghị định 117/2005/NĐ-CP về Quỹ phát triển khoa
học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Trên thực tế, các chính sách về hoạt động NCKH ở nước ta còn chậm
đổi mới, chưa tạo động lực cho các lực lượng tham gia NCKH của các
trường đại học. Chưa có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với GV, chế độ khuyến
khích động viên đối với SV tham gia công tác NCKH theo đúng ý nghĩa
thực sự coi GD&ĐT cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu. Người thầy

đóng vai trò quyết định chất lượng GD&ĐT, nhưng thực tế khi quy mô học
sinh, SV tăng nhanh đã gây nên sự bất cập giữa quy mô phát triển giáo dục
với đội ngũ GV. Thời gian làm công tác giảng dạy của GV nhiều, thêm vào
đó là chế độ cho hướng dẫn SV NCKH không tính vào khối lượng giờ giảng
tiêu chuẩn, không tính thành tích thi đua làm giảng viên giảm sự nhiệt tình
với công tác NCKH. Ở những khoa có GV nhiệt tình trong NCKH thì ở đó
có nhiều SV tham gia NCKH tạo được phong trào và chất lượng các đề tài
NCKH của SV cũng được đánh giá cao.
Trình độ, kinh nghiệm của GV trong hướng dẫn NCKH là yếu tố ảnh
hưởng nhiều đến quản lý hoạt động NCKH của SV. Giảng viên vừa là người
thầy hướng dẫn vừa là người bạn trong tìm tòi NCKH giúp SV tự tin, hăng
hái hơn trong việc tìm kiếm, sáng tạo. Các chuyên gia có trình độ cao tham


25

tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý
NCKH và công nghệ làm phong trào NCKH phát triển hiệu quả.
Cơ chế quản lý về KHCN còn nhiều bất cập, chế độ hỗ trợ trong việc
thực hiện đề tài NCKH đã được cải tiến nhiều song vẫn còn thấp, thủ tục
thanh toán phức tạp. Sinh viên những người mới bắt đầu làm NCKH, có
nhiều khó khăn từ tri thức hạn chế, chưa thành thạo trong công việc, đến thời
gian dành cho NCKH không có nhiều,... nên chế độ động viên, khuyến khích
để tạo động lực NCKH cho sinh viên có ảnh hưởng lớn đến quản lý hoạt
động NCKH của sinh viên.
Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và NCKH là yếu tố cần thiết,
không thể thiếu: thư viện, phòng thực hành, thí nghiệm,...tuy nhiên việc đầu
tư mua sắm còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, việc bố trí cán bộ hướng dẫn
sử dụng thiết bị thực hành, thí nghiệm để có thể khai thác hiệu quả thiết bị
hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu NCKH cũng làm ảnh hưởng tới chất

lượng hoạt động này.
Từ số liệu khảo sát (Bảng 2.17 phụ lục ), cho thấy hầu hết các khách
thể khảo sát đánh giá rất cao mức độ ảnh hưởng của môi trường quản lý đến
hoạt động NCKH của SV, được thể hiện ở có 87,1% ý kiến đánh giá môi
trường quản lý ảnh hưởng nhiều tới hoạt động NCKH; có 12,9% ý kiến đánh
giá ảnh hưởng ít và không ý kiến nào đánh giá không ảnh hưởng.
Điều này có thể nói rằng môi trường quản lý với phương pháp quản lý
cơ sở vật chất, phẩm chất tác phong của giảng viên, biện pháp động viên
khuyến khích ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động NCKH của sinh viên đặc biệt
là số lượng sinh viên tham gia NCKH. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các
môi trường quản lý cụ thể cũng có mức độ ảnh hưởng khác nhau. Trong đó
yếu tố Cơ chế khuyến khích NCKH của đơn vị có đánh giá nổi bật nhất có
63 ý kiến chiếm tỷ lệ 95,5% đánh giá ảnh hưởng nhiều tới hoạt động NCKH
của sinh viên và chỉ có 3 ý kiến chiếm tỷ lệ 4,5% đánh giá mức độ ảnh
hưởng bình thường. Điều này cho thấy phải có chế độ động viên, khuyến
khích làm cho sinh viên thấy được tác dụng, hiệu quả của NCKH mới cuốn
hút được nhiều sinh viên tham gia vào hoạt động này. Yếu tố ảnh hưởng lớn
thứ hai là trình độ kinh nghiệm, sự nhiệt tình của giảng viên với hoạt động
NCKH có 62 ý kiến chiếm tỷ lệ 93,9% đánh giá có ảnh hưởng nhiều và 4 ý
kiến chiếm tỷ lệ 6,1% đánh giá là ảnh hưởng ít. Điều này cho thấy với trình
độ, sự nhiệt tình của người thầy sẽ tao ra sự hăng say của SV là yếu tố quan
trọng có tính quyết định đến chất lượng của hoạt động NCKH của SV. Yếu


×