Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN xã hội học GIỚI NAM TÍNH và nữ TÍNH TRONG QUAN NIỆM TRUYỀN THỐNG và ẢNH HƯỞNG của NAM TÍNH và nữ TÍNH TRONG QUAN hệ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.56 KB, 15 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Xa xưa trong lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
trong mỗi giai đoạn lịch sử đó có sự thay đổi về hoàn cảnh chính trị, kinh tế
dẫn đến vai trò của giới nam và giới nữ trong gia đình và xã hội cũng thay
đổi. Do đó, quan niệm về tính cách, quy tắc xử thế của mỗi giới cũng biến
đổi không ngừng.
Xã hội càng văn minh, người ta càng công nhận quyền bình đẳng của
hai giới. Trong phân công lao động, vai trò của hai giới xích lại gần nhau, hệ
thống giáo dục cũng không có sự phân biệt lớn về giới tính. Về nguyên tắc,
ngày nay mỗi một con người, dù nam hay nữ, đều có điều kiện phát triển
toàn diện hơn, không phải bó hẹp trong các khuôn mẫu cổ xưa về đàn ông và
đàn bà nữa.
Tuy nhiên, các quy định, quan niệm về tính cách, quy tắc cũ xã hội
vẫn còn để lại những "dư âm" của nó, ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi
con người. Để hiểu được những ảnh hưởng của quan niệm xã hội về tính
cách hay “hình mẫu xã hội” lên người đàn ông và phụ nữ như thế nào, chúng
ta sẽ cùng bàn bạc và phân tích “Nam tính và nữ tính trong quan niệm
truyền thống và ảnh hưởng của nam tính nữ tính đến quan hệ xã hội”
2. TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ GÓC ĐỘ LÝ THUYẾT.
- Lý thuyết xã hội hoá:
Nhiều nhà tư tưởng, triết học xã hội học từ cổ chí kim đều thừa nhận
vai trò của Xã hội hoá trong đời sống con người bằng cách này hay cách
khác. Xã hội hoá là một quá trình mà ở đó tất cả các cá nhận đều học cách
làm sao để đáp ứng được các trông đợi của xã hội thông qua cách ứng xử,
giao tiếp với những người khác. Xã hội hoá có thể hiểu là một mô hình,
khuân mẫu của xã hội được hình thành thế nào để tạo sự thích nghi, sự liên
kết giữa các cá nhận với nhóm.

1



Trên kía cạnh giới Jeffrey Rubin và các cộng sự (1974) đã cho rằng
hầu hết các bậc cha mẹ đều nhận thấy các biểu hiện về giới của con mình
ngay từ những ngày đầu tiên, chẳng hạn con trai có vẻ cứng rắng hơn và con
gái mềm mại hơn, đó có thể là bản năng giới tính. Khi đứa trẻ lớn lên một
chút, chính các quan niệm của cha mẹ về vai trò giới đã tác động đến cách
giáo dục, cư sử của họ đối với trẻ. Tính chủ động này đã tác động rất lớn đến
tính cách và phẩm chất giới sau này của trẻ. Việc giáo dục con trai học con
gái theo các khuân mẫu giới như: Con trai phải mạnh mẽ, hướng ngoại, còn
con gái phải dịu dàng, hướng nội chăm lo việc gia đình đã làm cho qua trình
xã hội hoá hình thành nhân cách của con người mang đậm màu sắc giới. Xã
hội hoá nhận thức về giới hình thành một cách khách quan từ môi trường gia
đình và xã hội thông qua hệ thống các chuẩn mực và giá trị sống của xã hội
đó.
Vận dụng lý thuyết xã hội hoá trong tiếp cận giới, ta có thể nhận thấy
xã hội hoá về giới là một quá trình khách quan trong sự phát triển của con
người. Trong khi con người tương tác với xã hội, hội nhập với các quy chuẩn
của xã hội mà họ đang sống, con người cũng tiếp nhận các quy chuẩn về giới
trong xã hội đó. Các khuân mẫu giới luôn được đề cập và nhấn mạnh về các
giá trị và cách sống của mỗi giới như là nam tính và nữ tính.
- Lý thuyết biến đổi xã hội:
Thuyết biến đổi xã hội trong xã hội học ra đời coi xã hội là một sự vận
động và tương tác không ngừng. Đại diện tiêu biểu là A. Comte, Gerhard
Lenski và Jean Lenski, William Orburn …
Có nhiều quan điểm khác nhau về sự biến đổi xã hội thông qua biến
đổi hành vi. Các nhà xã hội học theo thuyết biến đổi xã hội định nghĩa “Biến
đổi xã hội là một quá trình, qua đó những khuân mẫu của hành vi xã hội,
các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội
thay đổi qua thời gian”. Lý thuyết biến đổi xã hội coi quan niệm giữa Nam
tính và Nữ tính cùng là đối tượng của những sự biến đổi xã hội


2


3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Giới là gì?
Nói đến giới cần bắt đầu phân biệt giữa hai thuật ngữ "giới" và " giới
tính" và xem xét những đặc trưng cơ bản của chúng
Giới tính: (sex) là một khái niệm xuất phát từ môn sinh học, chỉ sự khác biệt
giữa nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá
trình tái sản xuất con người và di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã có
những đặc điểm về giới tính (là đàn ông hay đàn bà). Những đặc điểm này là
ổn định và hầu như không biến đổi ở cả nam và nữ. Ví dụ mọi người đàn bà
đều có chung những đặc điểm về giới tính, đó là mang thai, sinh con và cho
con bú bằng sữa mẹ. Mọi đàn ông đều có chung một đặc điểm là có thể sản
xuất ra tinh trùng cần thiết cho quá trình thu thai. (Trần thị Quế, Gendcen,
1999. Trích theo Đỗ Thị Bình và Trần Thị Vân Anh, 2003, tr.18-19)
Những đặc trưng cơ bản của giớ ính: (i) Bẩm sinh; (ii) Đồng nhất và
(iii) Không biến đổi (Trần thị Quế, Gendcen, 1999. Trích theo Đỗ Thị Bình
và Trần Thị Vân Anh, 2003, tr.20)
Giới (gender): "Giới" là thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn nhân học,
nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ.
Giới đề cập đến việc phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và
và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác,
nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới về mặt xã hội.
(Trần thị Quế, Gendcen, 1999. Trích theo Đỗ Thị Bình và Trần Thị Vân Anh,
2003, tr.19).
Những đặc trưng cơ bản của giới: (i) Do dạy và học mà có; (ii) Đa
dạng (iii) luôn biến đổi; (iv) Có thể thay đổi được. (Trần thị Quế, Gendcen,
1999. Trích theo Đỗ Thị Bình và Trần Thị Vân Anh, 2003, tr.20-21)
Vai trò giới: Vai trò giơí vừa là một khái niệm vừa là một trong các công cụ

được sử dụng để phân tích tương quan giới trong gia đình và xã hội.

3


Vai trò giới là một trong nội dung của khung phân tích giới của Moser
91993). Cùng với việc xác định các nhu cầu giới, khung phân tích này giới
thiệu một cách thức phân tích tình hình thực tế và lập kế hoạch với mục đích
vì công bằng và bình đẳng giới. Vai trò giới vẽ lên một bức tranh về phân
công lao động bằng cách đặt câu hỏi "Ai làm gì". Moser cho rằng trong một
ngày, cũng như cả cuộc đời, phụ nữ và nam giới có xu hướng làm những
công việc khác nhau, họ thực hiện những vai trò khác nhau, được gọi là vai
trò giới.( Đỗ Thị Bình và Trần Thị Vân Anh, 2003, tr.2-23).
Sự phân công lao động theo giới
Là sự phân công các nhiệm vụ và trách nhiệm khác nhau giữa nam và
nữ. Sự phân công này là do dạy dỗ mà thành, được mọi thành viên trong
cộng đồng, xã hội nắm vững. Vai trò 3 mặt (còn được gọi là gánh nặng 3 vai)
của phụ nữ: công việc sản xuất, công việc tái sản xuất và công việc cộng
đồng (UNDP, 2004, tr.28).
Định kiến giới
Là suy nghĩ mà mọi người có về những gì mà phụ nữ và nam giới có
khả năng về loại công việc mà họ có thể làm. Định kiến giới thường gắn liền
với thái độ, niềm tin và thường là yếu tố quan trọng duy trì khuôn mẫu giới.
Định kiến giới được biểu hiện dưới nhiều “hình thức thể hiện khác nhau”:
trong ngôn ngữ, lời nói hàng ngày, trong nhận định, đánh giá cán bộ, trong
chính sách cán bộ, trong quan hệ giữa hai giới trong gia đình và xã hội, thậm
chí định kiến giới được thể hiện “rất đa dạng và phong phú” trong nội dung
của phim ảnh, vô tuyến truyền hình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy
của thầy cô giáo, phân công lao động của bố mẹ cho con trai và con gái,
phân công lao động xã hội...từ đó hình thành “việc đàn ông”, việc “đàn bà”;

“nghề con trai”, “nghề con gái”... Một trong những ví dụ về định kiến khá
phổ biến trong xã hội là cho rằng phụ nữ không thích hợp với những công
việc đói hỏi sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật. Đây chính là một trong những
biểu hiện khá phổ biến hầu hết tại các vùng nông thôn nước ta dẫn đến việc
hạn chế sự tham gia của phụ nữ vào các lớp tập huấn kỹ thuật khuyến nông
4


như trồng điều, trồng tiêu, nuôi gà thả vườn, kỹ thuật canh tác trên đất
dốc...trong các dự án thực hiện tại các địa phương (tỷ lệ phụ nữ tham gia các
lớp tập huấn chỉ đạt từ 10-15%).
Những định kiến như vậy lâu dần có thể được người ta xem như một
điều "hiển nhiên", và từ đó những gì khác với định kiến dù là thực tế, ví dụ
nam giới có người làm việc nhà thành thạo, hay có nhiều phụ nữ có tầm nhìn
xa trông rộng...cũng bị coi là khó chấp nhận. Định kiến giới, đặc biệt nếu có
trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo thì là một trong những trở ngại đáng kể
đối với việc đánh giá khách quan năng lực của giới nữ và do đó cũng là trở
ngại đối với việc thực hiện bình đẳng nam nữ nói chung.
Giá trị /khuôn mẫu giới:
Là những ý tưởng mọi người nghĩ phụ nữ và nam giới nên như thế
nào và nên làm những công việc gì. Ví dụ, phụ nữ nên dịu dàng, nam giới
nên mạnh mẽ, quyết đoán, hay thể hiện khá rõ trong định hướng nghề nghiệp
cho con trai và con gái: con gái học sư phạm để làm cô giáo, nam giới nên
học bách khoa để trở thành những kỹ sư kỹ thuật, từ những giá trị/khuôn
mẫu giới này đã hình thành "nghề con trai", "nghề con gái", "việc đàn ông",
việc "đàn bà". Quan niệm khác nhau dẫn đến những hành vi ứng xử khác
nhau và dẫn đến những mâu thuẩn trong đánh giá khả năng, định hướng
nghề nghiệp, phát triển năng lực của trẻ em gái và phụ nữ trong gia đình, tại
nơi làm việc và trong xã hội
4. “NAM TÍNH VÀ NỮ TÍNH” TIẾP CẬN TỪ MỘT SỐ KHÍA CẠNH.

4.1 Quan niệm truyền thống về nam tính và nữ tính.
Quan niệm xã hội về nam tính và nữ tính là một khía cạnh về bản sắc
giới, thể hiện nhận thức của ai đó về quá trình tiếp thu chuẩn mực, các giá trị
và những hành vi đi cùng với sự mong chờ, trông đợi của xã hội phù hợp với
giới nam hay giới nữ; hay nói cách khác đó là mong đợi/hình mẫu cũng như
nhìn nhận xã hội về Nam giới và Nữ giới các quan điểm đó vận động và biến

5


đổi theo thời gian, tuy nhiên nó phải hình thành trên các khuôn mẫu và duy
trì từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Những đặc điểm nam tính hay nữ tính là sự cụ thể hoá bản sắc theo
những kỳ vọng, mong chờ của xã hội. Nghiên cứu cho thấy, nền văn hoá
khác nhau, có một sự nhất trí chung về những đặc điểm nam tính và nữ tính.
Nam tính: Chỉ những người có đặc điểm: hung hăng/hiếu chiến, duy
lý, mạnh mẽ, thống trị, năng nổ, vô tình, độc lập, cạnh tranh, sự quyết định
và ít bộc lộ tình cảm.
Nữ tính: chỉ những người trực giác, tình cảm, yếu đuối, dễ xúc động,
phụ thuộc, dễ bị tổn thương, dễ bảo/ngoan ngoãn, không cạnh tranh, mềm
yếu/nhân hậu và dễ bộc lộ tình cảm (Edwards và Wiliams 1980, Wiliams và
Best 1982) (A.G.Johson, 1996:321)
Các tác giả cuốn “Từ điển Xã hội học” (2002) có đề cập đến một vài
đặc trưng của nam tính và nữ tính: “Trong xã hội của chúng ta người ta coi
ai đó là có nữ tính, nếu như người đó biết nén lại tính hung hăng, chú ý tới
vẻ ngoài của xã hội và tỏ ra hoà nhã, nặng về tình cảm; là nam tính nếu có
biểu lộ tính hiếu chiến, có định hướng động tác như tính mạnh mẽ, biết nén
tình cảm, đặc biệt là nỗi lo sợ lại…” (2002:544)
Xét theo quan niệm truyền thống, nam tính và nữ tính không phải do
bẩm sinh mà có được. Những yếu tố sinh học không đủ cơ sở để giải thích

sự khác nhau về vai trò của hai giới. Trên thực tế, ở mỗi người có thể tìm
thấy những điểm được coi là nam tính hay nữ tính theo nghĩa truyền thống,
tuy rằng tỷ lệ đó khác nhau đối với mỗi người.
Nam tính hay nữ tính được cá nhân tiếp nhận dần dần từ tuổi ấu thơ
do hoàn cảnh sống trực tiếp và giáo dục của gia đình và xã hội. Điều đó có
nghĩa là sự khác biệt vai trò giới của hai giới chỉ là tương đối, không thể
biện minh cho sự thống trị của nam giới, sự tuân thủ, phụ thuộc của nữ giới
với bất kỳ một lý do nào.

6


Ví dụ: Với chuẩn mực của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến là “tứ đức” (Công,
dung, ngôn, hạnh) thì hình ảnh một người phụ
nữ theo đúng nghĩa thường phải là một người:
Khéo léo, đảm đang trong việc nhà, đẹp theo
hướng nhẹ nhàng, đoan trang, lời nói nhỏ nhẹ,
từ tốn, và luôn giữ tiết hạnh, phục tùng người
đàn ông. Theo đó, nếu một người phụ nữ
không khéo léo trong công việc nội trợ nhưng
năng động hoạt bát, làm kinh tế giỏi, có vẻ bề
ngoài cá tính và ăn nói sắc sảo, và có thể thảo
luận, “tranh cãi” cùng ngừơi khác giới thì không được đánh giá cao vì so
sánh với mẫu hình người phụ nữ đã được định khuôn thì rõ ràng một cô gái
như vậy là không “nữ tính”.
Cách nhìn nhận đó cho thấy rõ sự định kiến với người phụ nữ. Bởi
không phải cứ là phụ nữ thì phải lo toan hết công việc nhà, phải thụ động và
phục tùng nam giới, còn là đàn ông thì chủ động quyết đáp việc gia đình.
Thực tế có nhiều phụ nữ rất năng động hoạt bát, quyết đoán, đảm nhiệm

được những vị trí vai trò quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, do định kiến về
giới nên không phải bao giờ họ cũng được gia đình và xã hội tạo điều kiện
để phát huy hết tài năng của mình.
Nói đến đàn ông (nam giới) phải có thể lực
khoẻ mạnh, mạnh mẽ, ăn to nói phải lớn, những giá
trị đó như là những khuân mẫu giới luôn được đề
cập ở trên.
Quan niệm truyền thống đòi hỏi những người
nam giới phải tích cực, năng động, bình tĩnh, chủ
động hơn so với phụ nữ, còn đối với phụ nữ thì đòi
hỏi cách cử xử giàu tình cảm hơn, trực giác hơn, tinh
tế hơn một chút so với nam giới.
7


Quan niệm truyền thống về nam tính và nữ tính khá tương đồng giữa
các quốc gia. Với những tính cách mà cha mẹ mong đợi ở con cái của mình,
trẻ em từ nhỏ cũng được học những cái mà người khác mong chờ ở chúng.
Nếu làm khác đi, ví dụ một trẻ gái ăn mặc giống con trai, nói to chỗ đông
người thì trẻ em gái đó có thể bị cho là nuổi loạn hoặc ví dụ: một trẻ nam
nào đó ăn nói nhẹ nhàng dáng vẻ gầy gò yếu ớt thì có thể bị coi là “thiếu
sinh khí”. Rõ ràng là định kiến giới đã bao trùm và có ảnh hưởng to lớn đến
quá trình xã hội hoá giới và hiện tượng này vẫn còn đang rất phổ biến trong
xã hội đương đại.

4.2. Ảnh hưởng của nam tính và nữ tính trong quan hệ xã hội.
Qua lăng kính của xã hội học về đặc điểm nam tính và nữ tính cho
thấy đó là những đặc tính đối lập nhau của nữ tính-nam tính. Trong xã hội
hiện đại quan niệm truyền thống về nam tính và nữ tính vẫn còn tồn tại, tuy
nhiên có sự pha trộn mạnh mẽ giữa cái cũ và cái mới.

* Nam tính và nữ tính trong giáo dục gia đình:
Trong nhiều yếu tố khác nhau: giáo dục, văn hoá - xã hội, luật pháp,
truyền thông, đối xử trong gia đình, cộng đồng.v.v. thì yếu tố giáo dục gia
đình có sự ảnh hưởng sớm nhất, trực tiếp, liên tục nhất và tác động một cách
có ý thức đến nam giới và nữ giới. Bởi gia đình luôn đóng vai trò quan trọng
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của một con người. ở đó,
những quan niệm, niềm tin, giá trị văn hoá, định kiến giới, khuôn mẫu hành
vi... được chuyển tải từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Giáo dục của ông bà, cha mẹ, anh chị xuất phát từ mong muốn con
cháu mình biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, từ tốn, lễ phép, vâng lời người
lớn, thưa gửi, cảm ơn, xin lỗi, không nói tục, chửi bậy, không nói dối, biết
trung thực, tự giác học tập. Đây là những điều dạy bảo chung của ông bà,
cha mẹ đối với tất cả con cháu, mong muốn con cháu trở thành người tốt, có
ích cho xã hội. Tuy nhiên trong việc giáo dục trẻ, giáo dục gia đình luôn tuân
8


theo những khuôn mẫu quy định đối với từng giới. Chẳng hạn với trẻ trai, bố
mẹ thường dạy trẻ sống phải có bản lĩnh, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
can đảm, độc lập và có chính kiến trong công việc, luôn chứng tỏ mình là
người đàn ông trong mọi nơi, mọi lúc. Đối với trẻ gái phải dịu dàng, kín đáo,
nhẹ dàng, trong giao tiếp, ăn nói, xưng hô lễ phép, người lớn bảo phải biết
nghe lời và làm đúng những gì người lớn bảo.
Rõ ràng, ảnh hưởng của nếp nghĩ truyền thống về người đàn ông phải
mạnh mẽ (liên quan đến việc chỉ huy, ra lệnh), người đàn bà phải dịu dàng,
đảm đang (liên quan đến việc vâng lời) có sức sống dai dẳng, bền bỉ, bám
chặt vào tư tưởng của các bậc cha mẹ. Sự quy gán cho con trai và con gái
những phẩm chất nhân cách mang đặc trưng của mỗi giới có ý nghĩa củng cố
sự ổn định, nhưng hạn chế sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, hạn chế
vai trò của nam giới trong việc chăm sóc gia đình, vai trò của nữ giới trong

hoạt động xã hội.
Thực tiễn cho thấy, trẻ phải chịu áp lực rất lớn từ những quan niệm
trên. Các em phải tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những khuôn
mẫu cụ thể của mỗi giới. Quan sát trẻ chơi đồ chơi, chúng ta thấy nếu bé trai
ôm búp bê sẽ bị chế giễu là "con gái", là "uỷ mị", bé gái chơi súng ống sẽ bị
cha mẹ cấm. Nếu chúng đi "lộn sân" sẽ bị chê cười.
Định kiến giới trong việc giáo dục con cái của cha mẹ thể hiện rất
sớm. Chẳng hạn trong việc việc mua đồ chơi cho trẻ. Thông thường các bậc
cha mẹ mua đồ chơi gì cho trẻ? Từ quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy cha
mẹ mua búp bê, đồ hàng cho con gái, mua đồ lắp ráp cơ khí như máy bay,
tàu hoả, ô tô cho con trai. Đồ chơi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ. Những hoạt động của trẻ với đồ chơi
không chỉ góp phần kích thích tính sáng tạo, giúp trẻ phát triển trí tuệ, khả
năng tư duy linh hoạt, nhậy bén, giúp trẻ tiếp cận và làm quen với thế giới
xung quanh, trẻ dễ dàng hoà nhập vào cuộc sống. ẩn chứa đằng sau những
đồ chơi mà cha mẹ mua cho trẻ là những mong muốn hình thành ở con mình
những tính cách, những năng lực đặc trưng cho mỗi giới.
9


Đối với trẻ gái những đồ chơi như búp bê, đồ hàng, sẽ giúp trẻ hình
thành tính dịu dàng. Các đồ chơi này cũng tạo điều kiện cho trẻ làm quen với
công việc nội trợ, chăm sóc và nuôi dạy con cái sau này. Bằng việc mua cho
trẻ gái những đồ chơi này bố mẹ đã vô hình chung quy định ngầm cho trẻ
gái những phẩm chất, năng lực mà một người phụ nữ phải có, những công
việc mà phụ nữ phải làm trong tương lai. Những đồ chơi mua cho trẻ trai
như ô tô, tàu hoả, đồ lắp ráp cơ khí... hình thành ở trẻ trai tính mạnh mẽ, can
đảm. Nhờ trải nghiệm trong khi chơi với đồ chơi, tạo cho cho trẻ sự say mê,
hứng thú, vun đắp cho trẻ những ước mơ trở thành phi công, kỹ sư cơ khí,
xây dựng, những cầu thủ bóng đá. Mang ý nghĩa hướng nghiệp rất lớn với

trẻ trai, trong khí đó, đồ chơi của trẻ gái ít có những định hướng nghề nghiệp
như vậy.
Xem xét cơ hội tiếp cận với nguồn lực giáo dục, chúng ta thấy có sự
đầu tư khác nhau giữa trẻ trai và trẻ gái của các bậc cha mẹ. Các gia đình có
sự thiên vị nhiều hơn đối với trẻ trai trong việc đầu tư giáo dục con cái. Điều
này xuất phát từ định kiến giới là con trai có năng lực lao động và cơ hội
thành đạt cao hơn so với con gái. ở nông thôn còn có quan niệm cho rằng
con gái phải sớm lập gia đình, tránh nhỡ thì, con gái là con người ta, từ đó
mà các bậc cha mẹ ít đầu tư cho con gái học lên cao. Mặt khác, con gái có ít
thời gian rỗi học bài ở nhà hơn so với trẻ trai. Trẻ gái phải phụ giúp cha mẹ
việc gia đình, các em phải hoàn tất công việc gia đình mới nghĩ đến việc học
tập.
Ngoài những phẩm chất tâm lý, nhân cách chung các cha mẹ mong
muốn hình thành ở con cái mình, họ còn mong muốn con cái của mình trở
thành những người có phâm chất tâm lý, nhân cách đặc trưng của giới nam
hoặc giới nữ. Những mong muốn này chịu ảnh hưởng nhiều từ những định
kiến, những khuôn mẫu về mỗi giới. Những mong muốn này còn tạo ra sự
khác nhau trong hành vi đối xử của họ đối với trẻ trai hoặc trẻ gái.
Tuy nhiên, trong nhiều gia đình hiện đại các bậc cha mẹ cũng không
có quan niệm phân biệt rạch ròi giữa nam tính và nữ tính.
10


VD: Trẻ em gái cũng theo học những lớp
học võ thuật....với mong muốn của cha mẹ là
ngoài vẻ nữ tính thì con mình cũng có chút mạnh
mẽ như nam tính để không bị người khác bắc nạt.
Ngược lại, trẻ em trai cũng được theo học các lớp
học đàn, học hát, học múa. Thời trang nam-nữ
cũng không có sự phân biệt rạch ròi, xoá dần

khoảng cách giữa nam tính và nữ tính bắt nhịp
theo xu hướng của thời đại…
Xu hướng giao thoa bản sắc giới, theo đó nam giới có thêm một số
đặc điểm của nữ tính và phụ nữ có thêm một vài đặc điểm của nam tính, xét
về nhiều phương diện, là có lợi ích cho cá nhân và gia đình, cộng đồng và
xã hội.
* Nam tính và nữ tính trong phân công lao động.
Từ xa xưa trong quan niệm truyền thống của người Á Đông
cũng như trong quan niệm xã hội của người việt nam đã luôn hình thành nên
những khuân mẫu, giá trị khác nhau cho Nam giới và nữ giới; những khuân
mẫu đó được coi nhữ là những chuẩn mực bắt buộc người người đàn ông và
phụ nữ sống trong xã hội đó phải tuân theo. Nhưng trong xã hội hiện đại
những đặc tính tương phản trong xã hội truyền thống dần dần thay đổi và có
sự giao thoa về bản sắc giới trong phân công lao động.
Khi nói đến nam giới (nam tính) thường nói đến các đặc điểm, giá trị
như: “Vai năm thước rộng, thân mười thước cao”, mạnh mẽ, can đảm, quyết
đoán… còn phụ nữ phải nữ tính: dịu dàng, nhạy cảm, xinh đẹp …v.v. từ các
đặc điểm, giá trị chuẩn mực đó mà xã hội quy định cho nam giới và nữ giới
các vai trò khác nhau. ví dụ nam làm các công việc nặng như bốc vác, lãnh
đạo ..v.v trong khi đó phụ nữ thường làm các công việc có tính kỹ thuật đòi
hỏi khéo léo như: may mặc, thêu thùa, giáo viên …v.v đây cùng một xu thế
trong phân công lao động ngày nay.

11


Phụ nữ chịu trách nhiệm nấu nướng, nam giới chăn nuôi gia súc là
một ví dụ về phân công lao động đã trở thành tiêu chuẩn trong nhiều xã hội.
Những nhiệm vụ khác nhau giữa “việc của đàn ông” và “việc của phụ nữ”
ấy được gọi là “các vai trò giới”. Người ta mong đợi các cô gái thực hiện các

vai trò giới như lau dọn nhà cửa, còn các chàng trai thì thực hiện các vai trò
giới như chữa ô tô hay trông coi đàn gia súc.
Trong xã hội hiện tại, không có quy định nào phân biệt rạch ròi giữa
nam và nữ, tuỳ theo những đặc điểm nhân khẩu học xã hội của người đó như
thế nào (học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo, độ tuổi) và tuỳ theo hoàn cảnh môi
trường xã hội mà mỗi cá nhân có vai trò khác nhau trong công việc. Người
ta cũng thường phân biệt giữa các vai trò “sản xuất” và “tái sản xuất”. Công
việc “sản xuất” là nói đến việc bên ngoài gia đình và đóng góp vào nền kinh
tế; công việc “tái sản xuất” là nói đến nói đến những việc giúp con người ta
trưởng thành và từ đó tham gia đóng góp vào nền kinh tế. Nó không chỉ nói
đến việc nuôi con, mà còn có cả những công việc hàng ngay như nấu ăn, don
dẹp, là quần áo và tất cả những việc tương tự để tạo điều cho một người có
thể hàng ngày ra khỏi nhà làm các công việc sản xuất. Trong khi ngày càng
nhiều phụ nữ tham gia công việc sản xuất giống như nam giới thì đồng thời
họ vấn phải thực hiện các công việc tái sản xuất (vai trò kép của phụ nữ)
Sự phân công lao động theo các vai trò giới không chỉ thể hiện những
khác biệt giữa công việc mà xã hội mong đợi ở người nam và người nữ. Nó
còn là những quan niệm xã hội về giá trị của các vai trò mà người nam và
người nữ đảm nhiệm.
Sự phân công lao động giữa nam và nữ trong phần lớn các xã hội
thường là không công bằng; vai trò giới không được đánh giá một cách công
bằng mong đợi xã hội về nam giới (nam tính) nữ giới (nữ tính) là khác nhau.
Vai trò của đàn ông được coi là quan trọng hơn vai trò của phụ nữ. điều này
được phản ảnh ở chỗ rất nhiều công việc của phụ nữ không được trả lương
cao và thậm chí là ở cùng nơi làm việc thì những phụ nữ làm có xu hướng bị

12


trả lương thấp hơn so với nam giới. Vai trò giới chính là một phần của giá trị

văn hoá chung và vì thế là một khía cạnh của quan niệm giới.
Thời gian làm việc kéo dài của người phụ nữ và việc thiếu nhìn nhận
về giá trị của những công việc họ làm có thể làm suy kiệt cả sức khoẻ thể
chất và tinh thần của người phụ nữ. Như vậy có thể thấy sự phân công lao
động giữa nam và nữ trong phần lớn các nền văn hoá là không bình đẳng,
Trong xã hội, đôi lúc sự “cộng hưởng” một vài nét giữa nam tính và
nữ tính là cần thiết cho đời sống và công việc: trong giao dịch hay trong một
cuộc thương thảo, nếu nam giới cứ theo đuổi sự cứng rắn, kiên định (là
phẩm chất của nam tính) thì rất có thể sẽ thất bại trong công việc, ngược lại
nếu có được một chút mềm mỏng, nhẹ nhàng khéo léo (phẩm chất của nữ
tính) thì kết quả sẽ khả quan hơn. Đồng thời phụ nữ ngoài những phẩm chất
nữ tính cần thiết thì đôi khi trong công việc và cuộc sống cũng cần có sự
cứng rắn, quyết đoán, những người phụ nữ như vậy thường gặt hái những
thành công trong gia đình và sự nghiệp.

13


KẾT LUẬN
Những quan điểm truyền thống về nam tính-nữ tính là sự thể hiện của
bản sắc giới cùng các thành tố tạo nên bản sắc giới. Điều này tác động đến
nhận thức của cá nhân về các phẩm chất cần có của phụ nữ và nam giới. Sự
biến đổi của bản sắc giới không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả tác động
của rất nhiều yếu tố khác nhau: giáo dục, văn hoá - xã hội, luật pháp, truyền
thông, đối xử trong gia đình, cộng đồng.v.v. Nó là có là sản phần của việc
giáo dục cùng như những khuân mẫu xã hội hay những mong đợi của xã hội
về tính cách, vai trò của nam giới và nữ giới; ngày nay những khuôn mẫu
quan điểm này vẫn từng ngày từng giờ ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi
chúng ta nó là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới
trong phân công lao động và là rào cản của cả 2 giới (nam giới và nữ giới)

trong các quan hệ xã hội. Quá trình xã hội hoá vai trò giới từ khi còn trẻ thơ đến
lúc trưởng thành với môi trường xã hội không chỉ giúp cho việc hiểu được vì sao
khuôn mẫu giới lại tác động mạnh đến mỗi cá nhân, mà còn giúp chúng ta hiểu
thêm quá trình xã hội hoá con người nói chung với các mức độ thành công khác
nhau.

14


TAÌ LIỆU THAM KHẢO

1.

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995) : Báo cáo quốc gia của
Chính phủ Cộng hoà XHCN Việt Nam về phát triển xã hội, Hà Nội.

2.

Phạm Tất Dong-Lê Ngọc Hùng, Xã hội học, NXB NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội.

3.

Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình xã hội học về giới, NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội.

4.

Lê Thị Quý, Giáo trình xã hội học giới, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội.


5.

Hoàng Bá Thịnh,Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trên thềm thế kỷ
XXI, NXB Thế Giới, Hà Nội, 2005.

6.

Trần Thị Minh Đức : Định kiến và phân biệt đối xử theo giới –Lý
thuyết và Thực tiễn, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.

15



×