Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DÂN SỐ 3 THÁNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.32 KB, 26 trang )

TỔNG CỤC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

BÁO CÁO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề xuất các giải pháp về truyền thông góp phần nâng cao hiểu biết
về hậu quả của lựa chọn giới tính thai nhi cho các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ tại xã Mường Bon năm 2017

Học viên: Trìn Duy Bình
Ngày tháng năm sinh: 28/12/1992
Đơn vị công tác: Trạm y tế xã Mường Bon-Sơn La
Lớp: Bồi dưỡng nghiệp vụ Dân số-KHHGĐ đạt chuẩn viên chức
Dân số K32 tại Hà Nội

Hà Nội, tháng 7/2017
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

1


TỔNG CỤC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

BÁO CÁO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề xuất các giải pháp về truyền thông góp phần nâng cao hiểu biết
về hậu quả của lựa chọn giới tính thai nhi cho các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ tại xã Mường Bon năm 2017

Học viên: Trìn Duy Bình
Ngày tháng năm sinh: 28/12/1992
Đơn vị công tác: Trạm y tế xã Mường Bon-Sơn La


Giảng viên hướng dẫn: Ths. Đặng Thị Hải

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

2


Mường Bon, ngày 20 tháng 06 năm 2017

MỤC LỤC
Trang

LỜI CẢM ƠN..............................................................................5
I. LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................6
2. Mục tiêu của đề tài ......................................................................................7
2.1 Mục tiêu chung ...................................................................................7
2.2 Mục tiêu cụ thể ...................................................................................7

II : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN SỐ - KHHGĐ TẠI XÃ
MƯỜNG BON ............................................................................. 8
I- Tình hình chung của xã Mường Bon....................................................... 8
1. Đặc điểm tự nhiên................................................................................... 8
2. Đặc điểm kinh tế – Văn hoá của xã Mường BonError: Reference source not
found
2.1/ Về Kinh tế ...................................Error: Reference source not found
2.2/ Về Văn hoá.................................................................................... 10
3. Cơ sở lý luận về mất cân bằng giới tính khi sinh ..................................11
4. Thực trạng công tác truyền thông DS-KHHGĐ xã Mường Bon ..............
5. Thực trạng vấn đề lựa chọn giới tính khi sinh cần giải quyết ..........13

6. Nguyên nhân và hậu quả của lựa chọn giới tính khi sinh................14
6.1 Nguyên nhân.............................................................................14
6.2 Hậu quả.....................................................................................17
7. Các giải pháp tuyên truyền giúp nâng cao hiểu biết.......................19

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................22
1. Kết luận............................................................................................22
2. Kiến nghị. ............................................................................................. 24
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

3


* Đối với Trung ương, Tỉnh ..............................................................24
* Đối với cấp Huyện, xã ................................................................... 25

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................26

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

4


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Trung tâm đào
tạo bồi dưỡng –Tổng cục Dân số-KHHGĐ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho em
những kiến thức, kinh nghiệm quý báu và giúp đỡ em trong suốt quá trình học
tập.Và tôi xin cảm ơn tất cả những người bạn trong tập thể lớp Bồi dưỡng nghiệp
vụ Dân số/KHHGĐ đạt chuẩn viên chức 3 tháng năm 2017 tại Hà Nội những
người đã và đang luôn động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt thời

gian học tập cũng như thực hiện khóa luận này.Cuối cùng,tôi kính gửi lời cảm ơn
sâu sắc nhất tới Các cơ quan, ngành đoàn thể địa phương liên quan, đã cung cấp số
liệu và hợp tác giúp đỡ tôi trong thời gian qua. Tạo điều kiện để khoá học của tôi
thu được kết quả ngoài mong đợi và hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp./.
Xin chân thành cảm ơn!

Mường Bon, Ngày 20 tháng 6 năm 2017
Người viết

Trìn Duy Bình

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

5


I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục, đô thị hóa và phát triển kinh tế đã nâng cao đáng kể cơ hội bình
đẳng về giới cho phụ nữ, trẻ em gái Châu Á trong vòng hai thập kỷ qua. Tuy
nhiên sự chuyển biến rõ rệt về vị thế của người phụ nữ và bình đẳng giới tính
cũng đi kèm với tình trạng giảm sút tỷ lệ trẻ em gái ở nhiều nước. Sự suy
giảm có nguyên nhân phần lớn do sự gia tăng thực hành lựa chọn giới tính trước
sinh trong vòng 20 năm qua đã dẫn đến hiện tượng nam hóa trong dân số ở mức
đáng báo động. Sự mất cân bằng giới tính đang gia tăng sẽ có tác động xấu tới
nam giới, phụ nữ, và gia đình ở nhiều cấp độ trong vòng nửa thế kỷ tới.
Các nghiên cứu hiện có cho thấy việc lựa chọn giới tính khi sinh (LCGTKS)
dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực về sức khoẻ và đời sống của phụ nữ; phụ nữ phải
gánh chịu áp lực nặng nề về thể xác và tinh thần để sinh được con trai. Nếu tình
trạng LCGTKS ở Việt Nam như hiện nay tiếp tục kéo dài trong 20 năm tới thì vào

năm 2035, sẽ có khoảng 10% nam giới Việt Nam sinh sau năm 2005 sẽ bị dư thừa
so với tổng số nữ giới; điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của cá
nhân, gia đình, các dòng tộc mà còn trở thành tai họa đối với dân tộc và sự phát triển
bền vững của đất nước (Bộ Y tế, 2012).
Trong những năm gần đây, tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta vẫn tiếp tục tăng
và ở mức cao, nếu như năm 2009 tỷ số giới tính khi sinh là 110,5 bé trai/100 bé gái
thì đến năm 2014 là 112,2. Các nhà nhân khẩu học trong và ngoài nước đều dự báo
tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.
Mặc dù Sơn La nói chung và xã Mường Bon nói riêng là tỉnh miền núi nhưng lại là
1 trong 10 tỉnh có tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh cao nhất cả nước.

Thực tế cho thấy điều kiện kinh tế, văn hóa, địa lý ở mỗi địa phương khác
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

6


nhau có những đặc thù và nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng lựa chọn
giới tính khi sinh. Vậy câu hỏi đặt ra là nguyên nhân lựa chọn giới tính khi sinh
của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ ở Xã Mường Bon là gì? Và làm thế
nào để kiểm soát được tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh của xã Mường Bon
hiện nay?
Nhận thức rõ những hậu quả trong tương lai của việc gia tăng tỷ số giới tính
khi sinh với mong muốn giảm thiểu mất cân bằng giới tính. Để góp phần vào việc
kiểm soát mất cân bằng giới tính hiện nay với việc vận dụng những kiến thức
trong quá trình học tập, thực tế tại địa phương tôi xin chọn đề tài “Giải pháp
truyền thông nâng cao hiểu biết về hậu quả của lựa chọn giới tính khi sinh tại
xã Mường Bon huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La”.
Do thời gian và kinh nghiệm trong công tác DS – KHHGĐ còn hạn chế nên
khi viết và trình bày khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được

sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp để tôi có thêm được
những hiểu biết và nhìn nhận thực tế hơn trong công tác của mình.

2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
 Nhằm nâng cao hiểu biết kiến thức, thái độ, góp phần truyền thông, giáo
dục, chuyển đổi hành vi Dân số – KHHGĐ theo hướng có lợi và bền vững cho các
cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ kể cả người chưa kết hôn về hậu quả của lựa
chọn giới tính thai nhi.
 Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng truyền thông, tư vấn cho đội ngũ
cán bộ làm công tác Dân số – Kế hoạch hoá gia đình, đảm bảo cung cấp cho đối
tượng đều được hưởng các dịch vụ về KHHGĐ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
 Đánh giá thực trạng và các nguyên nhân lựa chọn giới tính khi sinh của các
cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tại xã Mường Bon,Mai sơn,Sơn La.
 Đề xuất giải pháp truyền thông nhằm nâng cao hiểu biết về hậu quả của lựa
chọn giới tính khi sinh tại xã Mường Bon-Mai sơn-Sơn La.
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

7


PHẦN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DS-KHHGĐ
XÃ MƯỜNG BON
I- TÌNH HÌNH CHUNG CỦA XÃ MƯỜNG BON.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Mường Bon là xã vùng một của huyện Mai Sơn, nằm cạnh Quốc lộ 6. Phía
Bắc giáp Xã Chiềng Chăn, Chiềng Sung; Phía Đông giáp Thị trấn Hát Lót, Xã Nà
Bó; Phía Nam giáp Xã Hát Lót; Phía Tây giáp Xã Chiềng Mung, Mường Bằng., có

diện tích 3,944Ha, dân số khoảng 6696 người, chủ yếu là dân cư nông thôn, mật độ
dân cư phân bố tương đối đồng đều.
Mường Bon là một trong những xã vùng một của huyện Mai Sơn cách TTYT
huyện khoảng 11 km. Có tổng diện tích tự nhiên 39,36 km2. Dân số là: 6643 người
với 1512 hộ. Gồm 3 dân tộc chính cùng sinh sống (Thái chiếm: 76,9%; Kinh
chiếm: 17,5%; H Mông chiếm: 5,6%; cùng sinh sống tại 21 bản, là một xã thuần
nông kinh tế chậm phát triển, hộ nghèo còn 262 hộ chiếm 17,5%, Hộ cận nghèo:
56 hộ chiếm 3,7%.
Về địa lý xã phân thành vùng, giữa hai vùng có suối Nặm Pàn, chảy từ thị
trấn Hát Lót, sang ngăn cách giữa hai vùng đi lại, khó khăn nhất là vào mùa mưa
lũ. Bản xa nhất cách trung tâm xã 19 km. Tỷ lệ số hộ có điện lưới quốc gia 97%.
Tỷ lệ hộ có phương tiện nghe nhìn là 92%. Tổng thu nhập bình quân đầu người là
15,5 triệu đồng/người/năm.
Xã Mường Bon có 21 bản: Bản Cút, Bản Lẳm, Đoàn Kết, Bản Mứn, Bản Ỏ,
Ta Xinh, Đấu Mường, Bản Bon, Bó Định, Mai Tiên, Bản Mé,Bản Un,Củ Pe, Nà
Viền, Xa Căn, Mai Quỳnh, Bản Tra, Tiến Xa, Lán Lanh, Tà Xa, Rừng Thông.
Toàn xã có 22 CTV Dân số-KHHGĐ.
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

8


Là một xã miền núi, nên địa hình bị chia cắt mạnh. Tuy nhiên so với các địa
bàn khác trong huyện thì địa hình của xã Mường Bon bằng hơn, thuận lợi cho
việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình phát triển kinh tế xã hội của xã, phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
2. Đặc điểm kinh tế – Văn hoá của xã Mường Bon
2.1/ Về Kinh tế
Xã Mường Bon được thành lập ngày 12/09/1952. Trải qua hơn 50 năm năm
xây dựng, trưởng thành phát triển. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Mường
Bon, đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn thử thách vươn lên, đưa nền

kinh tế huyện từng bước phát triển vượt bậc. Trong đó khai thác lợi thế là vùng đất
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế Nông -Lâm nghiệp. Xã đã xây dựng các Nghị
quyết chuyên đề hình thành các vùng có đặc thù rõ nét. Tập trung phát triển KTXH
theo hướng sản xuất hàng hoá. Gắn chặt giữa phát triển KTXH với nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân đi đôi với khai thác và bảo vệ nguồn lực, môi
trường, tự nhiên xã hội theo hướng bền vững.
Khai thác mọi tiềm năng, xã cũng đã trọng tâm chỉ đạo các địa phương phát
triển mạnh nghành chăn nuôi thả cá,nhân giống cây trồng và lúa gạo... Đặc biệt
chăn nuôi thả cá tại ao hồ đã hiện đã và đang được nông dân trên địa bàn áp dụng
rất thành công, đem lại giá trị thu nhập kinh tế cao. Từ mô hình này mà nhiều hộ
dân đã thoát được đói, giảm được nghèo.
Tuy nhiên là xã Miền núi, hơn 80% là người dân tộc thái dân cư sống không
tập trung, điểm xuất phát thấp, tự cấp, tự túc, hơn nữa lực lượng lao động còn dư
thừa nhiều, cơ sơ hạ tầng nhiều yếu kém. Nên mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư của
Đảng, NN nhưng đến nay đời sống của nhân dân các dân tộc trong huyện vẫn gặp
những khó khăn nhất định. Tỷ lệ hộ nghèo còn trên 23%(2009).
Năm 2014, xã Mường Bon đã tích cực huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, phấn đấu đưa
tổng giá trị sản xuất toàn xã tăng 15% trở nên.

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

9


Nói tóm lại, kinh tế xã Mường Bon trong những năm gần đây đang trên đà
phát triển tuy nhiên chưa đồng đều nhiều người dân vẫn gặp khó khăn về kinh tế,
có một số gia đình chỉ trông chờ vào sản xuất nông nghiệp hay đại đa số những
người già cả không có lương hưu phải trong chờ vào con cháu, điều kiện sinh hoạt
còn thiếu thốn và nó ảnh hưởng đến tỷ lệ giới tính khi sinh ở xã Mường Bon

2.2/ Về Văn hoá
Toàn xã chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân thực hiện tốt NQ TW5 khóa X về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.. Năm 2009 toàn xã 29 bản đơn vị, cơ quan
đạt danh hiệu bản, đơn vị văn hoá. Nâng tổng tỷ lệ này chiếm từ 72 – 95% số hộ,
đơn vị được công nhận danh hiệu văn hoá các cấp.
Toàn xã đến nay có 1 trung tâm văn hoá, 21/21 bản có nhà văn hoá; Sóng
Truyền hình với 1 Trạm Trung tâm và 2 Trạm lẻ đặt tại các bản, đã tạo điều kiện để
trên 85% số hộ được xem Truyền hình, 90% số hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ
sinh nhờ các chương trình đầu tư của Đảng, NN về chương trình nước sạch cho
đồng bào miền núi, vùng cao, vùng sâu; 92,7% nhân dân được sử dụng điện lưới
Quốc gia. Đã tạo điều kiện rất lớn trong việc phát triển KTXH.
3.Cơ sở lý luận về mất cân bằng giới tính khi sinh
*Khái niệm giới và giới tính
Giới là các đặc điểm về mặt xã hội liên quan đến vị trí, tiếng nói, vai trò, công
việc của phụ nữ và nam giới tronh gia đình và xã hội. Đây là những đặc điểm mà
phụ nữ và nam giới có thể hoán đổi cho nhau được (Bộ Y tế, 2009); (Tổng cục
Dân số - KHHGĐ, 2009)
Giới tính là chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, giới tính của
mỗi người được xác định ngay từ khi tinh trùng với trứng lúc thụ thai, đứa trẻ
được sinh ra là con trai hay con gái (Bộ Y tế, 2009); (Tổng cục Dân số - KHHGĐ,
2009)
Giới tính phản ánh các đặc điểm về cấu tạo cơ thể, liên quan đến chức năng
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

10


sinh sản của phụ nữ và nam giới không thể hoán đổi cho nhau được đó là: Nam
giới có tinh trùng, có thể gây có thai, nhưng nam giới không thể mang thai được.

Phụ nữ có dạ con, có hành kinh, có thể mang thai, sinh con và cho con bú. Giới tính
của mỗi người là không thay đổi trong suốt cuộc đời. Đàn ông đàn bà nói chung về
cấu tạo sinh học, giải phẫu đều giống nhau (Bộ Y tế, 2009); (Tổng cục Dân số KHHGĐ, 2009)
*Khái niệm mất cân bằng giới tính khi sinh
Là số trẻ em trai được sinh ra còn sống vượt trên ngưỡng bình thường so với
100 trẻ em gái được sinh ra còn sống trong một khoảng thời gian xác định, thường
là một năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh. Theo quy ước nhân khẩu học,
khi tỷ số giới tính khi sinh của một quốc gia, một vùng hoặc một tỉnh/ thành phố từ
110 trở lên là mất cân bằng giới tính khi sinh (Bộ Y tế, 2009); (Tổng cục Dân số
-KHHGĐ, 2009)
Thế nào là giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh là để hạn chế sự mất
cân bằng giới tính, đảm bảo phát triển bền vững theo quy luật tự nhiên, ngành y tế
đã tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về giới,
về bình đẳng giới và về hậu quả mất cân bằng giới tính cho người dân và người
cung cấp dịch vụ siêu âm, dịch vụ nạo phá thai; tuyên truyền để người dân tự
giác chấp nhận quy mô gia đình nhỏ “dù gái hay trai chỉ hai là đủ”. Ngành triển
khai đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh từ năm 2009 (Bộ
Y tế, 2009); (Tổng cục Dân số - KHHGĐ, 2009).
4. Thực trạng công tác truyền thông Dân Số-KHHGĐ của Xã Mường Bon
Công tác truyền thông DS – KHHGĐ nói chung, truyền thông giáo dục,
chuyển đổi hành vi về Dân số –Kế hoạch hoá gia đình nói riêng có vị trí rất quan
trọng vì truyền thông giáo dục, chuyển đổi hành vi nhất thiết phải đi trước một
bước, nó là mũi nhọn đột phá tư tưởng và tư duy của từng người, từng gia đình và
cộng đồng. Từ đó làm thay đổi nhận thức để đối tượng tự nguyện, tự giác lựa chọn
cho mình biện pháp tránh thai phù hợp, thựuc hiện tốt KHHGĐ. Để làm tốt công
tác này chúng ta phải xác định được tầm quan trọng của công tác truyền thông giáo
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

11



dục, chuyển đổi hành vi về Dân số –Kế hoạch hoá gia đình sao cho kịp thời đầy đủ,
chính xác, phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng. Đồng thời phải coi đây là
nhiệm vụ phải được duy trì thực hiện thường xuyên, lâu dài, huy động sự vào cuộc
của nhiều cấp, nhiều ngành. Đặc biệt là phải được sự ủng hộ của những người lãnh
đạo, già làng, trưởng bản, cán bộ hưu trí, những người có uy tín trong cộng đồng
dân cư và quần chúng nhân dân. Từ đó nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân
dân, nhất là nhận thức của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ về lợi ích và tầm
quan trọng của chính sách Dân số/KHHGĐ đúng như tinh thần NQTW4 khoá VII
của Đảng và nhà nước đã đề ra.
- Là một xã miền núi, nên địa hình bị chia cắt mạnh nên UBND xã và Trạm y
tế xã được đặt tại trung tâm của xã,chuyên trách dân số xã làm việc tại Trạm y tế.
- Năng lực truyền thông tư vấn, người cung cấp dịch vụ SKSS/KHHGĐ ở các
cơ sở Y tế nhà nước được cung cấp kiến thức, kỹ năng truyền thông, tư vấn và thực
hiện chuẩn quốc gia về dịch vụ SKSS, phục vụ tốt hơn cho người sử dụng dịch vụ,
hiệu quả quản lý chương trình của bộ máy Dân số-KHHGĐ các cấp ngày càng tiến
bộ, tinh thần tình nguyện vì cộng đồng của đội ngũ CTV,TTV được thể hiện ngày
càng cao. Từng bước khắc phục những rào cản về nhận thức, tâm lý, tập quán sinh
đẻ lạc hậu, khác biệt ngôn ngữ đối với các vùng đông dân có mức sinh tăng trở lại,
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
- Các phương tiện truyền thông được chuyên trách dân số xã nhận trực tiếp từ
Trung tâm dân số - KHHGĐ huyện như: băng rôn, tờ rơi, áp phích...qua những đợt
triển khai truyền thông theo kế hoạch của huyện đưa ra.
- Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những khó khăn như đội ngũ CTV còn
nhiều bất cập, thường xuyên thay đổi, số mới tuyển dụng chưa đáp ứng được yêu
cầu, làm ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác
Dân số-KHHGĐ của xã.

- Địa bàn dân cư rộng, phân bố không đồng đều, gây rất nhiều khó khăn trong
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La


12


công tác tuyên truyền, vận động đối tượng. Hơn nữa kinh phí đầu tư cho công tác
Dân số-KHHGĐ còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Đặc biệt, kinh phí
hỗ trợ đội ngũ CTV còn thấp làm cho một bộ phận CTV không mặn mà với công
việc, vì vậy đội ngũ này thay đổi thường xuyên gây khó khăn trong quá trình hoạt
động cũng như đào tạo.
- Sản phẩm truyền thông chưa đáp ứng nhu cầu cả về chất lượng và số lượng,
chưa phân nhỏ nhóm đối tượng, thiếu các sản phẩm dành cho đồng bào dân tộc ít
người, các đối tượng có trình độ văn hoá thấp. Chương trình mới chỉ tập trung vào
các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, chưa quan tâm thích đáng tới vị thành niên,
thanh niên, nam giới, người cung cấp dịch vụ KHHGĐ và người có uy tín trong
cộng đồng.
5.Thực trạng vấn đề lựa chọn giới tính khi sinh cần giải quyết
Hiện nay khoa học ngày càng hiện đại xu hướng lựa chọn giới tính của con
trước khi sinh ngày càng gia tăng, nhất là các gia đình theo quan niệm truyền thống
luôn mong mỏi có cháu đích tôn để nối dõi. Điều này sẽ gây áp lực cho các bà mẹ
trẻ trong việc tìm kiếm con trai cho bên nội. Trong số đó có nhiều mẹ khi siêu âm
thấy giới tính con là gái thì vội vã bỏ thai.
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết các dịch vụ chẩn đoán, lựa chọn giới tính
thai nhi tại huyện mai sơn
STT

Các dịch vụ có trên địa bàn
1

Siêu âm


2

Số lượng

Tỷ lệ (%)

122

80,79

Tư vấn sinh con

1

0,66

3

Tài liệu phổ biến

6

3,97

4

Dịch vụ nạo phá thai

18


11,92

5

Khác (Xem bói, bắt mạch...)

3

2,0

150

100

Tổng

Thực tế cho thấy những năm gần đây, tỉ lệ tăng dân số ở nước ta mỗi lúc một
cao nên nhà nước khuyến cáo mỗi gia đình nên sinh từ 1 – 2 con nhằm nuôi dạy
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

13


cho tốt. Vì thế, đa số các gia đình trẻ chỉ sinh 1 – 2 con. Bên cạnh đó cũng còn tồn
tại những hủ tục phong kiến nhất định “trọng nam khinh nữ” hay mỗi gia đình cần
phải có một đứa con trai để nối dõi. Điều đó đồng nghĩa với việc số lượng bé trai
được sinh ra ngày càng nhiều hơn số bé gái, gây mất cân bằng giới tính rất khó
kiểm soát được. Hay nghiệm trọng hơn là những trường hợp phá thai nếu kết quả
siêu âm thai nhi không như ý muốn, tình trạng này rất đáng báo động tại Việt Nam.
Kết quả điều tra biến động dân số của Tỉnh Sơn La cho thấy tỷ lệ phụ nữ dự đoán

giới tính của thai nhi trước khi sinh là 61% giai đoạn 2003-2004. Con số này tăng
lên thành 66% giai đoạn 2005-2006 và giảm còn 63,5% năm 2007.
Trong số những người dự đoán giới tính thai nhi, có 98% sử dụng phương
pháp siêu âm. Tỷ lệ người dự đoán giới tính của con sau 16 tuần mang thai là 80%.
Tỷ lệ phụ nữ chưa có con trai dự đoán giới tính thai nhi là 63.5% và tỷ lệ các ca
phá thai lựa chọn giới tính khoảng 13%. (Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, 2009)
6.Nguyên nhân và hậu quả của lựa chọn giới tính khi sinh.
6.1 Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh. Từ các
kết quả nghiên cứu ban đầu ở Việt Nam cho thấy, tình trạng lựa chọn giới tính khi
sinh ở Việt Nam bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau
*Bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại cả trong ý thức và hành động của một bộ
phận dân cư được coi là nguyên nhân đầu tiên và có ý nghĩa quyết định dẫn đến
tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh. Nguồn gốc sâu xa của bất bình đẳng giới,
khi Việt Nam là một xã hội Châu Á với chế độ gia tộc phụ hệ truyền thống, con
mang họ của cha, con trai mới được nối dõi tông đường, mới được vào nơi thừa
tự… đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và
dòng họ. Bất bình đẳng giới dẫn đến:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, thích con trai hơn con gái, mong muốn có con
trai để nối dõi tông đường, tạo nguồn thu nhập chính trong gia đình và chăm sóc
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

14


bố mẹ khi tuổi già. Cùng với việc thực hiện chính sách quy mô gia đình nhỏ, đã
có tác động mạnh dẫn đến việc nhiều cặp vợ chồng mong muốn sinh con trai, đặc
biệt là những cặp vợ chồng chỉ có con gái trong những lần sinh trước đó.
Sự hiểu biết thiên lệch về giá trị của con trai và con gái, dẫn đến tâm lý

muốn có thêm con trai để phòng ngừa các trường hợp rủi ro cũng làm tăng thêm
mong muốn sinh được con trai hơn con gái. Thực tế hiện nay cho thấy, nếu con
gái được chăm sóc giáo dục tốt, học hành đầy đủ thì sẽ có hiếu với cha mẹ không
kém gì con trai, có thể còn hơn cả con trai.
Mong muốn có con trai dẫn đến nhiều phụ nữ chỉ sinh con gái phải chịu sức
ép sinh thêm con trai từ phía cha mẹ chồng, đặc biệt khi người phụ nữ đó là con
dâu trưởng hay con dâu độc nhất trong gia đình. Nhiều người chồng cũng đứng
về phía cha mẹ mình để đòi hỏi vợ phải sinh thêm con trai (Tổng cục Dân số
-KHHGĐ, 2010).
*Chế độ an sinh xã hội còn hạn chế
Chế độ an sinh xã hội chưa bảo đảm, đặc biệt là người già không được
hưởng lương hưu, dẫn đến tư tưởng coi con trai là chỗ dựa tốt hơn về mặt tài
chính. Con trai mới là người chăm sóc cha mẹ khi về già, con gái khi lấy chồng sẽ
không sống trong gia đình mình, không thể thường xuyên đỡ đần cho cha mẹ đẻ.
Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều cặp vợ chồng mong muốn có con trai để có
trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già.
*Các dịch vụ y tế có liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi.
Cùng với sự phát triển ngày càng tốt hơn của hệ thống dịch vụ chăm sóc sức
khỏe nhân dân, có trang thiết bị hiện đại, đội ngũ hành nghề y dược trong và
ngoài công lập có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao. Sự phát triển
này, một mặt tạo điều kiện cung cấp chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người
dân ngày càng tốt hơn, mặt khác cũng làm tăng tình trạng lạm dụng những tiến bộ
khoa học công nghệ để lựa chọn giới tính trước sinh như: trước lúc có thai (chế
độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn…); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng
noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

15



nhiễm sắc thể Y…); hoặc sau khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút
dịch ối…) để lựa chọn giới tính thai nhi.
*Nhận thức của người dân còn hạn chế
Nhận thức của người dân, đặc biệt là những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh
đẻ về pháp luật liên quan tới việc lựa chọn giới khi sinh và hậu quả do lựa chọn
giới tính khi sinh gây ra còn rất hạn chế do chưa được tăng cường tuyên truyền,
giáo dục về bình đẳng giới, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh đối với
gia đình và xã hội.
Thảo luận tại xã Mường Bon về vấn đề này các ý kiến đều cho rằng chẳng
mấy khó khăn, khi các bà mẹ muốn biết giới tính thai nhi, một trường hợp cho
biết “Khi siêu âm nếu con trai thì biết ngay (bác sỹ chỉ nói, không ghi kết quả),
nếu con gái thường không được trả lời, nếu thiết tha hỏi thì trả lời chưa rõ, mà
cũng có chỗ nói khả năng con gái”
Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết về các quy định liên quan đến việc
nghiêm cấm lựa chọn GTKS
STT

Văn bản

Số

Tỷ

lượng
62

lệ
41,3

1


Luật Bình đẳng giới

2

Pháp lệnh Dân số

70

46,7

3

NĐ 104/2003/NĐ-CP ngày 13/9/2003 của Chính phủ

7

4,7

4

NĐ 176/2013/NĐ-CP ngày 04/11/2013 của Chính phủ

6

4,0

5

Không biết


5

3,3

150

100

Tổng số

Nguồn: Số liệu điều tra, 2014

*Chưa thực hiện tốt pháp luật liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi
Tại Điều 40, Khoản 7, Mục b của Luật Bình đẳng Giới đã quy định: “Lựa chọn
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

16


giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi dục, ép buộc người khác phá thai vì
giới tính của thai nhi là hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực Y tế”.
Trên thực tế, hầu hết những người mẹ mang thai đến khám và siêu âm đều
được người cung cấp dịch vụ siêu âm cho biết giới tính của thai nhi dưới nhiều
hình thức khác nhau. Đây là hành vi vi phạm pháp luật của cả khách hàng và
người cung cấp dịch vụ. Nguyên nhân của sự vi phạm này là do quản lý nhà nước
chưa thể kiểm soát được tình trạng siêu âm để xác định giới tính thai nhi, sự hiểu
biết của người dân về pháp luật liên quan đến việc lựa chọn giới tính thai nhi.
6.2 Hậu quả
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh theo hướng thừa nam thiếu nữ

càng kéo dài, hậu quả sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với lối sống, sinh hoạt, tâm tư,
tình cảm, thuần phong mỹ tục, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, nói chung
là tác động đến hầu hết các mặt của đời sống gia đình và xã hội.
*Hạnh phúc gia đình của các cặp vợ chồng bị đe dọa
Sự chênh lệch giới tính của trẻ sơ sinh chắc chắn sẽ dẫn tới hệ lụy thay đổi
cơ cấu giới tính trong tương lai, trong đó thiếu hụt phụ nữ trong độ tuổi lập gia
đình. Từ đó, một bộ phận nam giới có thể sẽ phải kết hôn muộn hoặc không có
khả năng kết hôn, hoặc phải "nhập khẩu cô dâu" hay đi ra nước ngoài kết hôn;
nhiều phụ nữ có thể phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn ở phụ nữ cao,
tăng nguy cơ "xuất khẩu cô dâu"; trẻ em gái có nguy cơ bị bắt cúc, buôn bán và
lạm dụng tình dục... Những người chịu tác động nhiều nhất là nam giới nghèo
không có khả năng tìm vợ và phụ nữ nghèo có nguy cơ bị buôn bán, đôi khi được
"mua" để làm vợ chung cho nhiều người trong cùng một gia đình như đã từng
xảy ra.
Theo một dự báo, nếu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh không được
ngăn chặn kịp thời thì khoảng 20-30 năm sau, một bộ phận khá lớn nam thanh
niên Việt Nam phải cưới vợ ngoại quốc. Tình trạng thiếu nữ giới để kết hôn sẽ
làm nam giới buộc phải tính đến việc kết hôn với người nước ngoài. Một thực tế
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

17


đang diễn ra là có hàng trăm ngàn cô gái Việt Nam đang di chuyển đến các nước
nơi có tình trạng MCBGTKS trước chúng ta hàng chục năm là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Đài Loan để làm dâu. Khi kết hôn với người nước ngoài mà không có tình
yêu, không

có sự tìm hiểu nhau kỹ càng thì hôn nhân sẽ phải đối mặt với rất


nhiều khó khăn, thách thức như sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, thói
quen sinh hoạt,… Những điều đó sẽ dẫn đến sự xung đột và đe dọa đến hạnh
phúc gia đình, làm gia tăng các vụ bạo hành giới về thể chất, tinh thần, tình dục
mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ; từ đó tăng cao nguy cơ số vụ ly hôn.
Xuất hiện các tệ nạn xã hội nam giới kết hôn muộn hoặc không kết hôn được
sẽ có thể phải đối mặt với các rắc rối về tâm lý, tinh thần, tăng nguy cơ bệnh tật
khi mà các nhu cầu tâm lý, tình cảm, sinh lý không được đáp ứng. Điều đó sẽ làm
gia tăng các tệ nạn xã hội, đặc biệt là mại dâm nữ, nam; các nguy cơ về lây nhiễm
HIV/AIDS; tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và ngay cả nạn nhân là nam giới vì
thế cũng gia tăng.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh một điều rằng, các nguy cơ, tệ nạn xã hội
nói trên không hoàn toàn phát sinh từ việc MCBGTKS mà còn tùy thuộc nhiều
vào vị thế kinh tế xã hội của hộ gia đình và lần sinh con thứ mấy trong gia đình,
nhưng

rõ ràng rằng GTKS là một trong các nguyên nhân và khi chỉ số này tăng

sẽ làm gia tăng các nguy cơ, tệ nạn nói trên.
*Ảnh hưởng tới sức khỏe
Việc lựa chọn giới tính sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ như: nạo hút thai;
đẻ nhiều, chịu sức ép tinh thần; phân biệt đối xử với trẻ em gái khi không đạt
được mong muốn có con trai;… điều này làm giảm cơ hội phát triển của phụ nữ;
ảnh hưởng kinh tế của gia đình; tiêu tốn tiền bạc cho nạo thai, siêu âm, xét
nghiệm; mất lao động do phụ nữ tập trung vào việc sinh đẻ.
*Ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước
Mất cân bằng giới tính, làm cho cơ cấu dân số không đồng đều; tình trạng
phải lấy chồng lấy vợ người nước ngoài ngày càng nhiều làm cho thế hệ mai sau
không thuần Việt; mất đi số lượng lớn người lao động nam giới nếu đi sang nước
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La


18


ngoài và lấy vợ ngoại quốc; các tệ nạn xã hội xuất hiện, buôn bán người trái phép
làm mất an ninh trật tự, sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi đi
nạo phá thai…..Tất cả đều tác động đến các cá nhân, gia đình và xã hội, ảnh
hưởng tới tiến trình phát triển của đất nước.
7.Các giải pháp tuyên truyền giúp nâng cao hiểu biết về hậu quả của lựa
chọn giới tính khi sinh cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ
Từ những nguyên nhân nêu trên, nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời
tình trạng này sẽ tác động xấu đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội trên địa
bàn xã.Do vậy tôi đề xuất một số giải pháp như sau
 Tăng cường, nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục và vận động nâng
cao nhận thức, chuyển đổi hành vi.
 Phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể, thành viên trong huyện có
trách nhiệm giám sát, đánh giá, chỉ đạo, phụ trách các hoạt động truyền thông trên
từng địa bàn. Tạo mọi điều kiện để lồng ghép các hoạt động tuyên truyền
DS/KHHGĐ với các chương trình dự án khác làm phong phú thêm nội dung tuyên
truyền giáo dục tại cơ sở.
 Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và hiệu quả quản lý chương trình; đẩy
mạnh và phát triển các hình thức Truyền thông có hiệu quả về DS/KHHGĐ đảm
bảo các điều kiện, KHHGĐ.
 Xây dựng các thông điệp ”Hãy để việc sinh con trai hoặc con gái một
cách tự nhiên” đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, các ấn phẩm truyền thông
về hậu quả của lựa chọn giới tính thai nhi cần được tăng cường chuyển thể sang
tiếng địa phương, tiếng dân tộc, như tiếng thái để học hiểu và làm theo
 Mở rộng các đợt chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ – kế hoạch
hoá gia đình đến các bản xa, nhằm đạt được mục tiêu đa số các cặp vợ chồng trong
độ tuổi sinh đẻ đều hiểu được hậu quả của lựa chọn giới tính.


Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

19


 Đảm bảo cung cấp đầy đủ các tài liệu, tờ rơi, tờ gấp, tranh lật, áp phích...Đẩy
mạnh công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao
sự hiểu biết cho nhân dân.
 Xây dựng mô hình Truyền thông.
 Câu lạc bộ phụ nữ không sinh con thứ 3, tăng các gia đình điển hình tiêu
biểu, mô hình chuẩn mực phù hợp với từng địa phương, từng đối tượng.
 Tuyển chọn đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số thôn, bản có
lòng nhiệt tình, tâm huyết với công tác dân số. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo
và đào tạo lại, tạo cho họ thật sự là những tuyên truyền viên giỏi, yêu ngành đáp
ứng được công tác tuyên truyền về Dân số – KHHGĐ đến với mọi tầng lớp nhân
dân.
 Chỉ đạo bằng văn bản xuống các xã, thôn bản thực hiện theo tháng, quý,
năm.
 Tăng cường việc truyền thông trực tiếp tới các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ đồng bào dân tộc thiểu số biết ít tiếng phổ thông, giải thích bằng tiếng dân
tộc cho họ hiểu.
 Tăng cường tuyên truyền lưu động trên các vùng có đông dân tập trung,
nhằm làm cho họ hiểu biết về công tác Dân số-KHHGĐ.
 Tổ chức mít tinh, kỷ niệm các ngày lễ lớn của ngành: Tổ chức kỷ niệm ngày
dân số thế giới 11/7 và ngày dân số Việt Nam 26/12 tổ chức hội thi cộng tác viên,
tuyên truyền viên giỏi, đưa nội dung dân số –kế hoạch hoá gia đình vào các
chương trình văn nghệ, múa hát đóng kịch. Nhằm nâng cao kĩ năng truyền thông
và để cộng tác viên dân số học hỏi và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Không ngừng
nâng cao kĩ năng, phương tiện truyền thông Dân số- KHHGĐ cấp xã, thôn bản, tư
vấn và cung cấp dịch vụ giúp họ lựa chọn và sử dụng và các biện pháp tránh thai

phù hợp.
 Cung cấp đầy đủ và thường xuyên đa dạng hoá các biện pháp tránh thai có
chất lượng, chú trọng cung cấp dịch vụ và nâng cao kĩ thuật đảm bảo vệ sinh vô
khuẩn tại điểm làm dịch vụ ở các trạm y tế xã.
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

20


 Tăng cường cung cấp thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và mất cân
bằng giới tính khi sinh cho người dân, trước hết là các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ, những người cung cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai,
những người có uy tín trong cộng đồng nhằm hạn chế các hành vi không phù hợp
với việc sinh đẻ theo qui luật tự nhiên
 Tăng cường và duy trì các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, tư vấn hướng
tới các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ ,truyền thông chuyển đổi hành vi tại
cộng đồng nhằm góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của người dân để phòng
ngừa có hiệu quả tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh.
 Tổ chức tuyên truyền trên các bản tin, trang thông tin điện tử của xã và hệ
thống truyền thanh của xã. Xây dựng mới các cụm panô tuyên truyền về nội dung
nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính khi sinh đặt tại địa bàn tập trung đông dân cư
của xã. Treo các biểu ngữ, băng rôn, nói chuyện chuyên đề về “Giới tính khi
sinh, hậu quả và hệ lụy của lựa chọn giới tính thai nhi” tại các tụ điểm sinh
hoạt câu lạc bộ ông bà cháu, câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ tiền hôn
nhân…và tại trạm y tế xã, văn phòng UBND xã.

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

21



PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Công tác Dân số –KHHGĐ là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Mục tiêu quan trọng của chương trình là giảm tỷ lệ
tăng Dân số, qua đó nâng cao chất lượng, cải thiện đời sống nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu của chương trình DS/KHHGĐ, ta phải có một đội ngũ
cán bộ làm công tác Dân số vững vàng về nghiệp vụ, nhiệt tình với công việc đồng
thời nhạn thức được tầm quan trọng của công tác Dân số. Muốn làm tốt công tác
Dân số, người cán bộ phải có năng lực, uy tín đối với nhân dân, đặc biệt là đội ngũ
hùng hậu chuyên trách, CTV ở cơ sở đựơc trang bị cơ bản về kiến thức quản lý
chương trình Dân số và truyền thông tư vấn, vận động đối tượng phối hợp với cơ
quan, ban ngành, đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng, già làng trưởng bản
cùng vào cuộc tham gia tuyên truyền làm cho mọi người dân hiểu rõ mục địch, ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác Dân số/KHHGĐ. Từng bước làm chuyển biến,
thay đổi nhận thức và đối tượng lựa chọn chấp nhận BPTT hiệu quả. Ngoài ra chú
trọng đưa dịch vụ KHHGĐ, đáp ứng nhu cầu sử dụng, hạn chế mang thai ngoài ý
muốn, tạo niềm tin, yên tâm của nhân dân là điều kiện tốt để người dân tập trung
làm ăn, phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống, xoá đói, giảm nghèo
ngay trên quê hương.
Xã Mường Bon coi trọng công tác này, trong những năm qua đã chú trọng đẩy
mạnh công tác truyền thông giáo dục, thay đổi hành vi về DS/KHHGĐ rộng rãi,
đẩy lùi tư tưởng và phong tục tập quán lạc hậu “Trọng nam, khinh nữ”, xây dựng
các mô hình Văn hoá mới, trên cơ sở vợ chồng cùng nhận thức được và cùng nhau
thực hiện sinh đẻ có kế hoạch “Hãy để việc sinh con trai hay con gái một cách tự
nhiên”.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh tại xã Mường
Bon, gồm có: Tỷ lệ ý kiến thích con trai chiếm 70%, trong khi đó số người thích
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La


22


con gái chỉ chiếm 10%, còn lại 20% là chấp nhận con trai hay con gái đều tốt.
Như vậy vấn đề trọng nam khinh nữ đã thể hiện rất rõ trên thực tế. Lý do muốn
sinh con trai để có nếp có tẻ chiếm 37,1%, tiếp đến là chỗ dựa khi về già, bệnh
tật 31,1%; thứ ba là nối dỗi tông đường 25%. Có 22,5% bà mẹ được phỏng vấn
cho rằng họ có biết đến biện pháp sinh con theo ý muốn; có 18,6% các bà mẹ đã áp
dụng biện pháp sinh con theo ý muốn trong lần sinh đầu; có 84,4% bà mẹ biết giới
tính của trẻ trước sinh, tất cả đều bằng siêu âm; có 62,8% bà mẹ siêu âm ở cơ sở y
tế tư nhân, còn 37,2% siêu âm tại cơ sở y tế nhà nước. Để biết được giới tính của
thai nhi, có 91% bà mẹ cho rằng không có khó khăn gì trong việc hỏi người siêu âm
về giới tính của trẻ; có 51,9% bà mẹ cho là có việc nạo phá thai vì lý do giới tính ở
địa phương.
Khi đạt được sự ổn định, chỉ lo phát triển kinh tế, sản xuất ra của cải vật chất
thì chắc chắn sẽ nâng cao được mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người
dân. Theo nghiên cứu người ta thấy cứ giảm được tỷ lệ tăng Dân số 1% cũng có
nghĩa là đưa mức tăng trưởng kinh tế lên 1%. Điều đó chúng ta thấy được tác dụng
to lớn của việc thực hiện KHHGĐ. Mặt khác KHHGĐ còn nâng cao và đảm bảo
sức khoẻ cho phụ nữ, tránh việc nạo hút thai, hút điều hoà kinh nguyệt ngoài ý
muốn, để nâng cao chất lượng giống nòi.
Xuất phát từ nhận thức thực tiễn qua phong trào cho thấy, nơi nào có sự đầu
tư và thực sự quan tâm, cổ vũ động viên quần chúng nhân dân thực hiện tốt CVĐ
sinh đẻ có kế hoạch thì nơi đó sẽ đạt kết quả cao trong công tác Dân số – KHHGĐ.
Đối với xã Mường bon – huyện Mai sơn – tỉnh Sơn la, xác định công tác Dân
số – KHHGĐ đóng vai trò hết sức quan trọng, nên các cấp, các ngành từ huyện đến
mỗi cơ sở đều đang nỗ lực phấn đấu, quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác Dân
số. Nhằm thực hiện có hiệu quả về công tác DS – KHHGĐ nói chung và tăng
cường đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, chuyển đổi hành vi Dân số –

KHHGĐ nói riêng. Mục tiêu xã Mường bon ổn định về số dân, quần chúng thi đua
phát triển sản xuất, nâng cao tổng thu nhập, xây dựng xã ngày một tiến cao, tiến
xa, vững chắc trên con đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

23


Trong thời gian ngắn, được sự truyền thụ kiến thức của các thầy giáo, cô giáo
tôi đã hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên khoá luận còn nhiều thiếu sót, tôi rất
mong sự động viên của các thầy, các cô và các bạn đồng nghiệp trong lớp để khoá
luận của tôi hoàn thiện hơn. Trở về địa phương bản thân sẽ vận dụng phục vụ công
tác Dân số –KHHGĐ ngày một tốt hơn.
2. Kiến nghị.
* Đối với Trung ương, Tỉnh
- Bám sát chỉ đạo thực hiện, ra các văn bản, hướng dẫn ổn định tốt tổ chức bộ
máy làm công tác Dân số – KHHGĐ. Theo đó phải được xây dựng và kiện toàn ổn
định từ huyện đến cơ sở, tránh tình trạng cán bộ chuyên trách và cộng tác viên hay
bị thay đổi, thiếu yên tâm công tác. Đồng thời cần phải có cơ chế tuyển dụng cán
bộ hợp lý chống sự chồng chéo, chế độ đãi ngộ phải thoả đáng. Có như vậy mới
tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ làm công tác Dân số – KHHGĐ và có điều kiện
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, năng lực cho công tác viên cơ sở có tính bền
vững, lâu dài
- Có chính sách ưu đãi, động viên, khen thưởng kịp thời để khuyến khích các
tập thể và cá nhân thực hiện tốt chính sách Dân số – KHHGĐ.
- Tiếp tục đầu tư nguồn lực, nhân lực, trang thiết bị cho công tác Truyền thông
về Dân số – KHHGĐ tại tuyến cơ sở, ưu tiên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và
vùng đặc biệt khó khăn.
- Các Trạm y tế xã cần được quan tâm nâng cấp, trang bị dụng cụ thiết bị,
tăng cán bộ y tế để đảm nhận khâu dịch vụ KHHGĐ kịp thời cho người thực hiện

và bằng nghiệp vụ, thái độ phục vụ “Lương y như từ mẫu” đề cao ý thức trách
nhiệm vủa các nhân viên y tế, tạo niềm tin, phục vụ tốt cho nhân dân.
- Ngoài ra cần tăng thêm nguồn kinh phí hoạt động truyền thông Dân sốKHHGĐ ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tăng tiền thù lao và đóng BHXH động viên tinh thần, nâng cao lòng nhiệt
tình, say mê cho đội ngũ làm công tác DS/KHHGĐ tuyến xã, thị trấn

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

24


- Nhà nước cần có chế tài xử lý đối với trường hợp cố tình vi phạm chính sách
Dân số – KHHGĐ như sinh con thứ 3 trở lên, đặc biệt đối tượng là Đảng viên, cán
bộ công chức các cấp.
* Đối với cấp Huyện, xã
- Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng đối với các ngành, đoàn thể, cấp uỷ, chính
quyền từ huyện đến cơ sở để phối hợp lồng ghép công tác Truyền thông Dân số –
KHHGĐ trên địa bàn huyện.
- Ngoài ra cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, thôn, xóm, khu dân cư cần
quan tâm hơn nữa đối với công tác Dân số- KHHGĐ. Dưới sự lãnh đạo của các
cấp phải nghiêm túc quán triệt cấp mình, ngành mình, đoàn thể và nhân dân thực
hiện tốt các đợt triển khai chiến dịch lồng ghép truyền thông, giáo dục tư vấn và
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản –KHHGĐ một cách đồng bộ và có
hiệu quả.
- UBND huyện và UBND các xã, thị trấn cần trích nguồn ngân sách địa
phương hỗ trợ công tác Truyền thông Dân số – KHHGĐ tại cơ sở để góp phần xây
dựng triển khai công tác Truyền thông đạt kết quả cao hơn.
- Đối với Ban Dân số – KHHGĐ cần tham mưu cho UBND xã, Thị trấn xây
dựng kế hoạch cho công tác truyền thông triển khai hoạt động tốt trên địa bàn.
Trong đó cần đặc biệt làm tốt công tác Truyền thông tại các vùng, khu dân cư khó

khăn, có mức sinh cao trên địa bàn./.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo và các bạn./.

Mường Bon ngày 20 tháng 06 năm 2017

Trìn Duy Bình – Trạm y tế xã Mường Bon. Mai sơn, Sơn La

25


×