Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

“QUÂN - THẦN, PHỤ - TỬ” VÀ QUAN NIỆM ĐẲNG CẤP CỦA NGƯỜI TRUNG HOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.92 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUNG HOA VÀ TƯ TƯỞNG NHO GIA
1.1 Sơ lược lịch sử nền văn hóa, văn minh Trung Hoa.......................................3
1.1.1 Thời kỳ tiền sử............................................................................................3
1.1.2. Thời cổ đại.................................................................................................3
1.1.3. Thời trung đại (thời phong kiến tập quyền)...............................................3
1.2. Tư tưởng Nho gia.........................................................................................4
1.2.1. Tư tưởng chính trị, đạo đức xã hội............................................................4
1.2.2. Tư tưởng giáo dục.....................................................................................5
Chương 2 “QUÂN - THẦN, PHỤ - TỬ” VÀ QUAN NIỆM ĐẲNG CẤP CỦA
NGƯỜI TRUNG HOA
2.1. Quan niệm “quân - thần, phụ - tử”..............................................................6
2.2. Quan niệm đẳng cấp của người Trung Quốc..............................................9
2.2.1. Sự phân biệt giữa “quân tử” với “ tiểu nhân” trong xã hội.......................9
2.2.2. Tư tưởng gia trưởng trong gia đình ..........................................................12
Chương 3 ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG ĐẾN VĂN HÓA
VIỆT NAM
3.1. Gia trưởng.....................................................................................................16
3.2. Gia đình gia trưởng.......................................................................................17
3.3. Cách xưng hô trong gia đình gia trưởng.......................................................18
KẾT LUẬN.........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Trung Hoa có ảnh hưởng rất lớn đến các nước phương Đông
cũng như trên thế giới. Một nền văn minh vô cùng rực rỡ về nhiều mặt bao gồm


chữ viết, văn học, sử học, khoa học tự nhiên… cùng với đó là những phát minh lớn
và có tiếng vang ảnh hưởng đến cả thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, nghề
in, la bàn và thuốc nổ.
Với bề dày lịch sử hơn 5000 năm, trong đó 2300 năm là chế độ phong kiến
với những quy định nghiêm ngặt về lễ giáo, quy phạm, kỉ cương từ gia đình cho
đến xã hội Trung Hoa. Hàng ngàn năm các triều đại phong kiến cho rằng con người
trong xã hội có vai trò về thứ bậc rõ ràng đây cũng được coi như là chuẩn mực
đánh giá đạo đức con người. Đặc biệt là từ khi Nho giáo ra đời quan niệm thứ bậc,
vai trò của con người trong mối quan hệ “quân - thần, phụ - tử” càng được quan
tâm hơn và được coi như là quy tắc ứng xử của con người. Chính vì thế mà trong
thời gian dài Nho giáo trở thành quốc giáo tại Trung Hoa, góp phần vào việc cai trị
bộ máy nhà nước phong kiến. Sự phân biệt đẳng cấp trong chế độ phong kiến
Trung Hoa cũng ăn vào nếp nghĩ, lối sống của người dân. Những quan niệm và tư
tưởng đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến con người Việt Nam vì hơn ngàn năm bị đô
hộ bởi người phương Bắc.
Nghiên cứu đề tài “quân - thần, phụ - tử”và quan niệm đẳng cấp của người
Trung Hoa để hiểu rõ hơn cách cai trị và đối xử trong xã hội Trung Hoa thời cổ
trung đại, từ đó xem xét mức độ ảnh hưởng đến con người Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài này bao gồm những quan niệm về “quân - thần, phụ - tử”,
sự quan niệm về đẳng cấp trong xã hội Trung Hoa cổ trung đại về tư tưởng chính
trị, đạo đức, xã hội
Phạm vi của đề tài này là những giá trị về mặt tư tưởng của nền văn minh
Trung Hoa đặc biệt là thời cổ trung đại. Những tài liệu liên quan đến các quan niệm
về “quân - thần, phụ - tử”, sự quan niệm về đẳng cấp cũng nằm trong phạm vi của
đề tài này.
3. Phương pháp nghiên cứu
2



“quân - thần, phụ - tử”và quan niệm đẳng cấp của người Trung Hoa là đề tài
mang tính tổng hợp, chuyên sâu về tư tưởng và quan niệm trong xã hội Trung Hoa
cổ trung đại để có được kết quả đầy đủ, toàn diện, chúng tôi đã sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp để nghiên cứu đề tài này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sau khi tìm đọc những tài liệu, thông tin
liên quan đến tư tưởng chính trị, đạo đức, xã hội liên quan đến các quan niệm về
“quân - thần, phụ - tử”, sự quan niệm về đẳng cấp, tôi đã sử dụng phương pháp này
để phân tích chi tiết những tài liệu đó, sau đó tổng hợp chúng lại nhằm phân biệt và
rút ra những những quan niệm về “quân - thần, phụ - tử” và sự phân biệt đẳng cấp
trong xã hội.
Bên cạnh đó chúng tôi còn sử dụng phương pháp lịch sử, lôgic, phương pháp
liên ngành, so sánh đối chiếu nhằm hiểu rõ về tiến trình lịch sử Trung Hoa.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước đây có rất nhiều bài nghiên cứu bàn về các quan niệm quân thần, phụ tử
cũng như các quan niệm về đẳng cấp trong xã hội Trung Hoa, có một số bài nghiên
cứu ở dạng manh mún, nhỏ lẻ, chưa có tính hệ thống hoàn chỉnh về mặt tổng thể,
trong đó có bài nghiên cứu về Quân tử và tiểu nhân trong Luận ngữ của Trần Đình
Thảo năm 2009. Bài viết trình bày và phân tích sự phân loại con người theo tiêu
chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân của Nho giáo, chủ yếu là trên cơ sở quan
niệm của Khổng Tử về quân tử và tiểu nhân trong Luận ngữ. Tác giả chỉ ra ba điểm
khác nhau cơ bản giữa hai loại người này: một là, trên phương diện làm theo đạo
“Trung dung”; hai là, trên phương diện nhận thức về nghĩa và lợi; và ba là, trên
phương diện thực hành đạo đức. Từ đó, bài viết chỉ ra ý nghĩa sâu xa của việc Nho
giáo so sánh hai loại người này và mục đích giáo dục của Nho giáo.
5. Bố cục
Đề tài được làm hai chương để thuận tiện trong việc nghiên cứu:
Chương 1: Sơ lược lịch sử Trung Hoa và tư tưởng Nho gia
Chương 2: “Quân - thần, phụ - tử” và quan niệm đẳng cấp của người Trung Hoa
Chương 3: Ảnh hưởng của chế độ gia trưởng đến văn hóa Việt Nam


3


Chương 1
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUNG HOA VÀ TƯ TƯỞNG NHO GIA
1.1 Sơ lược lịch sử nền văn hóa, văn minh Trung Hoa
1.1.1 Thời kỳ tiền sử
Bắt đầu từ thiên niên kỉ X đến thiên niên kỉ II TCN Xã hội nguyên thủy Trung
Hoa đã hình thành và phát triển trên chặng đường tiến hóa tới các xã hội văn minh.
1.1.2. Thời cổ đại
Nhà Hạ: Triều đại mở đầu thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Kinh tế chưa
phát triển, các tri thức mới ở giai đoạn phôi thai. Lúc cường thịnh nhà Hạ đã thống
trị cả một vùng đất rộng lớn ở vùng trung lưu sông Hoàng Hà. Mặc dù vậy tổ chức
thiết chế xã hội của triều Hạ là một bước tiến lớn, là một tiêu chí để đánh dấu xã
hội Trung Hoa đã vượt qua giai đoạn “dã man” sang giai đoạn văn minh.
Nhà Thương: Nhà nước trung ương tập quyền được tổ chức chặt chẽ, vua
được đề cao, các vua Thương mở rộng lãnh thổ bằng cách chinh phục các bộ lạc
xung quanh. Kinh tế, văn hóa bắt đầu phát triển. Xã hội có sự phân hóa rõ rệt.
Nhà Chu: chia làm 2 giai đoạn: Tây Chu và Đông Chu. Thời Tây Chu đạt đến
sự phát triển lớn, nhà nước được tổ chức chặt chẽ. Vua được gọi là Thiên Tử. Vua
nhà Chu phong đất cho con em và công thần để họ thành lập nước chư hầu cai trị
dân khắp nơi. Còn nhìn chung thì thời Đông Chu, Trung Hoa suy yếu, xã hội rối
loạn, các quan hệ xã hội bị đảo lộn. Nhưng cũng chính thời kỳ này văn hóa tư
tưởng đạt được những thành tựu rực rỡ, nổi lên 6 học thuyết: Đạo gia, Pháp gia,
Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Âm dương gia.
1.1.3. Thời trung đại (thời phong kiến tập quyền)
Đây là giai đoạn văn minh Trung Hoa có những đóng góp quan trọng cho nền
văn minh nhân loại bởi những thành tựu rực rỡ như học thuyết Tống Nho, la bàn,
thuốc súng, thơ Đường, Vạn Lý Trường Thành,…Bắt đầu từ triều đại Minh, Thanh,
Trung Hoa suy yếu do phương Tây xâm lược. Văn minh Trung Hoa trong thời kỳ

này không còn đạt được những thành tựu và bước ngoặt lớn như trước nữa.

4


1.2. Tư tưởng Nho giáo
Lĩnh vực tư tưởng của Trung Hoa rất phong phú, đạt thành tựu rất cao, trong
đó quan trọng nhất là các phái, các nhà: Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia. Và
trong 4 nhà này thì nổi bật nhất là hệ tư tưởng Nho gia, Nho giáo. Nho gia xuất
hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử
(551 - 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử
hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó
dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung
Hoa và một số nước lân cận. Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận
ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân
Thu). Các kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung
Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là
những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư
tưởng chủ yếu sau:
1.2.1. Tư tưởng chính trị, đạo đức xã hội
Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của
xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là
Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu
xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều
này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Lý tưởng về một thế giới Đại Đồng, đó là thế giới không còn cảnh rối loạn,
loạn ly do con người đối xử với nhau không ra gì. Từ đó Khổng Tử hướng tới một
xã hội lý tưởng (ảo tưởng): thiên hạ như gia đình, mọi người coi nhau như anh em,
cùng hưởng thụ các quyền lợi và có trách nhiệm với nhau. Từ lý tưởng chính trị
Đại Đồng, Khổng Tử đã đề cập đến vấn đề công bằng xã hội.

Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã hội.
Bởi ông cho rằng xã hội rối loạn là do con người đối xử với nhau chẳng ra gì, vì
vậy cần phải xây dựng lại lễ nghi và lòng người. Từ đây học thuyết của Khổng Tử
được coi là học thuyết về Nhân và Lễ. Tín đồ của Khổng Tử vốn đặt việc tu dưỡng
đạo đức lên trên hết, theo đúng lời dạy “kẻ quân tử lo Đạo chứ không lo nghèo

5


đói”, tu dưỡng không chỉ là để cho mình có đạo đức mà còn nhằm mục đích là trị
dân tạo ra xã hội lễ nhượng và bình trị.
Khổng Tử chủ trương dùng đức trị và lễ giáo một mặt nhằm ổn định trật tự
xã hội, thuần hóa dân chúng mặt khác cũng nhằm phản đối nền chính sự hà khắc,
tàn bạo dễ làm dân chúng oán giận và nổi lên chống lại. Giữa vua tôi, cha con,
người trên kẻ dưới, Khổng Tử nhấn mạnh mối quan hệ 2 chiều. Có nghĩa là vua
phải làm tròn phận sự của vua, bề tôi phải làm tròn phận sự của bề tôi, cha phải làm
tròn phận sự của cha, con phải làm tròn phận sự của con (quân quân, thần thần, phụ
phụ, tử tử).
1.2.2. Tư tưởng giáo dục
Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại
đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục
của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá
trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân
Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng: là người đầu tiên sáng lập ra chế
độ giáo dục tư thục ở Trung Hoa và đào tạo nhiều thế hệ học trò (3000 người),
trong đó có 72 người nổi tiếng tham gia trong tất cả lĩnh vực. Có 4 người xuất sắc:
Mạnh Tử, Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư. Ông đưa ra quan niệm giáo dục rất tiến
bộ: con người ai cũng có thể qua học tập mà trở thành tốt và đề ra phương pháp
giáo dục gợi mở rất tiến bộ: dẫn dắt học trò từng bước một từ đó hiểu vấn đề bằng

cách suy nghĩ của mình. Coi trọng việc tiến hành giáo dục hóa tư tưởng cho thứ
dân. Khổng Tử cho rằng giáo dục bao giờ cũng có ích; tiểu nhân học đạo tắc dị sử
dã (người dân thường được học hành thì dễ sai khiến), lao nhi bất oán (có ích cho
việc tiến hành lao động sản xuất). Khổng Tử hết sức đề cao việc học tập có thể coi
đó là một di sản tư tưởng quý báu của ông để lại cho đời sau. Theo ông làm Vua
quan cũng phải học, làm ruộng vườn cũng phải học chứ không thể dựa vào cảm
tính và lòng nhiệt thành.
Đến thời chiến quốc học thuyết của Khổng Tử được học trò của mình là Mạnh
Tử tiếp thu đầy đủ, bổ sung và phát triển.

6


Chương 2
“QUÂN - THẦN, PHỤ - TỬ” VÀ QUAN NIỆM ĐẲNG CẤP
CỦA NGƯỜI TRUNG HOA
2.1. Quan niệm “quân - thần, phụ - tử”
Trung Hoa là một nước có nền văn hóa văn minh lâu đời. Từ xa xưa đã có rất
nhiều bậc vĩ nhân đi vào lịch sử nhân loại. Cùng với những thành tựu đạt được
trong quá trình phát triển đất nước phong kiến cổ trung đại Trung Hoa đã để lại cho
người đời sau hàng trăm, hàng ngàn bộ sách “kinh điển”, những tư tưởng mang tầm
ảnh hưởng lớn đối với các nước trên thế giới. Một trong những quan niệm mang
tính phổ biến cao ở hầu hết các triều đại Trung Hoa phong kiến là quan niệm “quân
- thần, phụ - tử”.
Ở Trung Hoa từ thời Hạ đến cuộc Cách Mạng Tân Hợi năm 1991 bộ máy nhà
nước được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế. Nhân vật đứng đầu bộ máy
nhà nước và đứng đầu giai cấp thống trị là Vua. Vua từ đời Hạ đến đời Thương gọi
là “đế”, đời Chu gọi là “Vương” còn gọi là “Thiên Tử”. Đến thời trung đại Vua tự
xưng mình là “Trẫm” lấy tên gọi là Hoàng đế hay Thiên Tử. Về mặt chính trị, uy
quyền của Vua rất lớn. Vua có toàn quyền quyết định mọi việc “lễ nhạc chinh phạt

đều từ Thiên Tử mà ra”. Vua nắm quyền đứng đầu mọi người, ý của Vua là ý của
trời, là ý của pháp lệnh. Làm việc cho Vua có các quan lại triều đình chia theo các
cấp, theo địa phương tùy từng thời kỳ lịch sử. Quan lại chính là thần, nếu xét rộng
hơn thì dân chúng cũng là thần dân của Vua phải tuân lệnh Vua.
Khi nói tới quyền hành của ông Vua trong xã hội cổ truyền ở Á Đông, người
ta thường nhắc đến quan niệm Tam Cương. Học về Nho giáo, ai cũng nghe nói đến
Tam Cương và Ngũ Thường. Tam Cương tức là ba giềng mối chính tạo ra xã hội
loài người. Tam Cương gồm có quân thần (Vua và bề tôi), phụ tử (cha và con), phu
phụ (chồng và vợ). Người ta thường giải thích rằng khi đề cao Tam Cương (cùng
với Ngũ Thường), Nho giáo đã chủ trương người làm Vua, làm Cha và làm Chồng
có quyền hành tuyệt đối.
Quan niệm “quân - thần, phụ - tử” lúc đầu xuất phát từ trong tư tưởng của
Khổng Tử về sau được Mạnh Tử hết sức ủng hộ. Nói về Khổng Tử ông là một nhà
nho nổi tiếng của Trung Hoa, Khổng Tử là người đầu tiên đặt dấu mốc cho sự ra

7


đời của Nho gia Trung Hoa. Trong sách Luận Ngữ ông có nói “nếu danh không
chính thì lời nói sẽ không đúng đắn. Lời nói không đúng đắn sẽ dẫn tới việc thi
hành sai. Khi đó người với người trong xã hội sẽ không còn kính trọng nhau, không
còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trông cậy nhờ vả”. Đó
chính là quan niệm trong học thuyết “chính danh” của Khổng Tử. Từ quan niệm
“chính danh” đó Khổng Tử chủ trương chia xã hội làm thành những mối quan hệ.
Trong Nho giáo xác định năm mối quan hệ chính đó là “quân thần, phụ tử, phu
phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Mặc dù nói đến cả năm mối quan hệ trong thuyết “chính
danh” nhưng Khổng Tử đã nhấn mạnh và đặt nặng nhiều hơn mối quan hệ “quân
thần” và “phụ tử”. Hầu hết các nhà nho đều thừa nhận rằng học thuyết “chính
danh” là một phát kiến mới của Khổng Tử do chính người quan sát thấy được tình
trạng lộn xộn, mất tôn ti, trật tự, trên không ra trên, dưới không ra dưới, Vua không

ra Vua, tôi không ra tôi.
Đối với quan hệ Vua tôi “quân thần” Khổng Tử chống việc ngôi Vua duy trì
theo huyết thống, dòng tộc. Ông cho rằng người cầm quyền phải có đức tài mà
không cần tính đến đẳng cấp, xuất thân của người ấy (Luận Ngữ) thần dân đối với
Vua phải như đối với cha mẹ mình. Khổng Tử không chủ trương ngu trung, ngu
hiếu không bắt buộc con người phải phục tùng bề trên vô điều kiện như nội dung
“trung dung” của Nho giáo sau này, đối với Khổng Tử trong xã hội chính danh là
quan hệ hai chiều: Quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu… mà
công cụ để thực hiện mối quan hệ hai chiều này là đạo đức xã hội. Giữa Vua tôi,
cha con, người trên kẻ dưới, Khổng Tử nhấn mạnh mối quan hệ hai chiều. Cảnh
Công người nước Tề hỏi Khổng Tử về chính trị Khổng Tử nói: “Vua phải làm tròn
phận sự của Vua, bề tôi phải làm tròn phận sự của bề tôi, cha phải làm tròn phận
sự của cha, con phải làm tròn phận sự của con”. Trước câu trả lời đó Tề Công hỏi
một câu chí lý “nếu Vua không làm tròn phận sự của Vua, bề tôi không làm tròn
phận sự của bề tôi, cha không làm tròn phận sự của cha, con không làm tròn phận
sự của con, thì dù có thóc lúa đấy liệu ta có giữ được mà ăn hay không” ( Luận
Ngữ Nhan Uyên).
Trong quan hệ Vua tôi (quân thần) Mạnh Tử học trò của Tử Tư (cháu nội
Khổng Tử) cũng nhấn mạnh mối quan hệ hai chiều và phần nào đi xa hơn tư tưởng
“trung thành với Vua, tôn thờ quân vương” (trung quân, tôn vương) của Khổng Tử.

8


Trong thực tế các triều đại phong kiến, các Vua chúa không hoàn toàn thực
hiện được những gì ghi trong Luận Ngữ nhưng cái quan niệm “quân - thần, phụ tử” vẫn đè nặng lên tâm lý và tư tưởng của mọi người dân Trung Hoa dù ở bất cứ
thời đại nào đi nữa. Trong thời đại của chế độ phong kiến dưới thời những vị Vua
hoang dâm vô độ như Trụ Vương tư tưởng ấy vẫn đè nặng lên xã hội đến nỗi khi Tề
Nguyên Vương hỏi Mạnh Tử những tên Vua như Trụ Vương bị thần dân lật đổ “bề
tôi giết Vua như vậy có được không” thì Mạnh Tử trả lời rằng: “làm hại điều nhân

thì gọi là quân giặc cướp làm hại điều nghĩa thì gọi là kẻ tàn bạo những quân giặc
cướp, những kẻ tàn bạo chỉ đáng gọi là tên này tên nọ. Vì vậy tôi chỉ nghe nói giết
tên Trụ chứ chưa hề nghe nói giết Vua Trụ bao giờ”. Mạnh Tử là người rất nhiệt
tình với việc duy trì chế độ đẳng cấp. Ông khẳng định “người lao tâm cai trị”, ông
nhấn mạnh “không có quân tử lấy ai cai trị bọn quê mùa không có bọn quê mùa lấy
ai phụng dưỡng bậc quân tử”.
Trong cái xã hội mà tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí độc tôn, một mặt nó nâng
tầm của chế độ phong kiến lên cao mặt khác nó còn đẩy mạnh cho tư tưởng “quân thần, phụ - tử” được thực hiện một cách triệt để nhất.
Trong mối quan hệ cha con (phụ tử) con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ,
đúng nề nếp theo nghĩa gia phong. Con cái phải mưu cầu địa vị để vừa lòng cha
mẹ vinh hiển gia đình, gia tộc. Quan niệm trong xã hội, khi cha mẹ còn thì con cái
không được làm theo ý của mình, “cha mẹ đặt đâu còn ngồi đấy”. Khổng Tử cũng
đề cập đến phạm trù “Hiếu” trong quan hệ cha con, song Tăng Tử và đời sau mới
phát triển và hoàn thiện nội dung này. Khổng Tử chủ yếu nói đến cái tâm để đánh
giá chữ Hiếu. Theo ông, Hiếu của con cái không chỉ là phụng dưỡng người đã sinh
ra mình mà trước hết phải là lòng thành kính, ông cũng đòi hỏi trong quan hệ này
cha phải ra cha, con phải ra con.
Thời phong kiến còn ràng buộc bởi hệ thống giáo dục Nho gia. Chữ Hiếu
được xem trọng và được đề cao hàng đầu: “Bách ác dâm vi thủ, vạn thiện hiếu vi
tiên”.(Trăm cái ác, dâm đứng đầu; vạn cái thiện hiếu đứng trước tiên).
Người con trong gia đình phải tuyệt đối nghe theo cha mẹ. Cha mẹ đặt đâu,
con ngồi đấy: “Áo mặc sao qua khỏi đầu?”, hoặc: “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu”. Hai nhà Khổng, Mạnh và hàng trăm nhà hiền triết khác đã tạo dựng nên một
xã hội phong kiến khá thành công trong công việc giáo dục đạo hiếu. Hầu như hàng
9


ngàn năm, rất ít có vụ án con cãi cha mẹ, hoặc ngược đãi cha mẹ. Nếu có một đứa
con bất hiếu lập tức sẽ bị xã hội đào thải và xét xử rất nghiêm khắc.
Chữ Hiếu được đề cao làm cho sự hiếu kính được thể hiện rộng khắp và có rất

nhiều tấm gương hiếu thảo tạo thành những tên tuổi trong lịch sử. “Mạnh Mẫu dạy
con, Thầy Tăng Tử khóc vì bị cha đánh nhẹ, Thầy Tử Lộ gánh gạo nuôi mẹ, Thập
nhị tứ hiếu...”
Nhưng cũng chính cái mối quan hệ phụ tử nghiêm khắc và đầy tinh thần
phong kiến đã làm cho gia đình không còn là gia đình nữa, cha mẹ dùng cái quan
niệm này bắt buộc con cái phải làm theo mọi điều và mưu cầu những gì cha mẹ
muốn. Xã hội trở nên đầy quy tắc và trách nhiệm giai cấp đứng đầu chế độ phong
kiến đã dùng những luận điểm Nho gia để đưa xã hội vào trật tự và quản lý theo tư
tưởng “quân - thần, phụ - tử”.
2.2. Quan niệm đẳng cấp của người Trung Hoa
Trung Hoa muốn xây dựng một xã hội thái bình, theo pháp luật có tôn ti trật
tự, kẻ trên người dưới cho nên các học thuyết liên tiếp được đưa ra như những mắt
xích không thể tách rời nhau. Và đặc biệt là tư tưởng “ tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Như vậy muốn thiên hạ được thái bình thì phải biết cách cai trị
được đất nước, mà muốn cai trị đất nước tốt thì phải ổn định được trong gia đình và
muốn vậy thì trước hết phải biết tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình. Để phục vụ
cho mục đích “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì Khổng Tử đưa ra thuyết
“chính danh” để “Vua ra Vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” mỗi người đều có
một địa vị trong xã hội và làm tốt địa vị đó của mình. Và cũng từ đây trong xã hội
Trung Hoa lại có sự phân biệt về đẳng cấp. Đẳng cấp được phân biệt từ hai góc độ:
2.2.1. Sự phân biệt giữa “quân tử” với “ tiểu nhân” trong xã hội
Đó là sự phân loại con người theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu
nhân của Nho giáo, chủ yếu là trên cơ sở quan niệm của Khổng Tử về quân tử và
tiểu nhân trong Luận Ngữ. Ba điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại người này: một
là, trên phương diện làm theo đạo “Trung dung”; hai là trên phương diện nhận thức
về nghĩa và lợi; và ba là trên phương diện thực hành đạo đức. Ra đời trong hoàn
cảnh xã hội rối ren, loạn lạc, vô đạo, Nho giáo rất quan tâm đến việc củng cố trật tự
và chế độ đẳng cấp trong xã hội. Ngay từ đầu, nó đã rất coi trọng việc phân loại con

10



người, chỉ ra địa vị, phẩm chất và vai trò của từng hạng người trong xã hội, đặc biệt
là việc nêu bật sự khác nhau giữa chúng. Từ đó, nó vạch ra chính sách cai trị, chính
sách dùng người, giáo dục và đào tạo con người cho phù hợp.
Trong chế độ xã hội lúc đó, do sản xuất còn ở trình độ thấp nên sự phân công
lao động chưa phát triển. Tuy nhiên, Nho giáo đã đưa ra nhiều kiểu phân loại con
người dựa trên những cơ sở và tiêu chuẩn khác nhau, tạo ra những mẫu người khác
nhau để phần nào đáp ứng được những yêu cầu nhất định của xã hội trong từng
mặt, từng lĩnh vực cụ thể. Nho giáo đã đưa ra những mẫu người như: bậc thánh,
bậc thiện nhân, bậc hữu hằng, bậc thứ tri, bậc thành nhân, kẻ sĩ, kẻ cuồng và kẻ
quyến… Nhưng, trong các kiểu phân loại đó, Nho giáo chú trọng nhất đến sự phân
loại theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân, trượng phu và thất phu;
theo tiêu chuẩn chính trị thành hệ thống tước vị xã hội (gồm Vua và hệ thống quan
lại); theo tính chất công việc thành người lao lực và lao tâm. Ngoài ra, Nho giáo
còn có cách phân loại theo năng lực, theo bản tính trời phú và theo sự tự rèn luyện
của con người. Nhưng xét đến cùng, tư tưởng bao trùm vẫn là đề cao sự phân loại
theo tiêu chuẩn đạo đức, vì nó làm rõ được sự đánh giá về con người và khuynh
hướng tư tưởng của họ. Cách phân loại đó khiến cho người ta hướng về người quân
tử, xa lánh kẻ tiểu nhân, hướng con người đến cái thiện và xa lánh cái ác.
Phân loại con người theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu nhân là
cách phân loại đặc trưng nhất, được đề cập đến nhiều nhất trong Luận Ngữ. Người
ta thường nói, đạo Nho là đạo của người quân tử. Bởi vì, Nho giáo bàn rất nhiều về
người quân tử, coi đó là mẫu người lý tưởng, toàn thiện, toàn mỹ nhất. Mọi sự cố
gắng học tập, tu dưỡng đạo đức đều nhằm đạt đến danh hiệu cao quý ấy. Đó cũng
chính là mục đích mà nền giáo dục Nho giáo hướng tới.
Lúc đầu, quân tử được hiểu là người có địa vị tôn quý, còn tiểu nhân là người
dân thường, không có địa vị xã hội. Về sau, nghĩa của từ được dùng rộng ra và theo
những tiêu chuẩn đạo đức là chính, khi đó quân tử được coi là người có đức hạnh
cao quý, còn tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ, thấp kém. Theo nghĩa đó, người

quân tử dẫu bần cùng, khổ sở thì vẫn là người có chí khí. Kẻ tiểu nhân tuy có quyền
cao, chức trọng, cũng vẫn là kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói rằng: “Phan sơ tự, ẩm
thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hỹ. Bất nghĩa nhi phú tha quý,
ư ngã như phù vân” tức là: “Ăn cơm thô, uống nước suông, co cánh tay mà gối
11


đầu, niềm vui cũng có ở trong đó”. Còn bất nghĩa mà được giàu sang thì đối với ta
chỉ như phù vân. Tuy cùng học đạo thánh hiền, nhưng có người là Nho quân tử, có
người lại là Nho tiểu nhân. Nho quân tử là những người học rộng mà có khí tiết,
học đạo thánh hiền mà ăn ở theo bậc thánh hiền. Còn những người học rộng mà
không có khí tiết, không có liêm sỉ, học đạo thánh hiền mà không noi gương các
bậc thánh hiền thì gọi là Nho tiểu nhân. Với ý nghĩa đó, tiểu nhân không phải toàn
là những người không có địa vị xã hội, không có học thức. Những người quyền cao
chức trọng nhưng đạo đức kém cỏi, chí khí hèn nhát, mượn tiếng học đạo thánh
hiền để mưu cầu danh lợi, luôn nói đạo đức nhưng lại làm toàn những chuyện bất
nhân, bất nghĩa thì cũng vẫn chỉ là Nho tiểu nhân mà thôi. Bởi vậy, Khổng Tử
khuyên học trò của mình là Tử Hạ chỉ nên làm nhà Nho quân tử, chứ đừng làm nhà
Nho tiểu nhân.
Sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân không chỉ ở địa vị xã hội, ở học thức,
mà cái chính là ở phẩm chất đạo đức, ở phong cách sống và thái độ ứng xử, ở mục
đích và lý tưởng sống. Trên phương diện này, tính cách của quân tử và tiểu nhân
đối lập nhau hoàn toàn, không thể dung hoà được. Người quân tử luôn tôn cao
phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh. Còn kẻ tiểu nhân trong lúc thái quá hay
trong cơn bất cập thường đánh mất nhân phẩm của mình. Trong Luận Ngữ, Khổng
Tử đã nhiều lần so sánh giữa quân tử với tiểu nhân. Qua sự so sánh đó, có thể rút ra
những điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại người này như sau:
Thứ nhất, quân tử là người luôn chuyên cần học đạo thánh hiền, học rộng hiểu
sâu, tôn trọng đạo “Trung dung”. Còn kẻ tiểu nhân thì luôn đam mê theo vật dục,
trông chờ, nhờ cậy vào người khác và luôn làm trái với đạo “Trung dung”. Theo

Khổng Tử “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân” tức là: Người quân tử
trông cậy ở mình, tiểu nhân trông cậy ở người. Ông coi đó là những điều kiện tiên
quyết của sự thành đạt, nhưng cũng không bỏ qua sự tác động của những yếu tố
khách quan, như "thiên thời, địa lợi, nhân hoà". Trên cơ sở những phẩm chất tốt
đẹp và có chí khí, người quân tử tin tưởng ở bản thân mình, tự mình làm nên sự
nghiệp, “dương danh hiển thân”. Còn kẻ tiểu nhân, do ý chí nhu nhược nên luôn
tìm cách dựa dẫm vào người khác để thoả mãn tham vọng của mình. Người quân tử
do kiên trì, nỗ lực học tập đạo lý nên đức ngày càng cao, hiểu biết đạo lý ngày càng
uyên thâm, hành động ngày càng thuần thục, hợp đạo lý. Nhờ đó, người quân tử lập

12


được công danh, sự nghiệp, đạt được địa vị cao trong xã hội, đảm đương những
công việc chính trị có hiệu quả. Còn kẻ tiểu nhân, vì lười biếng học tập, tu thân nên
không thể tiến bộ được. Kẻ tiểu nhân làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân
trước hết nên không được tín nhiệm, nếu có địa vị thì làm việc không có hiệu quả.
Họ luôn giữ cái tâm của mình ở mức giữa (mức trung), không chao đảo, thiên lệch,
không để cho ngoại cảnh cám dỗ mà sa vào tư dục. Khổng Tử từng ca ngợi đạo
“Trung dung” thật là tuyệt vời. Nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng, đã từ lâu, đạo
ấy ít được người dân thực hiện. Người trí, người hiền thì chê mà chẳng giữ; người
ngu, người thường thì ngán mà chẳng theo.
Thứ hai, quân tử trọng nghĩa, biết phân biệt phải trái một cách khách quan,
công minh, không tư vị. Người quân tử luôn thoải mái, không kiêu căng, hống
hách. Còn kẻ tiểu nhân chỉ coi trọng lợi, có lòng tư vị, không chính trực, nên trong
lòng luôn lo lắng, không thoải mái. Khổng Tử nói rằng: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu
nhân dụ ư lợi” tức là “quân tử hiểu rõ nghĩa, tiểu nhân biết rõ lợi”. Đức “nghĩa” là
một phạm trù đạo đức quan trọng trong đạo Nho, là một yếu tố cấu thành “Ngũ
thường”. Mạnh Tử coi “nghĩa” là con đường to lớn hơn hết trong thiên hạ mà người
quân tử, bậc đại trượng phu phải đi theo. Khổng Tử đánh giá rất cao đức “nghĩa” và

chủ trương “quân tử nghĩa dĩ vi thượng, quân tử hữu dũng, nhi vô nghĩa, vi loạn”
tức là “quân tử lấy nghĩa làm trên hết, quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm
loạn”. Nho giáo không đưa ra một định nghĩa kinh điển nào về “nghĩa”. Tuỳ từng
hoàn cảnh, đối tượng, mà việc giảng giải về “nghĩa” khác nhau. Tựu trung lại, có
thể nói phạm trù “nghĩa” bao gồm những cái cao thượng, chính trực, tốt đẹp và phù
hợp với nhân và lễ. Làm điều “nghĩa” là để thi hành đạo nhân và giữ gìn lễ tiết. Bởi
vậy, “nghĩa” được coi là cái gốc của mọi sự việc, còn người quân tử thì bao giờ
cũng phải lấy “nghĩa” làm cái cốt yếu, cơ sở cho mọi suy nghĩ và hành động.
Đối lập với “nghĩa” là “lợi”. “Lợi” (được hiểu là lợi ích, quyền lợi) thường
gắn liền với tư dục, tham vọng của con người. Nho giáo cho rằng, chỉ có kẻ tiểu
nhân mới tham lợi, vì lợi mà quên cả nhân nghĩa. Khổng Tử so sánh: “quân tử hoài
đức, tiểu nhân hoài thổ; quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ” tức là quân tử nghĩ
đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở; quân tử quan tâm đến phép tắc, tiểu nhân quan
tâm đến ân huệ. Thực chất, cả hai cách xử thế “trọng nghĩa khinh lợi” hay “trọng
lợi, coi thường nghĩa” đều bộc lộ những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý. Vì vậy, một

13


quan điểm đúng đắn là phải biết kết hợp hài hoà giữa “nghĩa” và “lợi”, không thái
quá, cũng không bất cập. Khổng Tử đã cảnh cáo rằng, những người chỉ làm theo
“lợi” thì ắt có nhiều người oán thù. Ông cũng khuyên những người quân tử cầm
quyền phải biết quan tâm đến lợi ích quốc gia, cũng như những lợi ích thiết thân
của mỗi cá nhân.
Thứ ba, quân tử là người có đạo đức, nhân nghĩa và muốn phổ cập đạo đức ấy
trong thiên hạ. Họ có khả năng làm được những việc lớn, biết dùng người hiền tài,
làm việc ngay thẳng, chính trực. Lúc bình thường cũng như trong cơn nguy khốn,
họ luôn giữ vững đạo lý. Còn kẻ tiểu nhân thì không thể giúp người làm việc tốt,
gặp lúc khốn khó thì hay làm việc càn quấy. Khổng Tử nói rằng: Người quân tử mà
phạm điều bất nhân thì có nhưng chưa từng có kẻ tiểu nhân mà làm được điều

nhân. Trong thực tế, con người không phải lúc nào cũng sáng suốt, minh mẫn,
không phạm sai lầm. Bởi vậy, người quân tử có lúc phạm vào điều bất nhân cũng là
dễ hiểu, vì “nhân vô thập toàn”. Còn kẻ tiểu nhân thì không thể làm được điều nhân
đức, vì họ luôn bị cái tư dục chi phối, luôn ghen ghét và đố kỵ, không muốn ai bằng
mình. Do có đức sáng và có lòng nhân, người quân tử muốn làm toả đức sáng trong
thiên hạ. Họ sẵn sàng làm việc tốt và ngăn ngừa việc xấu, giúp mọi người sống
đúng theo đạo “luân thường”. Khổng Tử đã nhận xét rằng: “Người quân tử giúp
người ta làm việc tốt, không giúp người ta làm việc xấu. Còn kẻ tiểu nhân thì trái
lại”. Quân tử là người có tài năng, có thể làm được những công việc lớn. Cái sáng
suốt của nhà cầm quyền là biết dùng người đúng khả năng, đúng công việc. Đối với
người có tài đức - ví như người quân tử - thì nhà cầm quyền không nên giao cho họ
những công việc nhỏ nhặt, vụn vặt, mà nên giao cho họ những công việc quan
trọng. Còn với kẻ tiểu nhân, do tâm lý vụ lợi nên không đảm trách được những
công việc lớn, song có thể làm tốt công việc nhỏ.
Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản về phương diện đạo đức và chính trị
giữa quân tử và tiểu nhân. Đưa ra sự so sánh giữa hai loại người này, mục đích của
Nho giáo là tôn cao địa vị, phẩm cách và vai trò của người quân tử, lấy đó làm mẫu
người lý tưởng nhất. Mặt tích cực của sự phân loại đó là giúp con người hướng đến
cái thiện, đến sự hoàn thiện phẩm giá và nhân cách, đồng thời phê phán và xa lánh
cái xấu, cái ác, cái không hợp với đạo lý con người. Quan niệm này thể hiện rõ đạo
làm người của Nho giáo. Sự phân loại con người theo những tiêu chuẩn đạo đức

14


như trên thể hiện rõ lập trường giai cấp của Nho giáo. Đó là, nó chỉ quan tâm tới
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của những con người thuộc tầng lớp trên của xã
hội, những người có địa vị tề gia, trị quốc và có thể quyết định vận mạng của đất
nước.
2.2.2. Tư tưởng gia trưởng trong gia đình

Chế độ gia trưởng được thể hiện rõ trong từng gia đình Trung Hoa ngày xưa
mà đặc biệt là trong các gia đình hoàng tộc. Điều đó được thể hiện qua các khía
cạnh:
Thứ hết là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Người xưa quan niệm người đàn
ông là trụ cột trong gia đình, là người làm kinh tế chủ yếu để nuôi sống gia đình.
Còn người phụ nữ thì chăm lo cho tốt việc bếp núc, sinh con đẻ cái. Chính vì vậy
mà người đàn ông có tính quyết đoán, độc đoán còn người đàn bà thì phải biết an
phận, làm tròn trách nhiệm bổn phận của mình. Người nam giới phải làm tốt lẽ đạo
đức của mình là phải thực hiện tỏ tường Tam Cương và Ngũ Thường, người phụ nữ
là phải biết Tam tòng, Tứ đức: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
nghĩa là: Người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, lúc lấy chồng phải theo chồng,
nếu chồng qua đời thì phải một lòng theo con. Và quan niệm rằng “trai năm thê bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng”, chính vì vậy mà ngày xưa người đàn ông
thường lấy nhiều vợ.
Người vợ trưởng luôn nắm giữ quyền hành: Trong các bà vợ thì vợ cả luôn là
người nắm giữ quyền điều hành trong gia đình. Người vợ cả thì luôn ăn hiếp trèo
đầu cưỡi cổ người vợ bé. Người vợ bé, thì chỉ còn biết căm chịu tủi nhục.
Đề cao người con trai trưởng: sau khi cưới về, người vợ phải sinh con nhất
thiết phải là con trai, càng nhiều càng tốt để nối dõi tông đường, “nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô”. Nếu người vợ không sinh được con hoặc là chỉ sinh toàn con
gái thì người chồng sẽ lấy người vợ khác đến khi nào sinh được con trai mới thôi.
Trong số các con thì người con trai trưởng sẽ thay cha đảm nhận mọi việc trong gia
đình. Trong Tam Cương: quân thần mang nghĩa Vua tôi, đã là thần thì phải phục
tùng mang tính tuyệt đối và mang tính chất tự giác. Từ đó dẫn đến tư tưởng “gia
nhân” đó là nịnh. Từ tư tưởng Vua tôi dẫn đến thái độ gia trưởng làm áp bức, đè
nén, đàn áp cấp dưới; đối với cấp trên thì tân bốc, nịnh nọt - tất cả như trở thành

15



một thói quen. Từ tư tưởng gia trưởng trong quan niệm quân thần dẫn đến đối nội
cai nghiệt, sởi lởi, giả dối, ba phải,…Làm dẫn đến đề cao cái tôi hay kể công và tạo
quan niệm mang tính chất hàm ơn, bè phái, cục bộ. Và bên cạnh đó trong quan
niệm phụ tử: con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ, đúng nề nếp theo nghĩa gia
phong. Làm được như vậy thì gọi là giữ được nếp nhà (gia phong, gia giáo). Con
cái phải ra sức học tập, làm vinh hiển tổ tiên, gia đình, dòng họ. Học hành đó không
phải là phát triển xã hội mà mục đích là làm vinh hiển dòng họ. Khi cha mẹ còn
sống thì con cái không được tự quyền quyết định, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Có
nhiều khi lấy chồng vợ không phải đạt được hạnh phúc cho mình mà đáp ứng nhu
cầu xã hội phong kiến như để làm công cụ lao động.

16


Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ GIA TRƯỞNG ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM
Từ xa xưa Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đặc biệt
là trong những triều đại phong kiến kéo dài hàng ngàn năm. Các triều đại phong
kiến Việt Nam đã sử dụng tư tưởng của Trung Hoa để cai trị đất nước mình.
Trước hết là tư tưởng Nho gia, chính nó đã đem đến cho giai cấp cầm quyền
Việt Nam những quyền hành tuyệt đối. Từ đó nó đã mang đến sự ra đời của quan
niệm đẳng cấp ở Việt Nam. Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị nó luôn là xiềng
xích móc nối tất cả các mối quan hệ và chính các quan niệm ““quân - thần, phụ tử”” sẽ đảm đương giải quyết tất cả mọi vấn đề. Khi xưa lúc Tôn Thất Thuyết thay
Vua ra chiếu Cần Vương thì sĩ tử khắp nơi kéo về tụ hội. Điều đó có nghĩa là sự
“trung quân ái quốc” đã khiến con người kết lại gần nhau. Vua là người đứng đầu
và nắm mọi quyền hành người nào đại diện cho Vua chính là đại diện cho pháp
luật, cho những gì đúng đắn và nếu là một người quân tử thì phải tuân theo. Như
Vua Hàm Nghi dù đã bị mất nước nhưng vẫn được tôn sùng và tin tưởng.
3.1. Gia trưởng
Biết bao triều đại phong kiến Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng “trọng

nam khinh nữ”. Theo đó người đàn ông giữ vai trò thống trị xuyên suốt xã hội và
người phụ nữ phải chịu nhiều bất công và lệ thuộc. Tính gia trưởng không những
thể hiện qua cấu trúc xã hội mà còn thể hiện trong gia đình, nơi người đàn ông có
quyền lực đối với phụ nữ, trẻ em và của cải. Trong gia đình gia trưởng, người đàn
ông là trụ cột, là chủ gia đình nên có quyền ra lệnh, áp đặt vợ con phải tuân theo
mọi ý muốn của mình, đôi khi bằng cả bạo lực. Gia đình gia trưởng cũng tạo cho
người đàn ông năm thê, bảy thiếp, nhiều con, và con trai vẫn được xem trọng hơn.
Nhu cầu có con trai được lý giải trong văn hóa Nho giáo từ xưa là để nối dõi tông
đường. Con trai mang tên dòng họ, có trách nhiệm kế thừa và xây đắp truyền thống
và danh dự của gia đình. Con trai sẽ trông nom chăm sóc mồ mả tổ tiên. Không có
con trai được xem như là một điều bất kính với tổ tiên. Con trai là nguồn lao động
chính trong mỗi gia đình, nhất là các vùng nông thôn. Con trai kế thừa tài sản của
gia đình và có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về già.

17


Xã hội phong kiến đề cao trật tự xã hội với triều đình là trung tâm, điều chỉnh
hành vi con người theo nguyên tắc “quân, sư, phụ”. Trong chiều hướng đó, cấu trúc
gia đình theo kiểu gia trưởng còn gắn liền với quan niệm “trai năm thê bảy thiếp,
gái chính chuyên chỉ một chồng" tạo nên sự bất bình đẳng về giới trong xã hội.
Khi so sánh các thời kỳ lịch sử khác nhau để đưa ra kết luận một vấn đề là
điều rất khó, bởi nó không cùng nằm trong một không gian, thời gian và cấu trúc.
Nếu so sánh con người ngày xưa với con người và gia đình ngày nay để đưa ra kết
luận có vẻ như là điều khập khiểng vì xã hội và con người không ngừng thay đổi.
Tuy nhiên, con người học được ở lịch sử những bài học để tiến bộ nên người ta
không thể không so sánh. Vì vậy, để thấy rõ được gia trưởng tốt hay xấu cần phân
tích kỹ lối sống gia đình thời xưa và gia đình thời nay.
Bàn về vấn đề trọng nam khinh nữ trong văn hóa Việt, Phan Kế Bính viết:
“Tục ta trọng nam khinh nữ thì là một tục trái hẳn với cách văn minh... Tục ta thì

phần nhiều áp chế đàn bà quá. Có người coi vợ như kẻ ăn người ở, nào là bắt sửa
túi nâng khăn, nào là bắt cơm dâng nước tiến, nào là bẻ hành bẻ tỏi, nào là bắt
nhặt bắt khoan. Chồng ăn chơi như phá không sao, vợ xểnh ra một chút đã sinh ra
ỏm tỏi; chồng chim chuột như quỷ thì chẳng hề gì, vợ động đi đâu một lúc thì sinh
ra ngờ vực, ấy là trái với đạo công bằng. Tục ta buộc cho đàn bà một chữ trinh
mới lại nghiệt nữa. Đã đành trinh tiết là một nết rất quý ở Á Đông ta, không có thể
sao bỏ được, nhưng thủ trinh với chồng cốt ở trong bụng, chứ giữ gìn từng li thì
tựa như đàn ông quá hà khắc...”
3.2. Gia đình gia trưởng
Trong gia đình gia trưởng thời xưa, người cha là tấm gương đạo đức cho con,
đó là sự chuẩn mực, đứng đắn, “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”, người mẹ là tấm gương
về phần phúc, nghĩa là người mẹ để lại cho con một gia tài tình cảm, những giá trị
sống trong gia đình. Gia đình gia trưởng nhất nhất đều là đàn ông, không chỉ nói
đến vai trò trụ cột, mà còn nói đến quan hệ về của cải vật chất, của cải chỉ để lại
cho con trai chứ không cho con gái. “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, một khi
người phụ nữ chấp nhận lập gia đình, thường là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, họ
bị ràng buộc bởi quan niệm “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Gần như là một trật tự được sắp xếp sẵn và người phụ nữ phải cam chịu, sự cam

18


chịu chính là mấu chốt và là bản sắc của người phụ nữ ngày xưa để gia đình giữ
được hòa khí, êm ấm, hạnh phúc.
Chính vì biết chịu đựng, nhẫn nhục nên trong các gia đình thuộc tầng lớp
giàu có, thống trị, người vợ sẵn sàng cưới vợ bé cho chồng. Vợ lớn quán xuyết tất
cả, vợ bé chỉ lo chuyện chăn gối, cứ thế sống chung với nhau trong một gia đình và
không to tiếng, tất cả đều bảo vệ hạnh phúc cho chồng. Khi sống trong một gia đình
bị áp đặt, họ đã khôn ngoan chấp nhận số phận “xuất giá tòng phu”, biết được
những điều mình phải chịu đựng để giữ hạnh phúc gia đình và không nghĩ đến

chuyện bỏ chồng. Đối với họ, trung tâm của gia đình là con cái, làm mọi sự để con
cái hạnh phúc, nghĩa là mình được hạnh phúc. Vì thế, con cái được mẹ nuôi dạy rất
kỹ lưỡng về tình cảm, cách đối nhân xử thế. Họ quán xuyến gia đình để chồng lo
việc lớn bên ngoài xã hội, để chồng được “nở mày, nở mặt” với thiên hạ.
3.3. Cách xưng hô trong gia đình gia trưởng
Tuy có tính gia trưởng nhưng người đàn ông cũng biết thương vợ và người
vợ, dù bị thống trị, cũng hết mực thương chồng. Cách xưng hô trong gia đình cũng
là yếu tố giữ cho gia đình khỏi đổ vỡ. Trong các gia đình giàu có, người đàn ông
nhiều vợ, tuy nhiên tôn ti trật tự được giữ gìn nghiêm khắc, danh xưng “ông, bà”
thường được vợ chồng gọi nhau trong các gia đình này. Các gia đình nghèo, nông
dân, người lao động cày thuê cuốc mướn, cuộc sống chật vật nên cũng chỉ một vợ,
một chồng và đa số các gia đình gọi nhau “mình ơi”. Khi gọi nhau bằng “mình ơi”,
vợ chồng thường không cãi vả, xung khắc với nhau nhiều. Cách gọi “mình ơi” như
thể để nhắc nhở rằng đó là một phần thân thể của mình, cần phải tôn trọng nhau.
Không biết từ bao giờ người ta đổi chữ “mình ơi” sang chữ “nhà tôi”. Khi gọi
chữ “nhà tôi” để chỉ vợ hay chồng mình, nó đã thể hiện 3 phạm trù: “Thuận vợ
thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, dù sống trong chế độ gia trưởng nhưng họ đã
ý thức được sự tôn trọng, không được áp đặt lên nhau; “Đàn ông xây nhà, đàn bà
xây tổ ấm”, có sự phân công trách nhiệm, vai trò rõ rệt của người chồng, người vợ
trong gia đình; “Của chồng công vợ”, mỗi giá trị trong gia đình đều do sự đóng góp
của cả hai người. Khi chuyển sang gọi nhau là “ông xã, bà xã”, người vợ, người
chồng không chỉ sống trong phạm vi ngôi nhà nữa mà phải biết cách sống cho làng
xã, sống với nhau như thế nào để bảo vệ giá trị của cộng đồng.

19


Tóm lại, gia đình gia trưởng vốn mang đặc điểm áp đặt, thống trị do người
đàn ông chi phối, nhưng để giữ được hạnh phúc gia đình thì phụ thuộc rất nhiều
vào tài khéo léo ứng xử của người phụ nữ, với tứ đức “Công, Dung, Ngôn, Hạnh”,

đã được các bà mẹ truyền thụ cho con gái qua bao đời. Sự khéo léo đó được thể
hiện trong các công việc như dệt cưởi, thêu thùa, may vá, trong đức tính, trong lời
ăn, tiếng nói… và cả trong xử trí khi xảy ra tranh chấp: “Chồng nói thì vợ bớt lời,
cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê”. Mục đích cuối cùng trong mọi cư xử chỉ nhằm
làm cho gia đình hạnh phúc.

20


KẾT LUẬN
Có thể nói , Trung Hoa có một hệ thống tư tưởng rất hoàn chỉnh đã được hình
thành từ mấy nghìn năm nay và có ảnh hưởng sâu sắc đến người dân của họ, mà
nòng cốt của hệ thống tư tưởng này phải kể đến là Khổng Tử, Mạnh Tử (đã sáng
lập ra tư tưởng Nho giáo); Lão Tử, Trang Tử (đã sáng lập ra tư tưởng đạo giáo); và
tư tưởng phật giáo. Trong đó, ảnh hưởng đến Trung Hoa nhiều nhất và sâu đậm
nhất vẫn là tư tưởng Nho Giáo, mà điển hình là những quan niệm về “quân – thần,
phụ - tử” và quan niệm đẳng cấp trong xã hội.
Từ những phân tích, nhận định trên ta thấy trong xã hội phong kiến Trung
Hoa, mối quan hệ “quân - thần, phụ - tử” về cơ bản là hai mối quan hệ chính của
thời phong kiến Trung Hoa. Chính nó đã ảnh hưởng đến quan niệm đẳng cấp của
người Trung Hoa mà đặc biệt và nổi trội là tư tưởng quân tử - tiểu nhân và tư tưởng
gia trưởng. Nó đã hình thành một xã hội phong kiến quy tắc và chuẩn mực dựa trên
những mối quan hệ và tư tưởng đó. Vì vậy Trung Hoa là một đất nước lớn, mặc dù
cát cứ nhiều nơi nhưng vu là người có quyền hành tất cả, xã hội phải tuân theo tư
tưởng “quân – thần, phụ - tử”, tất cả nhằm đạt đến việc “tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ.”
Chúng ta cũng có thể nhận ra rằng những tư tưởng đẳng cấp của Trung Hoa đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa Việt Nam. Qua hàng ngàn năm Bắc thuộc những
tư tưởng đó ăn sâu và bám rễ trong chế độ phong kiến Việt Nam. Từ đó nó lan rộng
và ảnh hưởng mạnh mẽ đến người dân Việt Nam không chỉ trong chế độ cũ mà

ngày nay vẫn còn được lưu lại trong một số dòng tộc và gia đình gia giáo theo nề
nếp cũ.
Ngày nay, gia đình gia trưởng không được chấp nhận bằng luật Hôn nhân gia
đình, quy định chỉ một vợ, một chồng và được hỗ trợ bằng Luật chống bạo hành,
chống lại gia đình gia trưởng, chống lại sự áp đặt lên người phụ nữ về sức khỏe thể
chất, tinh thần. Từ gia đình gia trưởng, phải qua cuộc đấu tranh ác liệt mới bắt đầu
xuất hiện mô hình gia đình mới được gọi là gia đình dân chủ. Ngày nay, người phụ
nữ không còn bị bó buộc chỉ chuyên tâm lo chuyện “xây tổ ấm” nữa, mà còn gánh
vác những công việc xã hội. Người phụ nữ ngày nay có nhiều kiến thức hơn, trí tuệ
hơn, được bình đẳng hơn và có địa vị xã hội rõ rệt. Ngày xưa, do có sự phân công,
21


người phụ nữ dạy con, nhưng ngày nay, do bị xã hội chi phối trong nhiều công việc,
con cái được cha mẹ phó thác chuyện dạy dỗ cho nhà trường, xã hội. Bên cạnh đó,
do có sự bình đẳng, nên có những gia đình rạch ròi trong chuyện sở hữu của cải,
tiền bạc, không còn của chồng, công vợ mà là rạch ròi của chồng, của vợ, điều rất
nguy hiểm cho gia đình. Khi sòng phẳng trong chuyện tiền nong như vậy, nhiều khi
vợ chồng lại ứng xử với nhau như người dưng nước lã, tính toán với nhau từng chút
một trong chi tiêu gia đình. Đôi khi do tiêu xài hoang phí, hoặc vợ, hoặc chồng tự
mình làm ăn riêng dẫn đến cảnh nợ nần chồng chất, đến khi vỡ lỡ, không ít gia đình
phải lâm vào cảnh đường ai nấy đi.
Xã hội phong kiến qua đi nhưng tính gia trưởng vẫn còn tồn tại, vẫn còn nằm
trong mỗi con người. Sức mạnh đàn ông áp chế xã hội đã chấm dứt nhưng sức
mạnh đàn ông trong con người vẫn còn, đàn ông vẫn thích thể hiện quyền lực, thậm
chí là bạo lực, bạo hành, áp đặt, theo kiểu “chồng chúa, vợ tôi”, vợ phải phục tùng
chồng và điều đó hiển nhiên không được người phụ nữ hiện đại chấp nhận. Để giải
phóng những bất hạnh trong gia đình người ta nghĩ đến chuyện ly dị như là một
giải pháp tốt nhất mà phớt lờ đi những khó khăn và tổn thương để lại, đặc biệt là
đối với con cái.


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, (3 tập), Nxb
Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 1997.
2. Lương Ninh, Lịch Sử Thế Giới Cổ Đại, Nxb Gíao Dục, Hà Nội, 2009.
3. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý, Lịch Sử Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 2003.
4. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Lịch Sử Thế Giới Trung Đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
5. Nguyễn Hiền Lê (dịch), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2006.
6. Trần Đình Thảo, Quân tử và tiểu nhân trong Luận ngữ, tạp chí Triết học, số 6
(217), tháng 6, 2009.
7. Vũ Khiêu (chủ biên), Nho Giáo Xưa Và Nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1991.
8. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ngữ văn Hán Nôm, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2004.

23



×