Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Giáo dục nếp sống văn hoá ở cộng đồng dân cư góp phần xây dựng nông thôn mới tại xã bình kiến thành phố tuy hòa, tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 113 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN NHẬT QUANG

GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN HÓA Ở CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN TẠI XÃ BÌNH KIẾN
THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Bình
HÀ NỘI, NĂM 2017


2
LỜI CẢM ƠN
Giáo dục nếp sống văn hóa ở cộng đồng dân cư đáp ứng yêu cầu xây dựng
nông thôn mới tại xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên là đề tài mà tôi
rất tâm huyết. Trên cơ sở lý luận, vốn kiến thức đã được tiếp thu trong quá trình học
tập, nghiên cứu, làm việc, dưới sự giảng dạy, hướng dẫn của các giảng viên, sự
cộng tác giúp đỡ của các đồng nghiệp và các tư liệu, tài liệu được sử dụng... Luận
văn tốt nghiệp của tôi đã được hoàn thành.
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo,
các nhà khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập. Xin cảm Phòng văn hóa và thông tin, Phòng Kinh tế
thành phố Tuy Hòa, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân xã Bình Kiến, cảm ơn bạn bè đồng


nghiệp đã giúp đỡ, động viên tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS.
Nguyễn Thị Thanh Bình - người cô trực tiếp hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù hết sức cố gắng, nhưng luận văn là một công trình nghiên cứu với khả
năng của bản thân, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của quí thầy, cô, các nhà khoa học và ý kiến đóng
góp chân tình của các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 7 năm 2017

Trần Nhật Quang


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên
cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Tác giả luận án

Trần Nhật Quang


4
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................2
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................................2
4. Giả thuyết khoa học ...........................................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................................3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................................................................................3
7. Phương pháp nguyên cứu ..................................................................................................3
8. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................................4
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN HÓA CHO
CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ .....................................................................................................5
1.1. Tổng quan nguyên cứu vấn đề ........................................................................................5
1.1.1 Kinh nghiệm giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở một số nước trên
thế giới. ..................................................................................................................................7
1.1.2 Kinh nghiệm giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở tỉnh Phú Yên ......16
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài ..............................................................................21
1.2.1 Khái niệm giáo dục .....................................................................................................21
1.2.2 Khái niệm nếp sống ....................................................................................................22
1.2.3 Khái niệm văn hóa ......................................................................................................22
1.2.4 Khái niệm về cộng đồng dân cư .................................................................................23
1.3. Xây dựng Nông thôn mới .............................................................................................24
1.3.1 Mục tiêu ......................................................................................................................25
1.3.2 Nội dung xây dưng nông thôn mới .............................................................................25
1.3.3 Các tiêu chí xây dựng nông thôn mới .........................................................................26
1.4. Giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở nông thôn ..................................30
1.4.1 Một số đặc điểm tâm lý của người nông dân hiện nay ...............................................30


5

1.4.2 Giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở nông thôn ...............................33
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ....46
Kết luận chương 1 ...............................................................................................................48
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN HÓA CHO CỘNG
ĐỒNG DÂN CƯ Ở XÃ BÌNH KIẾN, THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN. .50
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Bình Kiến....................................50
2.1.1. Điều kiện tự nhiên......................................................................................................50
2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội ..............................................................................50
2.2. Tổ chức và phương pháp khảo sát thực trạng...............................................................52
2.2.1 Mục đích khảo sát .......................................................................................................52
2.2.2 Nội dung khảo sát .......................................................................................................53
2.2.3 Đối tượng khảo sát .....................................................................................................53
2.2.4 Phương pháp khảo sát ................................................................................................53
2.3. Thực trạng nếp sống văn hóa của cộng đồng dân cư xã Bình Kiến .............................54
2.4. Thực trạng giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư tại xã Bình Kiến, thành
phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên .................................................................................................60
2.4.1. Về xây dựng tư tưởng và hệ thống chính trị cơ sở ....................................................60
2.4.2 Về phương diện phát triển kinh tế. .............................................................................62
2.4.3 Xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa. ........................................................................63
2.4.4. Công tác truyền thông, tuyên tuyền nếp sống văn hóa. .............................................64
2.4.5. Văn hóa ứng xử nơi công cộng ..................................................................................67
2.4.6 Về quá trình triển khai thực hiện cuộc vận động” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” tại xã Bình Kiến ....................................................................68
2.5. Đánh giá thực trạng ......................................................................................................73
2.5.1 Đánh giá chung ..........................................................................................................73
2.5.2 Nguyên nhân thực trạng .............................................................................................75
Kết luận chương 2 ...............................................................................................................75


6

CHƯƠNG 3 HỆ THỐNG BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN HOÁ ................................................................................76
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp ......................................................................................76
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu ............................................................................76
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống. (Tính đối tượng, văn hóa, vùng miền giáo dục
nếp sống văn hóa cho người dân) .......................................................................................77
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn. (Sự phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể
nâng cao chất lượng, nội dung giáo dục nếp sống văn hóa cho người dân). .....................79
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi (Văn hóa của xã Bình Kiến phải được nhìn nhận,
xem xét từ sự đặc trưng trong tính đa dạng của văn hóa Việt Nam). .................................80
3.2. Các biện pháp giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến,
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. ......................................................................................80
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ và cộng đồng dân cư về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của công tác giáo dục nếp sống văn hoá. ..................................................................80
3.2.2. Xây dựng hệ thống các chính sách tạo cơ sở cho công tác giáo dục nếp sống văn
hoá cho cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến..........................................................................82
3.2.3. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục nếp sống văn hoá cho người
dân cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến ................................................................................83
3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực cho công tác giáo dục nếp sống văn hoá cho cộng đồng
dân cư. .................................................................................................................................84
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp ...................................................................................85
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất ........................86
3.4.1. Mục đích khảo nghiệm...............................................................................................86
3.4.2. Nội dung khảo nghiệm ...............................................................................................86
3.4.3. Đối tượng khảo nghiệm .............................................................................................87
3.4.4. Kết quả khảo nghiệm .................................................................................................88
Kết luận chương 3 ...............................................................................................................90
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...........................................................................................91
1. Kết luận............................................................................................................................91
2. Kiến nghị .........................................................................................................................92



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc thực hiện Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
(TDĐKXDĐSVH) là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện Nghị
quyết TW 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Cụ thể, Phong trào TDĐKXDĐSVH được gắn chặt với việc thực hiện Chỉ
thị số 27/CT-TW về xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
và công tác “Xây dựng nông thôn mới” được triển khai vài năm gần đây. Thực chất,
Phong trào nhằm xây dựng nếp sống văn hóa trong cộng đồng dân cư và có tính
tổng hợp cao ở nội dung thực hiện (rộng, trên mọi lĩnh vực), hiệu quả trên nhiều
mặt (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…), với sự tham gia của tất cả các ban ngành,
đoàn thể và toàn thể nhân dân.
Giáo dục nếp sống văn hoá cho cộng đồng dân cư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay phải biết gìn giữ và phát
huy các giá trị tinh hoa trong di sản văn hóa truyền thống ở cơ sở, đặc biệt là từ di
sản hương ước lệ làng, kết hợp với công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục người
dân tuân thủ chính sách, pháp luật của nhà nước, các điều khoản của qui ước văn
hóa mới, thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở... là phương thức hữu hiệu cho việc thực
hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" gắn với" Xây
dựng nông thôn mới" ở xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Xã Bình Kiến là một xã nằm ở phía bắc thành phố Tuy Hòa, cư dân sống chủ
yếu làm nông nghiệp, từ năm 2010 chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới được triển khai và với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội chung của thành
phố quyết tâm đưa xã Bình Kiến lên đơn vị quản lý hành chính cấp phường vì vậy
tốc độ đô thị hóa ở đây diễn ra mạnh mẽ, đất sản xuất dần bị thu hẹp, việc chuyển
đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác chưa phù hợp với sự
phát triển kinh tế và thực trạng đó ở xã Bình Kiến nói riêng và các xã thuộc thành

phố Tuy Hòa nói chung càng diễn ra ngày càng mạnh mẽ... Kéo theo đó là sự thay
đổi trong nếp sống từ nếp ăn, ở, mặc, giao tiếp cho đến các sinh hoạt văn hoá như
hưởng thụ các tác phẩm văn hoá, sáng tạo văn hoá rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn


2
mực, các phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và
tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do
những biến đổi kinh tế xã hội. Đã có một số tác giả nguyên cứu nếp sống văn hóa,
giáo dục văn hóa truyền thống…Tuy nhiên, chưa có công trình nguyên cứu nếp
sống văn hóa trong phạm vi nhỏ của một xã vùng ven thành phố như ở xã Bình
Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Xuất phát từ các lý do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Giáo dục nếp
sống văn hóa ở cộng đồng dân cư góp phần xây dựng nông thôn mới tại xã
Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nguyên cứu lý luận và thực tiễn giáo dục nếp sống văn hóa cho
cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người dân, góp phần xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến,
thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
3.2 Đối tượng nguyên cứu
Biện pháp giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư tại xã Bình
Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý và giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư tại xã
Bình Kiến hiện nay đã được triển khai nhưng còn nhiều hạn chế nên hiệu quả chưa

cao. Nếu các biện pháp đảm bảo tính khoa học, tính khả thi thì sẽ nâng cao hiệu
quả, chất lượng của công tác này.


3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài cho nghiên cứu thực tiễn và đề xuất
giải pháp bao gồm làm rõ các khái niệm( Giáo dục, văn hóa, nếp sống văn hóa,
giáo dục nếp sống văn hóa....)
5.2 Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục nếp sống văn hóa, các biện
pháp giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở xã Bình Kiến, thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
5.3 Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục nếp sống
văn hóa góp phần xây dựng nông thôn mới tại xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa,
tỉnh Phú Yên.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu 4/4 thôn trên địa bàn xã Bình
Kiến, thanh phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Giới hạn về đối tượng thực nghiện: Đề tài thực nghiệm các biện pháp giáo
dục nếp sống văn hóa cho người dân trong cộng đồng dân cư góp phần xây dựng
nông thôn mới tại xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Chủ thể thực hiện giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư là chính
quyền địa phương, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Hội đoàn thể và toàn thể
nhân dân trên địa bàn xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
7. Phương pháp nguyên cứu
7.1 Phương pháp nguyên cứu tài liệu, văn bản
Mục đích sử dụng phương pháp thu thập và nghiên cứu tài liệu là để nghiên
cứu các văn bản pháp luật, các quy định, kế hoạch, hướng dẫn của nhà nước về xây
dựng nông thôn mới, các phong trào xây dựng nếp sống văn hóa ở khu dân cư giai
đoạn 2015-2020 trên địa bàn thành phố Tuy Hòa.

7.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mục đích sử dụng phương pháp này là thông qua các phiếu hỏi nhằm tìm
hiểu nhận thức về vai trò, vị trí của người dân và thực trạng nếp sống văn hóa cũng
như đề ra các biện pháp giáo dục nếp sống văn hóa cho người dân.
7.3 Phương pháp quan sát


4
Phương pháp này sử dụng nhằm khẳng định tính khoa học và hiệu quả thực
tiễn của các biện pháp đã đề xuất.
7.4 Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng toán thống kê để thu thập, xử lý số liệu nghiên cứu thực trạng và
thực nghiệm sư phạm.
7.5 Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia nghiên cứu về nếp sống văn hóa, xây dựng nông thôn
mới, làm công tác quản lý, giáo dục trong việc đề xuất các biện pháp giáo dục nếp
sống văn hóa cho người dân
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị luận văn được kết cấu thành ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư
Chương 2: Thực trạng giáo dục nếp sống văn hóa ở xã Bình Kiến,thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Biện pháp giáo dục nếp sống văn hoá cho cộng đồng dân cư ở xã
Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.


5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NẾP SỐNG VĂN HÓA

CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
1.1. Tổng quan nguyên cứu vấn đề
Trong quá trình phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội hiện nay có nhiều thay
đổi, có sự giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới, xu thế hội nhập toàn cầu mà
Việt Nam cũng không năm ngoài xu thế phát triển hội nhập phát triển. Trong nhiều
bài viết, các công trình nghiên cứu về văn hóa cụm từ “đời sống”, “nếp sống văn
hóa” được sử dụng nhiều. Đây là cụm từ mới được sử dụng ở nước ta vào những
năm 80, 90 của thế kỷ XX. Trong tác phẩm “ Đời sống mới” Chủ tịch Hồ Chí
Minh, dưới bút danh Tân Sinh được viết vào tháng 3/2017, Người viết:” Người là
gốc của làng, nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới, thì nhất định dân
tộc sẽ phú cường”.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác
định rằng: "Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh và vì sự phát triển con người toàn diện, bền vững.
Văn hoá gắn liền với con người và văn hoá phải gắn với sự phát triển, văn hoá là
đổi mới”. Đây là Nghị quyết đầu tiên, toàn diện của Trung ương Đảng về văn hoá,
không những đã đúc kết và hoàn chỉnh các quan điểm chỉ đạo đối với việc xây dựng
và phát triển nền văn hoá cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà còn đề ra các nhiệm vụ cơ bản nhất của
Đảng về văn hoá từ nay về sau trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (7/2004) tiếp
tục được khẳng định và phát triển sâu sắc hơn tại, với những quan điểm nhất quán,
xuyên suốt mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải quán triệt và thực hiện là:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.



6
- Văn hoá của chúng ta là nền văn hoá thống nhất và đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ tri thức đóng vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Với nhận thức toàn diện và hiện đại về văn hoá như vậy Đảng ta đã đề ra mục
tiêu phấn đấu mà cái đích cuối cùng phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ
về chất lượng với 4 giải pháp chủ yếu, 10 nhiệm vụ cụ thể, trong đó chỉ rõ 3 nội
dung nhiệm vụ trọng tâm là:
- Một là: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân,
gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở.
- Hai là: Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng đời sống con
người Việt Nam theo 5 đặc tính được xác định trong nghị quyết Trung ương 5 khoá
VIII.
- Ba là: Chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở nhất là cộng đồng dân
cư, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tốt đẹp, phong phú.
Quan điểm của Bác Hồ đã chỉ rõ “xây dựng nếp sống mới là quá trình làm
cho lối sống mới dần thành thói quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và
phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc”. Thực tế các tiêu chí xây
dựng đời sống văn hoá và nông thôn mới có mối quan hệ với nhau rất hữu cơ vừa
nâng cao đời sống văn hoá vừa đáp ứng đời sống vật chất.
Quá trình lịch sử và những công trình nghiên cứu về văn hóa, xây dựng nếp
sống văn hóa Việt Nam thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
con người mới, là vấn đề chiến lược, mặt khác những nhiệm vụ quan trọng đó phải
được thực hiện có tính chất thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài nhằm
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu hội nhập và phát triển của đất nước, qua đó thể hiện



7
rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng nếp sống văn hóa cho người dân,
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.1.1 Kinh nghiệm giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở một
số nước trên thế giới.
1.1.1.1 Kinh nghiệm giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở
Nhật Bản.
Nhật Bản là quốc gia thuộc vào hàng các nước phát triển nhất trên thế giới.
Những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của Nhật Bản, đặc
biệt là sự kết hợp hài hòa của nền văn hóa với khoa học kỹ thuật hiện đại, giữa "kỹ
thuật phương Tây" với "văn hóa truyền thống" trong xã hội Nhật Bản hiện đại, đã
buộc nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới phải quan tâm. Người ta cố gắng tìm hiểu,
nghiên cứu quá trình hiện đại hóa xã hội ở Nhật Bản để từ đó rút ra những kinh
nghiệm và bài học cho mình. Một trong các vấn đề được quan tâm nhiều nhất là vấn
đề vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hiện đại hóa kinh tế
- xã hội Nhật Bản. Nói cách khác, người ta cố tìm lời lý giải cho câu hỏi: tại sao
Nhật Bản vẫn giữ “bản sắc” văn hóa - xã hội truyền thống của mình trong quá trình
tiến hành thành công công cuộc hiện đại hóa kinh tế - xã hội?
Điều chúng ta cần lưu ý rằng, trước hơn hết các chuyên gia Nhật Bản học đã
xây dựng cả một lý thuyết hiện đại hóa Nhật Bản. Cách tiếp cận chiếm ưu thế đối
với việc nghiên cứu quá trình hiện đại hóa ở Nhật Bản chính là "lý thuyết hiện đại
hóa" dưới hình thức ban đầu của nó. Theo lý thuyết này, khái niệm hiện đại hóa đã
ra đời với tư cách là câu trả lời cho vấn đề tìm kiếm con đường phát triển cho các xã
hội "truyền thống” của phương Đông theo mô hình của xã hội "hiện đại" của
phương Tây. Như vậy, khi áp dụng vào Nhật Bản, hiện đại hóa được hiểu là quá
trình cải biến xã hội "phương Đông" thành xã hội "phương Tây", hay nói cách khác,
là quá trình Tây hóa. Khi đó, xã hội phương Tây được hiểu là một nền văn minh
phát triển hơn, do những quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa nội sinh, tự

phát tạo ra. Theo chúng tôi, cách tiếp cận đó có trong một chừng mực nhất định và
với nghĩa đó, Nhật Bản là một mẫu mực về sự cải biến xã hội "truyền thống" thành
xã hội "hiện đại".


8
Trung tâm của quá trình xây dựng xã hội hiện đại (hiện đại hóa) là cách tiếp
cận trên xuất phát từ chỗ coi con người cùng với khả năng tự do thể hiện và tự do
phát triển của nó. Thực tế xã hội phương Tây hiện đại đã đạt được những thành tựu
đáng kể trên bình diện ấy, nó đã tạo ra và khẳng định hàng loạt giá trị nhân văn có
tính phổ biến toàn nhân loại, con người có đủ các quyền như tự do cá nhân và các
quyền khác của con người, chủ quyền chính trị, quyền dân tộc tự quyết, v.v.. Bất kỳ
xã hội nào đang tiến hành hiện đại hóa cũng dần hướng tới những giá trị ấy, mặc dù
không dừng lại ở nội dung hạn chế, mang tính giai cấp của chúng.
Song, cách tiếp cận nêu trên cũng làm nảy sinh những vấn đề nan giải, có liên
quan tới các nội dung cụ thể của hiện đại hóa. Vấn đề là ở chỗ, cách tiếp cận nêu
trên giả định phải chuyển tải, vay mượn các giá trị kinh tế - xã hội, chính trị và văn
hóa xã hội từ các nước phát triển đưa vào các nước kém phát triển, bất chấp quốc
gia đang hiện đại hóa có hay không có độc lập về kinh tế và chính trị. Nói cụ thể
hơn, hiện đại hóa chủ yếu do các nhân tố ngoại sinhquy định. Mặt khác, không ai
có thể phủ định con đường phát triển đặc thù của Nhật Bản, bộ mặt độc đáo
"phương Đông" của xã hội Nhật Bản hiện đại, của văn hóa và con người Nhật Bản.
Chính vì vậy, một số tác giả đã nói tới chủ nghĩa tư bản phật giáo với tư cách là cái
chủ yếu để chỉ xã hội Nhật Bản hiện đại và theo chúng tôi, mấu chốt của vấn đề
chính là ở đây, tức là vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình
hiện đại hóa xã hội Nhật Bản.
Đã có lý khi khẳng định rằng, cho dù hiện đại hóa diễn ra trên quy mô toàn
cầu, song nó vẫn không dẫn tới một nền văn minh toàn cầu đồng nhất về cơ cấu
chính trị và văn hóa. Các cơ cấu xã hội, văn hóa truyền thống của xã hội đang hiện
đại hóa không những không bị triệt tiêu, mà còn tích cực "phản kháng" lại các nhân

tố chính trị và văn hóa ngoại lai. Do vậy, hiện đại hóa làm phong phú nền văn hóa
thế giới nhờ có sự tiếp biến giữa các nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Tóm lại, hiện đại hóa không có một hình thức phổ biến, chung cho tất cả các
nước. Các giá trị văn hóa có tính độc lập tương đối và chính chúng quy định hình
thức, cũng như mục đích và các phương pháp cụ thể của quá trình hiện đại hóa. Đối
với xã hội Nhật Bản, tinh thần cộng đồng có thể coi là một trong các giá trị văn hóa


9
như vậy. Một đặc điểm đặc trưng nữa cho tinh thần người Nhật Bản là khả năng
thích nghi rất cao với các giá trị văn hóa ngoại lai, là sự kết hợp hài hòa giữa truyền
thống văn hóa dân tộc với truyền thống văn hóa du nhập. Hiện nay, khó có thể chỉ
ra cái gì là đặc thù dân tộc, cái gì là vay mượn trong xã hội Nhật Bản hiện đại. Tất
cả mọi thứ trong xã hội Nhật Bản dường như đan quyện với nhau như một khối hợp
kim thống nhất, điều này đã trở thành một truyền thống văn hóa của người Nhật
Bản.
Truyền thống ở đây được hiểu không đơn giản là một cơ chế sinh hoạt hay
một cơ chế kinh tế, mà là một cơ chế phổ biến, nó tổ chức mọi chức năng xã hội cho
phù hợp với các quy tắc ứng xử nhất định. Nói cách khác, truyền thống là cái kho
chứa những đặc điểm chính yếu nhất của sinh hoạt xã hội và sinh hoạt văn hóa của
một xã hội hay của một nền văn minh.
Nhìn từ góc độ này thì đặc điểm đặc trưng cho hiện đại hóa xã hội Nhật Bản
là quá trình chuyển hóa mang tính tiến hóa của các truyền thống dân tộc. Những
yếu tố mới chỉ gia nhập vào cơ cấu cũ, cùng tồn tại song song với nó mà không phá
vỡ nó. Những yếu tố này dần dần cũng thay đổi để thích nghi với cơ cấu cũ và cùng
với nó tạo thành một hệ thống mới. Nói cách khác, quá trình "Âu hóa", hiện đại hóa
xã hội Nhật Bản được tiến hành không phải trên cơ sở phủ định các cơ cấu truyền
thống, mà theo con đường tích cực sử dụng chúng.
Như vậy, khác với Trung Quốc và một số nước châu Á, Nhật Bản đã biết
cách đáp lại sự thách thức của phương Tây. Và, nguyên nhân thành công của người

Nhật Bản là ở chỗ, họ không cố bám lấy cái độc đáo của mình, mà tích cực lĩnh hội
các giá trị văn hóa phương Tây. Điều này thể hiện rất rõ qua những biểu hiện sinh
hoạt hàng ngày của người Nhật Bản, như ăn mặc, hưởng thụ âm nhạc, thưởng thức
nghệ thuật, kiến trúc, v.v..
Chính chức năng tách hợp như vậy của văn hóa truyền thống Nhật Bản đã
góp phần làm cho các cuộc cải cách ở Nhật Bản diễn ra một cách dần dần, không
gây ra các chấn động xã hội. Có thể nói, giải quyết mâu thuẫn bằng con đường thỏa
hiệp là một truyền thống của người Nhật Bản. Thí dụ, đặc điểm đặc trưng cho cải
cách Minh Trị là sự thỏa hiệp giữa lực lượng bảo thủ với lực lượng đổi mới. Kết


10
quả của sự thỏa hiệp đó là tiến hành cải cách xã hội dựa trên cơ sở bảo vệ hàng loạt
giá trị văn hóa truyền thống, làm cho chúng thích nghi với điều kiện mới và trở
thành cái định hướng, điều tiết quá trình cải cách. Theo chúng tôi, điều đó không có
nghĩa là xã hội Nhật Bản trì trệ, không trải qua các cuộc "cách mạng". Ngược lại, nó
đã chứng tỏ những "kỳ tích Nhật Bản", đã hiện đại hóa thành công đất nước, chỉ có
điều là nó đã trải qua một cách "nhẹ nhàng" nhờ các giá trị văn hóa truyền thống
đóng vai trò "cái giảm xóc" của quá trình ấy.
Mặc dù chế độ Minh Trị là chế độ phong kiến tập quyền, song nó vẫn có khả
năng đưa Nhật Bản đột phá vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Vậy nguyên
nhân ở đây là gì?
Các nhân tố văn hóa xã hội đã đóng một vai trò to lớn trong quá trình "Âu
hóa" xã hội Nhật Bản. Chế độ phong kiến Nhật Bản đã bảo đảm một trình độ giáo
dục rất cao, do tác động của quan niệm Nho giáo về giáo dục, cho nên đông đảo các
tầng lớp xã hội tuy khác nhau, nhưng đều cố gắng đạt đến trình độ học vấn cao nhất
có thể. Thí dụ, vốn xuất thân từ tầng lớp dưới, thầy thuốc Ohia Sorai đã trở thành
người cách tân nền triết học truyền thống, lối tư duy truyền thống của người Nhật
Bản khi ông gắn liền triết học với hoạt động của con người, với vai trò của khoa học
và qua đó, tạo ra "triết học thực tiễn". Như vậy, biến thể dân tộc của Nho giáo đã

chuẩn bị cơ sở để tiếp nhận văn hóa châu Âu. Đúng như Benép nhận xét: "Đứng
đằng sau sự phục hưng của Minh Trị không phải là Lốccơ hay Ruxô..., mà chỉ là
một nhóm người trẻ tuổi có tư tưởng cầu thị, ham học, trung thành với Nhật Bản,
song cũng có một nhãn quan quảng bác về tương lai".
Do rất lạc hậu so với phương Tây về khoa học, kỹ thuật, nên để tiến hành
hiện đại hóa đất nước, Nhật Bản buộc phải tiếp thu khoa học, kỹ thuật của phương
Tây, song không thể làm được điều đó nếu không tiếp nhận những giá trị tinh thần
của phương Tây. Giới cầm quyền Nhật Bản cố tiếp thu những tư tưởng góp phần
phát triển kinh tế. Do vậy, họ đã đưa ra khẩu hiệu "tinh thần Nhật Bản - kỹ thuật
phương Tây". Tinh thần Nhật Bản có nghĩa là văn hóa truyền thống, là khẳng định
vai trò thế giới quan, các giá trị tinh thần và hệ tư tưởng nhà nước quan phương.


11
Không những tiền đề vật chất được hình thành ở thời kỳ phong kiến, mà cả
cơ cấu xã hội thời ấy cũng đã góp phần vào thành công của hiện đại hóa kinh tế, kỹ
thuật của Nhật Bản. Trước hết, phải kể đến cơ cấu dọc của xã hội Nhật Bản cùng
với các quy tắc ứng xử nghiêm ngặt theo lối "trên - dưới". Chính yếu tố gia đình với
tư cách một hạt nhân sản xuất kinh tế có trật tự "trên - dưới" đã giữ một vai trò quan
trọng trong việc tổ chức kinh doanh có hiệu quả và do vậy, trong việc lĩnh hội khoa
học - kỹ thuật phương Tây mà không phá vỡ "tinh thần phương Đông".
Chính giới cầm quyền ở Nhật Bản đã sử dụng một cách hợp lý những tư
tưởng Nho giáo để cố kết xã hội khi tôn trọng lối ứng xử có tôn ty, thứ bậc. Tính
nhất thể dân tộc cũng có một ý nghĩa quan trọng đối với nhân dân Nhật Bản - những
người vốn có ý thức dân tộc sâu đậm. Như vậy, cả tiềm năng vật chất lẫn tiềm năng
tinh thần trong xã hội Nhật Bản đã được sử dụng triệt để trong quá trình hiện đại
hoá. Điều này chứng tỏ, quan điểm tuyệt đối hóa vai trò hàng đầu của các yếu tố
ngoại sinh trong công cuộc hiện đại hóa xã hội Nhật Bản là một sai lầm.
Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Để bàn luận về vấn đề chuyển biến xã hội thì không những cần đến lược đồ

vĩ mô (lý thuyết hiện đại hóa), mà còn cần đến sự phân tích vi mô về những quá
trình diễn ra ở cấp độ mỗi nước và ở cấp độ các lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau
của nó.
- Thắng lợi của hiện đại hóa chỉ có thể đạt được khi từ bỏ việc phá hủy các
nét đặc thù của riêng mình (bản sắc văn hóa dân tộc) mà trước đó, có cảm tưởng là
trở ngại cho sự phát triển, cho sự nghiệp hiện đại hóa, cho công cuộc đổi mới theo
hướng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn hơn với phương Tây.
- Phát triển mà không có sự thay thế từ trước tính đồng nhất, tính nhất thể sẽ
cho phép con người giữ lại phẩm giá, tinh thần yêu nước, ý thức tự hào dân tộc. Giữ
được những phẩm giá này sẽ tạo ra ở người lao động thái độ sẵn sàng hy sinh, sẵn
sàng chịu đựng kỷ luật lao động nghiêm ngặt. Giữ được tính đồng nhất và phẩm giá
của mình, con người có thái độ tự tin tới mức sẵn sàng hành động một cách thắng
lợi và có mục đích rõ ràng.


12
- Khả năng phát triển theo cách thức đó không có một mô hình có sẵn, mà
ngược lại, nó sử dụng tối đa các đặc điểm lịch sử văn hóa độc đáo của đất nước
mình.
- Sự phát triển được thực hiện ở mỗi nước bằng con đường tự giác quản lý
nó, tự tìm ra các hình thức có hiệu lực một cách cụ thể và hữu hiệu sẽ tạo ra sự phát
triển nhịp nhàng, bền vững.
- Quá trình hiện đại hóa luôn đòi hỏi phải hoàn thiện tính đặc thù, phát huy
các truyền thống văn hóa dân tộc và thúc đẩy cải cách kinh tế và công nghệ.
Những kết luận nêu trên có thể coi là điều bổ ích đối với chúng ta trong quá
trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, đặc biệt là trong
bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Chúng đòi hỏi chúng ta phải có một
nhãn quan tỉnh táo để hoạch định chính sách, chiến lược phát triển và các biện pháp
cụ thể nhằm thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà không đánh
mất bản sắc của mình, "hòa nhập mà không hòa tan", không trở thành "cái bóng

mờ" của người khác, nước khác.
1.1.1.2 Giáo dục nếp sống văn hóa cho người dân ở Singapore
Singapore là một quốc đảo Singapore và 58 hòn đảo nhỏ khác hợp thành. Với
tổng diện tích 692,7km2 , dân số khoảng 5 triệu, bao gồm dân nhập cư Malay,
Trung Quốc, An Độ, Anh, Hà Lan. Trước đây, Singapore vốn chỉ là một vài làng
chài nhỏ của dân nhâp cư Malay. Năm 1819, Stam Ford Raffles tuyên bố nơi đây là
cơ sở của công ty Đông An của người Anh và hiển nhiên Singapore trở thành căn
cứ phòng ngự chiến lược của Vương Quốc Anh ở vùng Viễn Đông. Năm 1942, phát
xít Nhật xâm lược Singapore nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore lại
trở lại thuộc địa của Anh. Năm 1959, người dân Singapore giành được quyền tự trị
quốc đảo và đến năm 1963 giành được quyền độc lập. Cùng năm 1963, Singapore
gia nhập liên bang Malay để thành lập nước cộng hoà Singapore.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Singapore ngày nay trở thành một
trong những nước có nền kinh tế hùng cường và là nơi có nền văn minh đô thị cao
nhất thế giới (100% dân số Singapore ngày nay là cư dân đô thị).


13
Nếu tính từ khi nước cộng hoà Singapore thành lập (1965), thì Singapore chỉ
đi trước Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm. Vấn đề đặt ra là họ đã làm những gì? Quá
trình xây dựng nếp sống văn minh đô thị như thế nào? Để biến nếp sống hỗn tạp của
một đất nước đa dân tộc, khác biệt nhau về truyền thống văn hoá, của những cư dân
vốn từng sống trong những căn nhà ổ chuột… mà nay trở thành những cư dân đô thị
có nếp sống văn minh? Đó chính là những câu hỏi mà chúng ta cần nghiên cứu, làm
rõ để học hỏi kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây
dựng nếp sống văn minh nơi công cộng ở nước ta hiện nay trong bối cảnh công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một số kinh nghiệm xây dựng nếp sống văn
minh nơi công cộng ở Singapore có thể tập trung vào những lĩnh vực cụ thể: Luật
pháp và việc chấp hành luật pháp.
Quay lại thời điểm 1965, khi mới tách khỏi liên bang Malaysia, nước cộng

hoà Singapoer vẫn là một nước nghèo đói, lạc hậu cư dân còn sống trong những căn
nhà ổ chuột. Sau khi ban hành hiến pháp và hệ thống luật nhằm đặt ra những
nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng bộ máy nhà nước, dưới sự lãnh đạo của đảng
nhân dân hành động, từ một nước nghèo đói Singapore vượt lên nhanh chóng và trở
thành một nước hùng cường về kinh tế , đặc biệt là họ xây dựng một nền văn minh
đô thị tiên tiến.
Để thực hiện được điều đó, nhà nước Singapore đã xây dựng một bộ máy
chính quyền vững mạnh, có năng lực và xây dựng được một đường lối phát triển
kinh tế xã hội đúng đắn. Dù có nhiều khó khăn đặt ra trong quá trình thực hiện
chiến lược kinh tế xã hội từ năm 1965 đến nay, nhưng bộ máy hành pháp của
Singapore thực thi pháp luật đã ban hành một cách nghiêm khắc, trong đó có cả
biện pháp cưỡng chế, trấn áp hết thảy mọi sự bất đồng của các đảng phái đối lập và
trả giá bằng sự tự do cá nhân. Nhiều nhà chính khách phương tây cho rằng, chính
quyền Singapore là một tập đoàn quyền lực chuyên chế, gia trưởng nhưng họ được
sự ủng hộ của nhân dân và thực sự đạt được những thành tựu kinh tế xã hội to lớn.
Bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội, để duy trì một xã hội sạch đẹp,
các văn bản dưới luật được chính quyền Singapore ban hành kịp thời nhằm qui định


14
nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, điển hình là luật về việc xả rác, dùng kẹo cao
su, hút thuốc lá và buôn bán ma tuý.
Văn bản dưới luật của chính quyền Singapore được qui định rõ: mọi người
phải xả rác đúng nơi. Nếu hành vi xả rác sai qui định, người vi phạm lần đầu tiên sẽ
bị phạt 1.000 dolle Singapore. Nếu tái phạm người vi phạm sẽ bị phạt 2.000 dolle
Singaopore cộng với hình phạt lao động cưỡng bức “dọn vệ sinh nơi công cộng”.
Việc thi hành án phạt dọn vệ sinh nơi công cộng được báo chí, đài truyền hình, đài
phát thanh đưa tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trước đây, kẹo cao su là vật phẩm bị cấm nhập khẩu, mua bán và sử dụng ở
Singapore. Vì rằng chất thải của kẹo cao su làm bẩn môi trường sống làm tốn nhiều

công sức của công nhân vệ sinh. Tuy nhiên, kẹo cao su lại là phẩm vật vốn không bị
cấm ở những nước láng giềng nên người dân thường sang các nước láng giềng để
thưởng thức món này. Hiện nay, luật cấm kẹo cao su đang được chính phủ
Singapore lấy ý kiến rộng rãi trong quần chúng nhân dân nên bãi bỏ hay tiếp tục
thực hiện.
Việc có hiến pháp, pháp luật và hệ thống các văn bản dưới luật thì nước nào
cũng có, điều cần lưu ý ở đây là bộ máy lập pháp, hành pháp ở Singapore được
người dân tin cậy vì sự trong sạch, nghiêm minh và cương quyết, dù phải cưỡng
chế. Mặt khác, việc chấp hành pháp luật của người dân Singapore nghiêm túc, triệt
để và họ xem đó là đạo đức, nếp sống, lối sống của văn minh đô thị cần được triệt
để thực hiện ở đất nước Singapore.
Giáo dục và giáo dục nếp sống văn minh nơi công cộng ở trường học.
Singapore có một nền giáo dục tiên tiến, ngoài việc đào tạo ra những người có trình
độ học vấn cao, nội dung giáo dục còn thể hiện rõ việc đặt trọng tâm vào các giá trị
nhân bản như việc xây dựng nếp sống văn minh tiên tiến theo các chuẩn mực quốc
tế, đồng thời giữ vững bản sắc văn hóa đa sắc của người Singapore. Điều này được
thể hiện rõ trong các chương trình giáo dục từ cấp tiểu học đến cấp đại học. Giáo
dục Singapore không phải là giáo dục cưỡng chế, nhưng giáo dục được xem là chìa
khóa cho động lực của sự phát triển xã hội. Ơ mỗi cấp học chương trình giáo dục
đạo đức, pháp luật, văn hóa truyền thống và lối sống văn minh đô thị tiên tiến được


15
đề cập trong chương trình chính. Riêng ở giai đọan dự bị đại học dù chương trình
học do học sinh tự chọn để phù hợp với chương trình chuyên môn của từng ngành
học nhưng những môn học về kiến thức xã hội, ý thức công dân và văn minh đô thị
vẫn là những môn học chính trong chương trình bắt buộc.
Xây dựng nếp sống văn minh đô thị cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế
– xã hội, song song với việc xây dựng nếp sống văn minh đô thị, nhà nước
Singapore đã tiến hành xây dưng hệ thống tiện ích hiện đại để phục vụ cuộc sống

cho người dân.
Dù là một nước nhỏ, tuy nhiên Singapore đã xây dựng quy hoạch phát triển
đô thị một cách bài bản, hiện đại. Hệ thống công sở, nhà máy, xí nghiệp, trường
học, bệnh viện, nhà ở, công viên, khu vui chơi giải trí... được bố trí hài hoà, thuận
tiện không chỉ giải quyết được vấn đề phát huy hết công năng của từng hạng mục
công trình mà còn đảm bảo thẩm mỹ, cảnh quan môi trường.
Hệ thống cây xanh, các khoảng trống trong thành phố được bố trí một cách
hợp lý, khoa học, điều cần nói rằng không có một khoảng trống nào mà không được
phủ xanh bằng cỏ cây, hoa lá và không có một công dân Singapore nào lại không có
ý thức bảo vệ vẻ đẹp của từng cảnh quan đó, điều này mỗi công dân Singapore được
giáo dục từ cấp tiểu học lên đến đại học và xem đó là chuẩn mực đạo đức của nếp
sống văn minh đô thị.
Là một đất nước có vị trí giao thông quan trọng nhờ vào các cảng biển và
cũng là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Singapore. Hệ thống
giao của Singapore hiện đại, cùng với các bảng sơ đồ chỉ dẫn, trên các phương tiện
giao thông công cộng còn có các câu khẩu hiệu như “làm ơn hãy nhường ghế của
bạn cho người cần nó hơn bạn” luôn luôn hiển hiện trước mặt mọi người. Điều đó
làm cho hành khách không thể không tự giác nhường ghế của mình cho người già,
phụ nữ có thai và trẻ em...
Mỗi buổi sáng, hệ thống xe hút bụi khổng lồ làm nhiệm vụ hút bụi bặm trên
đường phố và tất cả những phương tiện giao thông công cộng được lau dội sạch sẽ
trước khi lăn bánh. Cũng là thành phố đang qui hoạch, xây dựng, phát triển nhưng


16
các công trình được che chắn kỹ lưỡng. Điều đó giải thích tại sao ta không hề thấy
bụi bặm ở đường phố Singapore.
Các bến bãi, nơi đậu xe cũng được qui định chặt chẽ, hầu như ta không thấy
các loại xe gắn máy đậu sai qui định trên đường phố và hầu như chúng ta cũng
không thấy bóng dáng cảnh sát trên đường phố nhưng khi có tai nạn xảy ra hay có

xe đậu sai qui định thì lập tức đội ngũ cảnh sát có mặt tại hiện trường, điều này thực
hiện được do hệ thống kiểm soát giao thông tự động bằng vi tính được cài đặt ở
khắp nơi báo về trung tâm điều khiển giao thông.
Trải qua suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập khu vực
và toàn cầu, đất nước Singapore chịu sự tác động của nhiều luồng văn hoá nước
ngoài. Tuy nhiên, bằng phương pháp tiếp thu có chọn lọc, trên cơ sở bảo tồn nền
văn hoá đa sắc của mình, cùng với những thành công trong công cuộc phát triển nền
kinh tế - xã hội, nhân dân Singapore còn xây dựng được nếp sống văn minh đô thị
tiến tiến. Đất nước Singapore chính là tấm gương sáng để chúng ta nhìn lại mình
trong việc xây dựng nếp sống văn minh đô thị, lối sống văn minh nơi công cộng ở
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay.
1.1.2 Kinh nghiệm giáo dục nếp sống văn hóa cho cộng đồng dân cư ở tỉnh
Phú Yên
Phú Yên là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ có bề dày lịch sử và giàu
truyền thống cách mạng, đồng thời là nơi hội tụ những sắc màu văn hóa đa dạng,
phong phú của 31 dân tộc anh em. Thời gian qua, tỉnh có nhiều hành động tích cực
xây dựng văn hóa trên địa bàn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của
đất nước.
Chủ trương xây dựng con người phát triển toàn diện và môi trường văn hóa
lành mạnh, quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, Chương trình hành
động của Tỉnh ủy Phú Yên số 22 - CTr/TU ngày 17-10-2014 thực hiện Nghị quyết
Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” xác định: Chăm lo xây dựng con


17
người phát triển toàn diện là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy
đảng, chính quyền và nhân dân Phú Yên. Chính vì vậy, cả hệ thống chính trị của

tỉnh không ngừng tăng cường tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục, bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; giáo dục truyền thống gia đình, lòng
yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo
các cơ quan liên quan tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; biên soạn, hướng dẫn và phát hành tài liệu cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
học tập các nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh; triển khai sâu
rộng Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Qua đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh dần nâng cao nhận
thức chính trị, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng; có ý thức bảo vệ và xây
dựng cộng đồng dân cư; có tinh thần học tập, lao động sáng tạo, thi đua yêu nước.
Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Phú Yên thời gian qua tiếp tục đạt
được những kết quả quan trọng. Quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục có những
chuyển biến tích cực. Hiện nay, toàn tỉnh có 447 trường học thuộc các bậc học, cấp
học; 8 trung tâm giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp, 4 trung tâm và 12 cơ sở tin
học - ngoại ngữ, 112 trung tâm học tập cộng đồng xã, phường, thị trấn. Phong trào
khuyến học diễn ra khá sôi nổi, thu hút được đông đảo các trí thức cũng như các cán
bộ và nhân dân tham gia, góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sự nghiệp trồng
người Phú Yên ngày càng phát triển. Đó chính là những nhân tố quan trọng để
Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh vượt qua khó khăn, thách thức và giành được
những kết quả nhất định trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Công tác xây dựng môi trường văn hóa trên địa bàn tỉnh được triển khai dưới
rất nhiều hình thức gắn kết với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới, từ xây dựng các thiết chế văn hóa đến phát động các phong trào thi
đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây
dựng gia đình văn hóa; thôn, buôn, khu phố văn hóa; cơ quan, đơn vị văn hóa;



18
phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; các hội thi, hội
diễn nghệ thuật được triển khai mạnh mẽ. Tính đến nay, toàn tỉnh có 87,06% số hộ
được công nhận gia đình văn hóa (trong đó dẫn đầu là huyện Tuy An với số hộ gia
đình văn hóa đạt 92,14%, tiếp đến là thị xã Sông Cầu đạt 91,96%); có 69% thôn,
buôn, khu phố và 30,35% xã, phường, thị trấn được công nhận danh hiệu văn hóa;
86% số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa. Ngoài ra, Phú Yên còn
triển khai Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
cùng các hoạt động biểu dương gia đình văn hóa tiêu biểu các cấp, phong trào xây
dựng gia đình, dòng họ khuyến học, xây dựng xã hội học tập, nhằm giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh trong mỗi cá nhân, gia đình, cơ quan, đơn vị và
cộng đồng, đồng thời góp phần nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho nhân dân,
xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh và hội nhập quốc tế.
Các thiết chế văn hóa luôn được Phú Yên quan tâm đầu tư xây dựng. Toàn
tỉnh có 60 nhà văn hóa, 1 thư viện cấp tỉnh, 8 thư viện cấp huyện, thị xã, 293 thư
viện cấp cơ sở với 496 phòng đọc sách, 258 tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn,
cơ quan, 78 bưu điện văn hóa xã; nhiều xã, phường, thị trấn có khu sinh hoạt văn
hóa - thể thao, có sân khấu ngoài trời kiên cố, được trang bị âm thanh, ánh sáng;
đáp ứng những hoạt động văn hóa, sinh hoạt và học tập ở cơ sở. Việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo tinh thần Chỉ thị số 27CT/TW, ngày 12-01-1998 của Bộ Chính trị trên địa bàn tỉnh cũng đạt được những
kết quả quan trọng. Việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 27-7-2010
của Ban Bí thư về “chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy
hoại đạo đức xã hội” được đẩy mạnh. Hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất
bản, phát thanh truyền hình tiếp tục được quy hoạch, sắp xếp lại. Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh được đầu tư xây dựng với trang thiết bị tương đối hiện đại; không
ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung chương trình. Đặc biệt, đài còn xây
dựng 5 chương trình phát thanh tiếng dân tộc Ê-đê và Chăm, phát sóng 10 lần/tuần,
phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, góp phần làm phong phú thêm



19
sự hưởng thụ thông tin và văn hóa của các tầng lớp nhân dân; từ đó tạo ra môi
trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong tương lai; qua hơn 15 năm triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và 01 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 9 khóa XI về văn hóa, số lượng và chất lượng các hoạt động văn hóa cơ
sở ở Phú Yên ngày càng được nâng lên, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh
thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số cấp ủy đảng ở Phú Yên trong
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo còn thiếu quan tâm đến lĩnh vực văn hóa; công tác quản
lý nhà nước về văn hóa còn bộc lộ nhiều hạn chế; việc đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hóa, công tác xây dựng đời sống văn hóa chưa được triển khai đồng bộ, thường
xuyên; việc khai thác, sử dụng các công trình văn hóa ở một số nơi chưa hiệu quả.
Do vậy, để hoàn thành được mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Phú Yên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
phấn đấu đến năm 2020 có 90 - 95% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa;
hơn 80% số xã, thị trấn có Nhà văn hóa và khu thể thao; 70% số thôn, buôn có nhà
văn hóa và khu thể thao đạt chuẩn quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
95% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt danh hiệu văn hóa; 55 - 60% người dân sử
dụng in-tơ-nét; có 80% di tích cấp quốc gia, 50% di tích cấp tỉnh được trùng tu, tôn
tạo; 80 - 90% số huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh có các thiết chế văn hóa, thể
thao thiết yếu; phủ sóng truyền hình số mặt đất đạt 80% địa bàn dân cư, Phú Yên
xác định cần thực hiện các giải pháp đồng bộ, cụ thể là:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của
các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân toàn tỉnh về yêu cầu xây dựng phát triển
văn hóa, con người trong giai đoạn cách mạng mới. Đẩy mạnh việc thực thi pháp
luật và các chính sách về phát triển văn hóa trong toàn xã hội. Khơi dậy sức sáng
tạo, sự chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp
ứng nhu cầu văn hóa; tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội và thực hiện quyền làm chủ của mình, nhất là trong hoạt

động sáng tạo văn hóa.


×