Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng trong điều kiện đảng cầm quyền tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.51 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
trong sạch, vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản
của Người. Vấn đề Đảng cầm quyền là một nội dung trọng yếu trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam "Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây là
quan điểm xuyên suốt toàn bộ tư tưởng và quán xuyến toàn bộ hoạt động của cuộc
đời cách mạng vô cùng vẻ vang của Người.
Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng Cộng sản chân chính, Bộ tham
mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
Việt Nam, để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những
di sản tư tưởng mà Người để lại, những luận điểm của Người về Đảng Cộng sản,
về xây dựng Đảng đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, là một phần cực kỳ
quan trọng. Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm xây dựng,
chỉnh đốn và đổi mới Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, xứng
đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ
yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Đây thật sự là vấn đề then chốt đảm bảo thắng
lợi cho công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay.
Xác định rõ tầm quan trọng về vấn đề xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng
cầm quyền nên học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền” để làm đề tài tiểu luận bộ
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Xây
Dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước. Tiểu luận được dùng để làm tài liệu tham

1



khảo cho các học viên học các chuyên ngành khoa học chính trị và học cao học
chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ những tư tưởng của Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng trong điều kiện cầm quyền, tức là Đảng lãnh đạo chính quyền,
vận dụng những tư tưởng lý luận đó của Người để xây dựng Đảng cộng sản Việt
Nam cầm quyền trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài tiểu luận gồm có: Sử dụng phương
pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin; Phương pháp chung: phân tích tổng hợp, logic - lịch sử, diễn dịch - qui nạp;
Phương pháp cụ thể: lược thuật tài liệu, trao đổi thảo luận nhóm, đọc nhanh ...
Kết cấu của tiểu luận ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm có ba phần chính
sau:
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG CẦM QUYỀN
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
CẦM QUYỀN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

2


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN
1.1. Chủ nghĩa Mác- Lênin về Đảng Cộng sản cầm quyền
C.Mác và Ăngghen đã nghiên cứu sâu sắc sự phát triển của chủ nghĩa Tư
bản Tây Âu trong thế kỷ XIX, nơi có sự phân hoá xã hội đạt đến cực điểm, với
mâu thuẫn cơ bản ngày càng phát triển ngay ngắt là mâu thuẫn giữa vô sản với tư
sản. Các ông dành sự quan tâm đặc biệt vào vấn đề thành lập Đảng cộng sản ở các
nước tư bản phát triển, nơi mà vấn đề dân tộc đã được giải quyết nhờ các cuộc
cách mạng tư sản trước đó, nhằm tiến hành cách mạng vô sản, thiết lập chuyên

chính vô sản. Học thuyết Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân chỉ có thể trở thành một giai cấp “cho mình”, thực hiện vai trò
lãnh đạo của cách mạng vô sản khi tổ chức được một chính Đảng cách mạng của
riêng mình và cũng chỉ khi đó phong trào công nhân mới trở thành một phong trào
tự giác. Theo Mác, chừng nào mà giai cấp công nhân chưa thành lập được một
chính Đảng của mình đối lập với các chính đảng hiện có của giai cấp tư sản, thì
chừng đó giai cấp công nhân chưa thể hành động với tư cách một giai cấp được. Sự
thành lập và vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng cộng sản là tất yếu nhằm mục
tiêu “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản dành lấy chính quyền”. Đảng cộng sản được thành lập phản
ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đến thời kỳ tự giác. Theo học thuyết
Mác-Lênnin, Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp vô sản, là đội tiên phong có tổ
chức cao nhất, Bộ tham mưu của giai cấp vô sản, lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp,
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản.
Giai cấp vô sản tồn tại trong từng quốc gia dân tộc. Trước khi hoàn thành
sứ mệnh lịch sử thế giới, giai cấp vô sản phải hoàn thành sứ mệnh với dân tộc
mình. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác - Ăngghen nêu rõ: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải
là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân
3


tộc”. Vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải
tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Điều đó có nghĩa là việc thành
lập Đảng cộng sản phải được thực hiện trong phạm vi từng quốc gia dân tộc chứ
không phải trong từng khu vực của thế giới. Các quốc gia dân tộc, nhất là những
quốc gia láng giềng có quan hệ với nhau về nhiều mặt, những mỗi quốc gia đó có
những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá,
phong tục tập quán, tâm lý dân tộc…, cần phải thành lập ở mỗi quốc gia một Đảng

riêng để đề ra đường lối chính trị phù hợp với hoàn cảnh của từng nước.
Để lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân phải có lý luận tiền phong soi
đường, chỉ lối: “Chỉ đảng nào có một lý luận tiền phong hướng dẫn thì Đảng đó
mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. Trong tác phẩm Làm gì, Lênin chỉ rõ, tự
bản thân giai cấp công nhân không thể có ý thức xã hội dân chủ được, mà nhiều
lắm mới chỉ có được ý thức công liên chủ nghĩa mà thôi. Ý thức xã hội chủ nghĩa
chỉ có thể là từ bên ngoài đưa vào. Lúc đầu phong trào công nhân và ý thức xã hội
chủ nghĩa tồn tại độc lập với nhau vì chúng có nguồn gốc phát sinh khác nhau.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, còn
chủ nghĩa xã hội khoa học lại là sản phẩm của sự nghiên cứu và phát minh khoa
học. Nếu phong trào công nhân không tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin thì nó mãi
dừng ở trình độ tự phát, không thể trở thành một phong trào tự giác được, ngược
lại nếu chủ nghĩa Mác-Lênin không thâm nhập vào phong trào công nhân thì nó sẽ
mãi dừng ở lĩnh vực lý luận, mà không thể trở thành lĩnh vực hành động thực tiễn.
Vì thế, hai yếu tố này cần có sự kết hợp với nhau, trong đó giai cấp công nhân là
vũ khí vật chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, còn chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí
tinh thần của phong trào công nhân.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là quy luật
chung cho sự ra đời của các Đảng cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó
không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng nhắc mà nó có nét đặc thù do sự chi
phối của những điều kiện lịch sử cụ thể, được thực hiện bằng con đường riêng biệt.
Lênin chỉ rõ: Trong tất cả các nước, chỉ có sự kết hợp chủ nghĩa xã hội với phong
4


trào công nhân mới xây dựng được một cơ sở vững chắc cho cả hai. Nhưng trong
mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng
con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian.
1.2. Khái niệm Đảng cầm quyền
Khái niệm Đảng cầm quyền được nhiều nhà khoa học chính trị đề cập tới,

dùng để chỉ Đảng nào được giao trách nhiệm lãnh đạo chính quyền, tức là chi phối
cơ quan hành pháp. Theo quy định Hiến pháp của từng nước, qua con đường nghị
viện ở xã hội đa Đảng tranh cử, nói chung Đảng nào chiếm được đa số ghế trong
Nghị viện thì trở thành đảng cầm quyền, đứng ra thành lập chính phủ, các đảng
khác còn lại trở thành đảng đối lập. Trong trường hợp không chiếm được đa số ghế
trong nghị viện thì một số đảng liên minh với nhau lập chính phủ Liên hợp, tức là
các đảng liên minh cầm quyền. Trong xã hội hiện đại, vai trò của các đảng chính trị
đối với sự phát triển của xã hội ngày càng lớn. Hoạt động của các đảng chính trị
chủ yếu là hoạt động nghị trường để giành lấy đa số phiếu trong Quốc hội, phấn
đấu trở thành Đảng cầm quyền và chi phối sự hoạt động của xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền cũng có nội hàm chung là lãnh đạo
chính quyền, nhưng có đặc thù là không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo
toàn xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản
Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ và xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
“Đảng cầm quyền” là khái niệm khoa học dùng trong khoa học chính trị,
chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính
quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền
lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn
thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mục đích, lý tưởng
của Đảng cầm quyền vẫn là giải phóng giai cấp, triệt để giải phóng con người, xây
5


dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với chủ tịch Hồ
Chí Minh, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là

điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “ Đảng cầm quyền”.
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ trước đến nay, khái niệm Đảng
"nắm chính quyền" hay "cầm quyền" đồng nghĩa với Đảng lãnh đạo chính quyền.
1.3.2. Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền
Theo Hồ Chí Minh đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ
quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong
suốt quá trình lãnh đạo Việt Nam. Người chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng ta
không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc
hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước và trên
toàn thế giới”. Khi trở thành Đảng cầm quyền mục đích, lý tưởng đó không thay
đổi mà còn có thêm những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hoá mục đích, lý
tưởng ấy.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân. “Là người lãnh đạo”, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo
dục, thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng
lãnh đạo, nhưng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi
đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân”, mà
phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh họ. Đồng thời, Đảng
phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và
hướng dẫn họ hành động. Vì vậy, chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng
phải bảo đảm trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải quan tâm
chăm lo đến đời sống nhân dân từ việc nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo tính công
việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm
đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của
nhân dân”. Đảng là người lãnh đạo, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rất rõ: Đảng phải
sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi
nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “Sự lãnh đạo trong mọi công
tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”.
6



Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ Đảng, để
phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng; lãnh đạo nhưng phải
chống bao biện, làm thay, phải thông qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân
và vì dân” để Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Do đó,
Đảng phải lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện, mà trong đó và trước hết là lãnh
đạo xây dựng luật pháp để quản lý, điều hành xã hội; đồng thời Đảng phải thường
xuyên coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức
hoạt động trong bộ máy nhà nước, luôn bảo đảm cho nhà nước thực sự trong
sạch,vững mạnh, thực sự là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”.
Để thực hiện đầy đủ chức năng của Đảng với tư cách người lãnh đạo, Hồ
Chí Minh còn đề cập một cách sâu sắc đến việc Đảng phải thực hiện chế độ kiểm
tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng.
Với tư cách là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng có
nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song, “đầy tớ” ở đây
không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực
phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Người nhấn
mạnh: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi
cho nhân dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức
tránh”. Người sử dụng cụm từ “đầy tớ trung thành” là để nhắc nhở và chỉ rõ vai
trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều phải
quan tâm thực sự đến lợi ích của nhân dân: “khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,
tận tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên “tự kiêm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải làm cho dân tin,
dân phục để dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Mặt khác, ý nghĩa cụm từ “đầy tớ trung thành của nhân dân”, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng: “Cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Không chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan
7


điểm, đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn quần
chúng đi theo Đảng đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, “là người lãnh đạo”, “là người đầy tớ” tuy là hai khái niệm
nhưng đều được Hồ Chí Minh sử dụng và chỉ ra sự gắn bó thống nhất, quan hệ
biện chứng giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù là “người lãnh đạo” hay “người
đầy tớ”, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đều cùng chung một mục đích: vì dân.
Làm tốt chức năng “lãnh đạo” và làm tròn nhiệm vụ “đầy tớ” cho nhân dân là cơ
sở vững chắc nhất bảo đảm uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những
được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công nhân, mà còn trong cả các tầng lớp
quần chúng nhân dân lao động và trong toàn thể dân tộc Việt Nam.
1.3.3. Đảng cầm quyền, nhân dân là chủ
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận của các cuộc cách mạng
trên thế giới và kết luận: “Cách mạng rồi thì chính quyền giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay bọn ít người”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, quyền lực phải
thuộc về tay nhân dân. Người đã đề cập xây dựng một nhà nước của dân, do dân và
vì dân; Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và
củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy
“dân làm gốc”. Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi
người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính
quyền.
Do vậy cán bộ Đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải: “Học
dân chúng”, phải “nâng cao dân chúng, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của nhân dân.
Cả cuộc đời của Hồ chí Minh là một tấm gương về gần dân, hiểu dân, và vì dân.
Người đã lo vun đắp cho cái “gốc” nhân dân bền vững để cây đời cách mạng trổ
hoa kết trái thắng lợi.
"Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"
1.4. Đặc điểm của Đảng cộng sản cầm quyền
1.4.1. Khi trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay
đổi căn bản
8


Từ khi chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản
của cách mạng. Đây là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ là lật đổ chế độ cũ, đập tan
bộ máy Nhà nước của giai cấp bóc lột, Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Sau khi đã giành được chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo nhân
dân xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ thành quả đất nước như theo cách nói
của Lênin: Khi đã có chính quyền thì chủ nghĩa xã hội khoa học từ lĩnh vực lý luận
đã chuyển sang lĩnh vực thực tiễn, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu
và trung tâm.
Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận
mệnh phát triển toàn diện của xã hội, về sự phồn vinh của đất nước, về tự do, ấm
no hạnh phúc của nhân dân. Nếu trước đây khi chưa có chính quyền nhiệm vụ hàng
đầu là nhiệm vụ quân sự, thì hiện nay khi đã giành được chính quyền thì nhiệm vụ
hàng đầu là xây dựng và phát triển kinh tế.
Giành được chính quyền làm một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ
chủ yếu để thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung ở nhà nước và được thực hiện chủ yếu
thông qua nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, là tổ chức tập trung nhất ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Trong hệ thống
chính trị của chủ nghĩa xã hội, nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò cực kỳ
quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua nhà nước chính là để thực hiện mục
đích ý chí và nguyện vọng của nhân dân, ngoài ra Đảng không có mục đích tự thân

nào khác. Tuy nhiên cần phân biệt rõ chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ giữa sự
lãnh đạo của Đảng với sự quản lý, điều hành của nhà nước để tránh tình trạng bao
biện làm thay hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của đảng.
1.4.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều thay đổi trong điều kiện có
chính quyền
Trong điều kiện có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo
công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Lúc
9


này cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng bằng những hình thức phương pháp
khác. Lênin đã chỉ rõ “khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những
nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những
phương pháp của ngày hôm qua. Khi đã có chính quyền, những biện pháp trước
đây không còn phù hợp nữa thì phải loại bỏ những phương pháp cũ, nhưng còn có
tác dụng thì phải đổi mới, cải tiến để sử dụng, đặc biệt là phải sáng tạo ra những
phương pháp mới thích hợp với điều kiện phát triển mới của đất nước".
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề cải tiến cách lãnh đạo của Đảng. Người yêu cầu cán bộ Đảng viên phải sửa
đổi lối làm việc và chỉ ra cách lãnh đạo của Đảng: Phải quyết định mọi vấn đề cho
đúng, phải tổ chức thi hành cho đúng, phải tổ chức kiểm soát cho đúng và muốn
làm những điều đó thì phải có quần chúng giúp đỡ. Khi tổng kết sự lãnh đạo của
Đảng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã nhận xét “kinh nghiệm
cho thấy phong trào cách mạng có khi dẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa,
không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì thiếu phương
pháp cách mạng thích hợp”. Sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước
đòi hỏi Đảng phải có một phương thức lãnh đạo phù hợp, nhận thức rõ điều đó
Đảng ta đã có gắng tự đổi mới, ra sức tìm kiếm các cơ chế, hình thức và phương
thức cụ thể, có hiệu quả, cho phép thực hiện đầy đủ dân chủ trong nội bộ Đảng và
trong đời sống xã hội nhằm phát huy tối đa vai trò lực lượng, tính tự giác và sáng

tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp quản lý đất nước và xã hội, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Tổng kết 10 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, một lần nữa
Đảng ta khẳng định: Kinh nghiệm cho thấy, mức độ thành công của công cuộc đổi
mới phụ thuộc vào tính đúng đắn của đường lối, đồng thời còn trực tiếp phụ thuộc
vào khả năng tìm kiếm, lựa chọn các phương thức tổ chức và hoạt động thích hợp.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì phương thức lãnh đạo của Đảng cũng
phải thay đổi, đây là giai đoạn mà nhiệm vụ chính trị của Đảng thay đổi từ nhiệm
vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc lột,
sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý là giai đoạn Đảng lãnh đạo thực hiện một nhiệm
10


vụ có tính chất tích cực và sáng tạo, là giai đoạn Đảng có chính quyền nhà nướcmột nhà nước của dân do dân và vì dân.
Nhận thức rõ được vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
đảng đã khẳng định: “tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề
ra các đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm
tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, Pháp luật
của Nhà nước. Ban chấp hành Trung ương, tập thể cấp uỷ, ban cán sự Đảng, đảng Đoàn thảo luận dân chủ biểu quyết và ra Nghị quyết theo đa số nhưng những vấn
đề quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách, về tổ chức, cán bộ. Tăng
cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm cá nhân”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ
rõ: "Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng
Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".
1.4.3. Đảng lãnh đạo chính quyền, các căn bệnh quan liêu tự mãn, chủ

quan, duy ý chí dễ có điều kiện phát triển trong một bộ phận đảng viên và cán bộ
Đảng ta ra đời và trưởng thành từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh
tế tiểu nông lạc hậu, đội ngũ đảng viên phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân.
Những tàn dư tư tưởng và thói quen cũ, lạc hậu không dễ gĩ gột bỏ ngay được, do
đó những căn bệnh như: chủ quan, duy ý chí có điều kiện tiêm nhiễm và phát triển
trong Đảng, nhất là khi Đảng trở thành Đảng duy nhất cầm quyền. Đảng rất dễ
quan liêu duy ý chí, dẫn đến sai lầm về đường lối. Hậu quả của nó không chỉ làm
suy yếu bản thân Đảng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, chức năng, sức
mạnh của nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
11


Ngay từ rất sớm, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến vấn đề rèn luyện Đảng, đặc biệt cảnh báo nguy cơ của bệnh quan
liêu, tự mãn. Vì vậy quán triệt quan điểm của các nhà kinh điển và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp pháp thiết thực đấu tranh với
bệnh quan liêu và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn có một số nơi
xem nhẹ vấn đề này, chưa thực sự nghiêm túc cho nên bệnh quan liêu, tự mãn có
chiều hướng phát triển mạnh, đã và đang là nguy cơ, thách thức lớn. Cuộc đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ này cùng với tệ nạn tham nhũng có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng ta và chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1.4.4. Cơ cấu thành phần, trình độ, nhu cầu của đội ngũ đảng viên của
Đảng đa dạng hơn và cao hơn trước
Hiện nay đội ngũ đảng viên có thành phần xuất thân, độ tuổi, dân tộc, trình
độ văn hoá, nguồn trưởng thành, giới rất đa dạng. Nhìn chung trình độ các mặt của
đội ngũ đảng viên cao hơn trước rất nhiều, đặc biệt khả năng trình độ nắm bắt
thông tin, cập nhật kiến thức mới. Đây là một thuận lợi rất lớn để Đảng thực hiện
vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong cơ cấu đội ngũ đảng viên đang còn tồn tại những bất hợp
lý như số đảng viên tuổi cao rất nhiều, sự phân bố đảng viên không đồng đều giữa

các vùng miền…cơ cấu trên đã đặt ra cho Đảng rất nhiều vấn đề cần giải quyết,
nhất là về công tác tổ chức, giáo dục, quản lý đội ngũ đảng viên.
Mặt khác, tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên... Không ít cán bộ, đảng viên
yếu kém về trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; tụt hậu về trí tuệ, năng lực tư
duy, năng lực tổ chức và hoạt động thực tiễn trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách
mạng. Trong khi phần lớn cán bộ, đảng viên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống
thì một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, bằng con đường phi pháp giàu lên
nhanh chóng, gây nên sự bất bình trong quần chúng, đồng thời tạo ra kẽ hở để các
thế lực thù địch cơ hội lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá
Đảng và nhà nước ta...
1.5. Vai trò của Đảng cộng sản cầm quyền
12


Theo Hồ Chí Minh lãnh đạo xã hội trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng
cần có sự hiểu biết nhiều mặt, nếu không có trí thức, không có năng lực thì lúc
“gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý cho khéo.
Không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, ý mình thế nào làm thế đấy,
kết quả thường hỏng việc". Nhiệm vụ chính trị của Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền trước hết là “giáo dục lại nhân dân ta”, là xây dựng những con người mới xã
hội chủ nghĩa, là đào tạo thế hệ cách mạng cho hôm nay và cho đời sau, là làm cho
nhân dân biết hưởng quyền dân chủ và có trách nhiệm xây dựng xã hhội mới, là
làm cho dân giàu nước mạnh, là đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu
Trong lãnh đạo, giai cấp nào cầm quyền cũng tổ chức ra hệ thống chính trị
để thông qua đó thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp mình. Hệ thống chính trị
của chủ nghĩa xã hội là hệ thống công cụ mới do giai cấp công nhân cầm quyền,
thông qua đội tiền phong chính trị là Đảng cộng sản. Trong hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa thì Đảng Cộng sản là người lãnh đạo, đồng thời là một hệ thống của
hệ thống đó. Vị trí đó đòi hỏi khách quan vì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công

nhân quy định, chứ không phải do ý chí chủ quan của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân Việt
Nam, lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện mục tiêu
chính trị của giai cấp. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, do bản chất giai cấp
của nó, tất yếu phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hiện nay, khẳng định vị trí vai trò
lãnh đạo của Đảng trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là đòi hỏi tất yếu của sự
nghiệp cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam từ trước đến nay
và từ nay về sau là một tất yếu lịch sử. Đảng ta ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đã thể hiện cả
tính tất yếu chính trị ngay từ khi ra đời. Trải qua 68 năm lãnh đạo đất nước, Cương
lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh được ý chí nguyện vọng
và lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, đã không
ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi lên theo phương hướng gắn liền độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta tự nguyện thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng ta, rõ
13


ràng không phải là do sự áp đặt mà xét đến cùng là do tính tất yếu khách quan của
cách mạng nước ta. Vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối với cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề quy luật và có tính
nguyên tắc. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh thì vấn đề này
càng trở nên cấp thiết.
1.6. Chức năng, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản
cầm quyền
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
khẳng định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục vận
động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới

thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực, phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Đảng không phải là tổ chức quyền lực Nhà nước, nhưng Đảng là hạt nhân
lãnh đạo chính trị của hệ thống chính trị, nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực của
nhân dân với những chưc năng khác nhau của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Vấn đề then chốt trong đổi mới hệ thống chính trị là làm rõ chức năng lãnh đạo của
Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết
là đối với Nhà nước, tránh tình trạng Đảng bao biện, làm thay công việc của Nhà
nước, Đảng quyết định tất cả, vi phạm nghiêm trọng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vấn
đề đặt ra là Đảng không tự biến mình thành cơ quan quyền lực nhưng Đảng phải
đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, để trong tình huống nào Đảng cũng giữ
được quyền lãnh đạo chính trị,để giữ vững quyền lực chính trị trong tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra Cương lĩnh, đường lối, chiến lược lớn trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những nguyên tắc, những quan điểm,
14


những tư tưởng chỉ đạo để Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị vận
dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của từng tổ chức. Đảng thực hiện sự kiểm
tra đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Chính qua kiểm tra mà Đảng sơ kết,
tổng kết để không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng.Đảng đề ra các quan điểm toàn diện về công tác cán bộ. Đào tạo, bố trí
và sử dụng cán bộ. Đảng tôn trọng cơ chế bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ của
nhà nước cũng như các tổ chức khác, không gò ép, áp đặt. Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Để làm tròn trách nhiệm nặng nề trước dân tộc
trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta coi

trọng việc tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo, bảo
đảm cho Đảng luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. Vấn đề quan trọng hàng đầu
là phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh
đạo chính trị của Đảng lên một bước phát triển mới.
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, đi đôi với việc giáo dục,
Đảng cần coi trọng việc quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và tổ chức thực
hiện quy chế này “kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hễ xa rời nguyên tắc tập trung dân
chủ, Đảng sẽ trở thành một thứ câu lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè
phái, vô chính phủ đủ loại; cuối cùng đưa đến chỗ tan rã Đảng về mặt tổ chức, tức
là thủ tiêu bản thân Đảng”.
Hiện nay là thời kỳ mà đời sống đất nước cũng đời sống thế giới đang
chuyển biến nhanh chóng. Do đó Đảng cần đầu tư trí tuệ, tổng kết thực tiễn để có
thể đưa ra dự báo, những giải đáp lý luận đúng đắn, kịp thời. Mọi đảng viên dù ở
cương vị công tác nào cũng phải là người công dân kiểu mẫu, phải bằng lao động
sáng tạo của mình để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, gương mẫu
trong chấp hành luật pháp và lối sống có đạo đức. Nâng cao chất lượng đảng viên,
làm trong sạch đội ngũ đảng viên là yêu cầu cấp bách để nâng cao sức chiến đấu
của Đảng và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG CẦM QUYỀN
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
15


Hồ Chí Minh coi vấn đề Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là
một nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của mình. Chừng nào Đảng buông lỏng,
làm giảm hoặc từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình đối với Nhà nước thì lúc đó Đảng
cộng sản Việt Nam không còn là Đảng cầm quyền nữa. Khi đó chế độ xã hội chủ
nghĩa cũng không còn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nhưng nội dung sau đây
thể hiện tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước của dân, do dân và vì

dân.
Một là, Đảng phải chú trọng lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường
bản chất công nhân.
Hồ Chí Minh vừa là Chủ tịch Đảng vừa là Chủ tịch nước. Người lãnh đạo
soạn thảo 2 bản Hiến pháp là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Hồ Chí Minh coi
trọng việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Việc xác định giai cấp của Nhà nước là một vấn đề cơ bản
của Hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 đã khẳng định “Nhà nước của ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”.
Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ, một Nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi. Hồ Chí Minh vẫn nhấn
mạnh lòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tri thức, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Hai là, Đảng luôn luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng Nhà nước đảm bảo
cho bộ máy Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức thật sự trong sạch vững mạnh.
Chính quyền yếu kém thì Đảng cũng yếu kém và Đảng không thể đóng vai
trò cầm quyền được nữa. Vì vậy, xây dựng bộ máy chính quyền cũng như đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh là trách nhiệm của Đảng cầm quyền.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời được một tháng, vào tháng
10/1945 Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư rất tâm huyết cho UBND các kỳ, tỉnh,
huyện và làng. Trong thư có đoạn viết: Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
16


việc chung cho dân, chứ không phải là để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật. “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có
hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân, thì dân mới

yêu ta, kính ta”.
Hồ Chí Minh nghiêm khắc cảnh báo những tiêu cực trong bộ máy Nhà
nước, thường xuyên nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục hàng loạt căn bệnh
tiêu cực, nhất là những căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu mà Hồ Chí Minh coi
đó là “giặc nội xâm”, thứ giặc này còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Khi Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên được phân công họat động trong bộ
máy của chính quyền và không ít đảng viên giữa những trọng trách trong các cơ
quan Nhà nước. Hồ Chí Minh nhắc nhở phê bình một số đảng viên cậy thế mình là
người tổ chức Đảng để phớt lờ cả kỷ luật trong các cơ quan chính quyền. Theo Hồ
Chí Minh, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ Đảng mà còn nghiêm
chỉnh sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức lãnh đạo thích hợp. Có
đường lối đúng chưa đủ. Đảng cầm quyền còn cần có phương thức thích hợp đối
với Nhà nước. Nói đến phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước là nói đến cách
lãnh đạo cho phù hợp lãnh đạo đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù
phù hợp với từng thời kỳ. Thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sống, Đảng Cộng sản
cầm quyền ở nước ta phải lãnh đạo đất nước vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế
độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng thời kỳđó không giống với thời
kỳnày. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những cơ bản về phương thức
lãnh đạo của Đảng chung cho tất cả các thời kỳ đó là:
- Lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương. Sự lãnh đạo này không phải để
làm thay mà nhằm phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, vừa đảm bảo cho Nhà
nước hoạt động sự lãnh đạo của Đảng, vừa để phát huy vai trò chủ động của Nhà
nước trong việc quản lý xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

17


- Lãnh đạo thông qua bộ máy, tổ chức của Đảng, trong các cơ quan Nhà

nước. Thời kỳ Hồ Chí Minh còn sống, đó là các Đảng đoàn, ban cán sự và tât cả
các tổ chức Đảng được lập theo bộ máy hành chính.
- Lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Nhà
nước.
- Lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra.
2.2. Đảng cầm quyền phải phát huy vai trò lãnh đạo của mình đối với
mặt trận và các đoàn thể
Hồ Chí Minh khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân. Công việc cổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ
Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói
tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Người đã chỉ rõ giữ chặt chẽ mối
quan hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, quyền lực của Đảng Cộng sản
Việt Nam cầm quyền không tự nhiên mà có, quyền lực ấy do nhân dân ủy thác cho
Đảng đứng ra lãnh đạo cách mạng và chính điều đó nói lên rằng, sức sống của
Đảng bắt nguồn từ nhân dân. Cơ sở xã hội của Đảng như Hồ Chí Minh xác định là
không chỉ giai cấp công nhân mà còn toàn thể nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Điều này được Hồ Chí Minh phát biểu rõ nhất trong báo cáo chính trị từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tháng 2/951. Hồ Chí Minh quan niệm “Cách
mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Nhân dân ở
đây theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn thể nhân dân, là “đồng bào”, là con Hồng
Cháu Lạc, con Rồng Cháu Tiên mà nòng cốt là liên minh công, nông, trí thức.
Nhân dân phải có tổ chức, được tập hợp lại dưới ngọn cờ của Đảng. Mặt
trận ở dân tộc thống nhất do Chủ tịch Hồ Chí Minh lập nên và các đoàn thể nhân
dân chính là tổ chức đại diện cho nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng
chế độ mới.
18



Thực hiện vai trò cầm quyền của mình, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam phải:
- Luôn luôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân
dân, khiêm tón học hỏi nhân dân. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của nhân dân
trong cách mạng, coi dân có quyền lực tối thượng. Vì vậy, Đảng phải ra sức làm
tròn nhiệm vụ do dân giao phó.
- Đảng phải thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
làm cho nhân dân có ý thức chính trị tự xây dựng Đảng bằng nhiều hình thức
phong phú.
Đảng có trách nhiệm “nâng cao dân chúng” tức là nâng cao dân trí. Đảng
là đại diện cho lương tâm, trí tuệ của dân tộc. Đảng muốn Đảng là của trí tuệ mà
nền dân trí thấp thì Đảng không thể đóng vai trò cầm quyền được. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì thế nâng cao dân trí là một
nội dung rất quan trọng trong xây dựng Đảng cầm quyền để xứng đáng là người
lãnh đạo đối với toàn xã hội. Dân trí ở đây được hiểu là sự tổng hợp từ nhiều mặt:
trình độ giác ngộ chính trị, nền học vấn...Trong lãnh đạo Đảng không được theo
đuôi quần chúng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Chủ tư tưởng. Nhiệm vụ
của Đảng là làm cho toàn dân trở thành loại tiên tiến và nhất thiết không được theo
đuôi quần chúng.
Với trách nhiệm là Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
Đảng ta phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân “ chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh
đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện xã, bất
kỳ ở cấp nào và ngành nào, đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định chức vụ của bản thân mình chỉ là để phục
vụ nhân dân khi Người trả lời các nhà báo năm 1946 “Tôi tuyệt nhiên không ham
muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng
bào ủy thác thì tôi phải cố gắng sức làm, cũng như một người lĩnh vàng mệnh lệnh
quốc dân trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi thì rất vụi lòng vui.Tôi chỉ có

một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
19


lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
cúng được học hành”.
Phát biểu tại buổi lễ ra mắt Đảng lao động Việt Nam sau khi kết thúc Đại
hội II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Đảng lao động Việt Nam không sợ kẻ
địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, Nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn
sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”.
2.3. Xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh
2.3.1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng lãnh
đạo nhân dân ta phấn đấu để đạt được là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Trên
con đường phấn đấu đạt mục tiêu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ Đảng phải dựa
vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhiệm vụ chủ yếu
của Đảng cộng sản cầm quyền là lãnh đạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học chính là sự
định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn nhấn mạnh việc Đảng cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa MácLênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động “bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắc nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
Hồ Chí Minh cho rằng việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mac-Lenin nói
chung và trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng là rất sáng tạo.Đó
cũng là điều ma chủ tịch Hồ Chí Mĩnh thường xuyên đòi hỏi Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiêp xây dưng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.Hồ Chí Minh tuân thủ sự chỉ dẫn của các vị sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản
khoa học, rằng học thuyết của các ông không phải là giáo điều,mà là kim chỉ nam
cho hành động. Lênin khẳng định “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là

một cái gì đã song suôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chung ta tin rằng lý luận
đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống.
20


Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình
vạ phát triển hơn nữa lý luận của Mác-Lênin. Vì lý luận này chỉ đề những nguyên
lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì sét riêng từng nơi. Ở
Anh không giống ở Pháp, không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”.
Hồ Chí Minh lưu ý công tác tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin
phải phù hợp với đối tượng, với hoàn cảnh tránh giáo điều, đồng thời tránh việc
tuyệt đối hóa đặc điểm của từng dân tộc để xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, cho nên việc cần thiết là học tập những kinh nghiệm tốt,
những bài học của các Đảng cộng sản, tránh những sai lầm, khuyết điểm mà các
Đảng đã mắc phải. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng việc Đảng ta phải
thường xuyên tổng kết kinh nghiệm hoạt động của mình để bổ sung, làm phong
phú thêm kho tàng lý luận Mác-Lênin, đấu tranh dưới nhiều hình thức để bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống giáo điều, cơ hội, xét lại và mọi biểu
hiện xuyên tạc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Thực tế cho thấy trong thời gian qua đã chứng minh rằng, cả hai loại sai
lầm: giáo điều hoặc xa rời những nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin đều dẫn tới sự
tan rã của nhiều đảng cộng sản cầm quyền, kể cả đối với Đảng cộng sản Liên Xô một Đảng do V.I.Lênin sáng lập, có bề dạy kinh nghiệm qua hơn 70 năm cầm
quyền.
Không phải cứ học thuộc, coi lý luận Mác-Lênin như là những công thức,
như những “kinh thánh” thì mới là trung thành với học thuyết của các ông. Không
phải cứ nói C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin là sáng tạo. Cũng không thể cứ “lắp
ghép” nguyên lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học với các mới
hiện nay là có ngay sự kế thừa sáng tạo và nâng lý luận của các ông lên một tầm

cao mới.
Sự nghiệp đổi mới vì mục đích tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ
nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mọi biểu
hiện từ bỏ học thuyết cách mạng và khoa học này đều chỉ dẫn đến sự thất bại đối
21


với sự nghiệp cách mạng và làm cho Đảng biến chất, không còn làĐảng cộng sản
nữa.
2.3.2. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
Đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân.
Vì vậy, Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định, và
nếu vi phạm thì Đảng sẽ bị suy yếu và tan rã. Trong công tác xây dựng Đảng nói
chung, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền nói riêng, Hồ Chí Minh đề
cập nhiều nguyên tắc, những nguyên tắc đó đều xuất phát từ học thuyết Mác-Lênin
về xây dựng Đảng của giai cấp vô sản và được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong học thuyết của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản,
nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản. Hồ Chí Minh
đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc này và chỉ rõ giữa tập trung và dân chủ gắn bó chặt
chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng các mệnh đề sau
đây: Tập trung trên nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Như vậy,
chúng ta không được tách rời và càng không được đối lập hai mệnh đề của một
nguyên tắc.
Hồ Chí Minh xác định dân chủ là tạo mọi điều kiện cho tất cả đảng viên
bày tỏ hết ý kiến để đóng góp cho Đảng. Người nhấn mạnh: “Phải thật sự mở rộng
dân chủ để tất cả các đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến
của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt”.

Tập trung trong Đảng phải trên cơ sở bảo đảm dân chủ, nghĩa là dân chủ
càng tốt thì tập trung sẽ đúng hơn. Hồ Chí Minh quan niệm tập trung trong tổ chức
và sinh hoạt Đảng theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng củaV.I.Lênin: thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương…
Người nhấn mạnh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một
người”. Tập trung trong Đảng cũng có nghĩa là tất cả đảng viên phải tuyệt đối phục
tùng Nghị quyết của Đảng.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
22


Có lúc nguyên tắc lại được Hồ Chí Minh gọi là là “chế độ”. Theo Hồ Chí
Minh, “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách
phải gắn chặt với nhau. Nguyên tắc này vừa chống lại bệnh độc đoán chuyên
quyền, vừa chống lại sự dựa giẫm tập thể, không giám quyết đoán, không dám trịu
trách nhiệm. Độc đoán, chuyên quyền là vi phạm dân chủ trong Đảng, đồng thời
không dám chịu trách nhiệm sẽ là làm tổ chức Đảng bị tê liệt, không còn sức
chiến đấu, làm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của tổ chức Đảng chỉ nằm
trên giấy, không biến thành hiện thực trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh giải thích tập thể lãnh đạo như sau: Vì một người dù khôn
ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đấu, cung chỉ trông thấy, chỉ xem xét
được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả
mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm,
người thì rõ mặt này, người thì trông thấy mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh
nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt.
Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai
lầm. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngũ

có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là nghĩa đó.
Hồ Chí Minh giải thích về cá nhân phụ trách như sau: Vì sao cần phải cá
nhân phụ trách ? Việc gì đã được đông người bàn bạn kỹ lương rồi, kế hoạch chỉ rõ
ràng rồi, thì cần phải giao cho một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà
thi hành. Như thế mới có chuyên trách. Như thế mới có chuyên trách, công việc
mới chạy. “Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho
người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì
việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ái đóng cửa chùa” là
như thế”.
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác xây dựng Đảng, không được phép vin
vào “cá nhân phụ trách” để lấn án tập thể hoặc không phải việc gì nhỏ nhặt, vụn
23


vặt, một người vẫn có thể giải quyết được cũng đưa ra bàn. Nguyên tắc này càng
có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, với cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi công tác xây dựng Đảng được coi
là then chốt, xây dựng kinh tế là trung tâm, khi mà trách nhiệm của cá nhân và của
tập thể tổ chức Đảng được phát huy tác dụng rõ rệt hơn bao giờ hết.
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh có nhiều cách gọi tự phê bình và phê bình. Có lúc Người đặt
phê bình lên trước tự phê bình, nhưng nhiều hơn cả là tự phê bình đặt trước phê
bình. Có lúc Người gọi tự phê bình và phê bình là “luật” hoặc “quy luật phát triển”
của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong công tác xây dựng Đảng. Xét về nội dung,
chúng ta coi vấn đề này có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng nói
chung và trong giai đoạn Đảng cầm quyền nói riêng.
Tại sao trong Đảng lại phải thường xuyên tự phê bình và phê bình? Hồ Chí
Minh chỉ rõ, Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách, rất trung
thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại, song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những
tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây ngấm vào

Đảng. Đảng ta gồm những người có đức, có tài. Phần đông những người hăng hái
nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất đều ở trong
Đảng. Vì vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc điều hay. Hồ Chí Minh
còn cho rằng, người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm;
mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục đích tự phê
bình và phê bình là làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân,
phần xấu mất dần đi. Thang thuốc hay nhất và thiết thực nhất là tự phê bình. Phải
thường xuyên tự phê bình và phê bình những người như người ta rửa mặt hàng
ngày.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thái độ tự phê bình và phê bình. Người đòi
hỏi tự phê bình và phê bình phải thẳng thắn, chân thành, nghĩa là không nể nang,
không thêm bớt, “không giấu bệnh sợ thuốc’. Đồng thời, phải “có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình trên tinh thần đồng chí cốt để sửa
chữa khuyết điểm chứ không phải để soi mói, nói xấu nhau. Với thái độ tự phê
24


bình và phê bình như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng mới luôn trong
sạch, vững mạnh.
2.3.3. Xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm
quyền
Đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền có mặt ở tất cả các tổ
chức của hệ thống chính trị và thường là giữ những trọng trách trong hệ thống
chính trị các cấp. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng và rèn luyện đội ngũ
đảng viên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới trên những vấn đề sau đây:
Một là, thường xuyên lựa chọn người ưu tú để kết nạp vào đội ngũ của
Đảng, bảo đảm đội ngũ Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong việc kết nạp đảng viên
phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, khắc phục tình trạng chủ nghĩa thành phần.
Hai là, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, tiền phong,
gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác. Hồ Chí Minh nhiều lần cho rằng: “đảng

viên đi trước, làng nước theo sau”; phải luôn có “Đảng tính”, tức là đảng viên hoạt
động trong các tổ chức của chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội, phải thật
sự gương mẫu để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về Nhà
nước.
Ba là, đội ngũ đảng viên là những người suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự
nghiệp của Đảng và Tổ quốc, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hế. Và
trước hết trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo
nhân dân xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Vấn đề hy sinh cách mạng
không đặt ra thường xuyên, nhưng lợi ích kinh tế đặt ra không kém phần gay gắt,
vẫn đòi hỏi đảng viên phải hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung của Đảng.
Bốn là, đảng viên phải có đời tư trong sáng, tức là đề cập đến đạo đức, lối
sống, điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở.
2.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
Cán bộ ở đây được quan niệm là cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng
cầm quyền, mà thường số đông cán bộ trong hệ thống chính trị là đảng viên. Hồ
Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ. Người cho rằng: “Cán
25


×