Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước – thực tiễn tại bộ thông tin và truyền thông tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.69 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LƢƠNG QÚI THĂNG

THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TÀI SẢN CÔNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC – THỰC TIỄN
TẠI BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60340403

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. BÙI THỊ THANH THÚY

Phản biện 1:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Phản biện 2:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..


Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Số:77 đường Nguyễn Chí Thanh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào
nền kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đối mặt, cạnh tranh bình
đẳng với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới, đặc biệt là sau khi
gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và bắt đầu với Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP). Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các doanh
nghiệp của Việt Nam. Trong hệ thống các doanh nghiệp, hoạt động của DNNN ở
Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, mô hình này đã đạt được những kết quả nhất
định, là công cụ điều tiết vĩ mô hiệu quả của Nhà nước. Về cơ bản, các DNNN đã
nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, quy mô vốn liên tục tăng,
khẳng định vai trò cụ thể của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Các DNNN không chỉ mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước; góp phần quan
trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đóng góp không nhỏ vào nguồn thuế, tạo nguồn thu ngoại tệ và
nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, tạo nên sức mạnh cho nền
kinh tế... mà còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức
sống cho nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh...
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các DNNN ở Việt Nam có không ít tiêu cực,

làm dấy lên hoài nghi về vai trò thực tế của nó, không chỉ về hiệu quả kinh tế mà các
tập đoàn kinh tế nhà nước gặp phải không ít khó khăn, thách thức và nhiều vấn đề
nảy sinh như:
Một là, mục tiêu, hiệu quả hoạt động của các DNNN chưa tương xứng với
nguồn lực nhà nước đầu tư. Nhiều tập đoàn kinh tế thay vì phải tập trung vào ngành
nghề chính, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế và chính trị trọng yếu của kinh tế nhà
nước, lại mở rộng quy mô đầu tư ngoài ngành trong khi thực tế năng lực tài chính lại
hạn chế. Chẳng hạn, một số tập đoàn thiếu vốn cho ngành chính nhưng vẫn mở rộng
sang các ngành nghề rủi ro khác như tài chính, ngân hàng, bất động sản, từ đó, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội của quốc gia.
Hai là, công tác giám sát, kiểm soát hoạt động các DNNN còn nhiều hạn chế
dẫn đến không phát hiện kịp thời để có biện pháp ngăn chặn, giảm thiểu tổn thất
trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là kiểm soát việc quản lý sử
dụng tài sản công trong các DNNN hiện nay thiếu những thiết chế hữu hiệu và hành
lang pháp lý điều chỉnh một cách toàn diện, kịp thời. Sự tăng trưởng của nền kinh tế
đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong đó tài sản công được coi là một
nguồn lực quan trọng và cần thiết, nhất là trong điều kiện đất nước ta đang tập trung
phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Do vậy nếu không đặt vấn đề quản lý tài
sản công một cách có hiệu quả thì cũng có nghĩa chúng ta đang sử dụng nguồn lực to
1


lớn của quốc gia một cách lãng phí và cũng là khe hở cho nạn tham nhũng, biển thủ
tài sản công... Trong thời kỳ bao cấp, công tác quản lý tài sản công thiếu chặt chẽ, đất
đai, nhà xưởng, tài sản còn bị sử dụng lãng phí, thất thoát… đã làm giảm nội lực của
nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế và xu thế hội nhập đòi hỏi phải thay
đổi cơ chế chính sách về quản lý tài sản công, đặc biệt là quản lý tài sản trong các
doanh nghiệp nhà nước.
Chính vì lý do trên việc nghiên cứu quản lý tài sản công, đặc biệt là xây dựng
thể chế để hoàn thiện vấn đề quản lý tài sản trong các DNNN là một vấn đề cấp thiết

dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “ Thể chế quản lý nhà
nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước – thực tiễn tại Bộ Thông
tin và Truyền thông”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thể chế quản lý nhà nước và thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong
các doanh nghiệp nhà nước là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều nhà quản lý. Có thể kể một số công trình nghiên cứu có những liên quan nhất
định như sau:
Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN , Nxb
Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung sau: Quan niệm và quá
trình hình thành DNNN ở Việt Nam; Quá trình đổi mới và thực trạng DNNN ở nước
ta; Mục tiêu, quan điểm và phương hướng tiếp tục đổi mới DNNN.
Phan Đức Hiếu (2003), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Cải cách
doanh nghiệp nhà nước, Nxb Tài chính. Sách tập trung nghiên cứu các mô hình đổi
mới hoạt động của DNNN như sắp xếp lại, cổ phần hóa DNNN;Chuyển DNNN
thành CTCP, Công ty TNHH một thành viên;Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê
doanh nghiệp nhà nước.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạ (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đề cập đến lý luận và thực tiễn trong việc nhận
thức vấn đề sở hữu ở Việt Nam, thực trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và đất đai
ở Việt Nam.
PGS.TS Lê Hồng Hạnh chủ biên (2004), Cổ phần hóa DNNN- những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia ấn hành. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề
cập đến các khía cạnh đa dạng của DNNN như: DNNN ở các quốc gia và xu thế cải
cách DNNN; Những vấn đề lý luận và thực tiễn về DNNN ở Việt Nam; Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về CPH DNNN và hoàn thiện nền tảng pháp lý cho CPH
DNNN.
Đề tài nghiên cứu khoa học của TS. Trang Thị Tuyết tại Học viện Hành
chính Quốc gia: Một số giải pháp hoàn thiện QLNN đối với doanh nghiệp ở Việt
Nam (2004), đã làm rõ cơ sở lý luận về QLNN đối với doanh nghiệp. Đề tài trình

2


bày chi tiết về thực trạng QLNN đối với DNNN, nêu rõ những tồn tại, khó khăn và
đưa ra nhiều giải pháp hoàn thiện QLNN đối với DNNN.
Ths. Nguyễn Văn Tuấn, Quản lý tài sản công ở nước ta hiện nay: thực trạng
và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 7/2016.
Nhóm những công trình nghiên cứu liên quan đến thể chế và thể chế quản lý
nhà nước ở các lĩnh vực khác nhau:
- Giáo trình “ Hành chính công” của Học viện Hành chính , (2012) Nhà xuất
bản Giáo dục. Chương 3 của Giáo trình trình bày những vấn đề lý luận cơ bản nhất về
thể chế hành chính nhà nước
- Một số luận án tiến sĩ cũng có đề cập đến vấn đề này như Luận án tiến sĩ
quản lý công “Thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục sau đại học ở Việt Nam
hiện nay” của Lê Như Phong, năm 2017; Luận án kinh tế: “Hoàn thiện thể chế
quản lý công chức ở Việt Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế” của
Trần Anh Tuấn, Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2007 và Luận án quản lý hành
chính công của Bùi Thị Ngọc Hiền: “ Nâng cao năng lực thể chế hành chính nhà
nước để thích ứng với kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay” ( 2014).
Những công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý luận và thực
tiễn đối với đề tài. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đến nay chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp
nhà nước. Do đó đề tài: “Thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước - từ thực tiễn Bộ Thông tin và Truyền thông” là một đề tài
không trùng lặp, mang tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi cần được nghiên cứu một
cách có hệ thống và đầy đủ hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài
sản công trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung từ đó đánh giá được thực trạng

thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ
Thông tin và Truyền thông để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ
bản nhằm hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm tài sản công trong các
DNNN; khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố cấu thành của thể chế quản lý nhà
nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông để chỉ ra những
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của thực trạng.

3


- Đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện thể
chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ
Thông tin và Truyền thông hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu thể chế quản lý nhà nước đối với tài
sản công trong các doanh nghiệp nhà nước dưới hai góc độ: hệ thống văn bản pháp
luật điều chỉnh và hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
DNNN.
- Phạm vi về địa bàn nghiên cứu ở Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Thời gian nghiên cứu trong đề tài được xác định từ năm 2012 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử cùng các phương pháp cụ thể khác như phương pháp hệ thống, phân
tích, tổng hợp, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn và dự báo để chọn lọc tri thức khoa
học cũng như kinh nghiệm thực tiễn về hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với
tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Trên cơ sở các luận điểm khoa học, luận văn đã xây dựng khái niệm thể chế
quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước; chỉ ra đặc
điểm, vai trò và các yếu tố thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước.
- Luận văn đánh giá khách quan và chỉ ra những thành tựu, tập trung làm rõ
những hạn chế, bất cập của thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước. Từ những hạn chế, bất cập của thể chế quản lý nhà nước đối
với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước hiện hành tại Bộ Thông tin và
Truyền thông, luận văn đã chỉ ra và phân tích kỹ các nguyên nhân để làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
- Đưa ra các quan điểm, kiến nghị phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
hoàn
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản
công trong các doanh nghiệp nhà nước .
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với
tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông.

4


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nƣớc và tài sản công trong các doanh nghiệp nhà
nƣớc
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Kể từ 1-7-2015, theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi): “Doanh nghiệp nhà nước là
doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” ( Khoản 8 Điều 4). Sự thay
đổi này được xem là sự cải cách về quan điểm để dẫn đến thay đổi về vốn và quản trị.
Với hướng tiếp cận “cởi trói” cho doanh nghiệp và tuân theo các cơ chế quản lý của
nền kinh tế thị trường là hạn chế sự can thiệp của nhà nước, Luật Doanh nghiệp năm
2014 quy định chỉ những doanh nghiệp nào do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì
mới được coi là DNNN, tức là hạn chế số lượng DNNN và mở rộng thành phần
doanh nghiệp không bị ràng buộc bởi “cơ chế Nhà nước”.
Từ quan niệm trên có thể xem xét một số đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
như sau:
- Chủ đầu tư: là Nhà nước.
- Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (100%).
- Hình thức tồn tại: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: công ty mẹ của các tập đoàn kinh tế; công ty
mẹ của tổng công ty nhà nước; công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con;
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc lập.
- Mô hình quản lý: DNNN được tổ chức chức dưới hình thức công ty TNHH
theo một trong hai mô hình quản lý bao gồm: (1) Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và Kiểm soát viên hoặc (2) Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.
- Trách nhiệm tài sản: Nhà nước chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
- Mục đích hoạt động: thực hiện mục đích kinh doanh hoặc hoạt động công
ích. Ứng với hai mục đích trên là có hai loại DNNN khác nhau.
DNNN hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.

DNNN hoạt động công ích là doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung ứng dịch
vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng an ninh.
5


1.2.2. Khái niệm tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước
Tài sản công cũng được hiểu là những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
Trong phạm vi luận văn đề cập đến TSC trong các DNNN. Từ sự phân tích trên có thể
đi đến khái niệm tài sản công trong các DNNN là các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
được giao cho các DNNN quản lý và sử dụng vào mục đích kinh doanh và phục vụ
công ích xã hội. Cụ thể chia thành hai nhóm:
- Tài sản công đã được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
- Tài sản công do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, không tính thành
phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản kết
cấu hạ tầng, tài sản dự án.
1.2. Những vấn đề chung về thể chế quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nƣớc
1.2.1. Khái niệm thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nước
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tiếp cận quan niệm “thể chế” ở góc độ: hệ
thống các quy định pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước vận hành các quy định đó.
Mặt khác, xuất phát từ lý luận về quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
DNNN để có những định hướng cho việc hoàn thiện thể chế này nên luận văn chỉ tập
trung vào những yếu tố chính thức của thể chế (quy phạm pháp luật) mà không đề
cập đến các yếu tố phi chính thức (đường lối, chính sách…).
Trong phạm vi luận văn, tiếp cận khái niệm QLNN ở nghĩa hẹp, cụ thể là quản
lý hành chính nhà nước.
Với những phân tích trên, có thể hiểu: Thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản
công trong DNNN là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền ban hành và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vận hành các quy định pháp
luật về QLNN đối với tài sản công trong các DNNN một cách thống nhất nhằm đáp
ứng mục tiêu phát triển doanh nghiệp theo yêu cầu kinh tế đất nước.
Từ khái niệm trên, có thể xem xét một số đặc điểm cơ bản của thể chế QLNN
đối với TSC trong các DNNN như sau:
Một là, thể chế QLNN đối với TSC trong các DNNN là một chỉnh thể thống
nhất bao gồm hai bộ phận hợp thành: tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TSC trong
các DNNN và hệ thống quy phạm pháp luật vận hành các tổ chức bộ máy QLNN đó.
Hai là, thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC trong các DNNN là một bộ
phận của thể chế QLNN nói chung.Vì thế, thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC
trong các DNNN nằm trong một chỉnh thể thống nhất và có mối quan hệ khăng khít
với các lĩnh vực khác của thể chế QLNN.
Ba là, thể chế QLNN đối với QLNN đối với TSC trong các DNNN được xây
dựng nhằm mục đích tác động làm thay đổi các quan hệ xã hội, giúp môi trường kinh
6


tế hình thành, phát triển lành mạnh.
Vai trò thể chế quản lý nhà nƣớc đối với TSC trong các DNNN
Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các DNNN xây
dựng khung pháp lý để quản lý, sử dụng TSC có hiệu quả
Thứ hai, góp phần phòng ngừa, ngăn ngừa, xử lý vi phạm pháp luật phát sinh
trong hoạt động quản lý,sử dụng TSC trong các DNNN
Thứ ba, góp phần xây dựng cơ cấu tổ chức, bộ máy QLNN về TSC trong
DNNN hoạt động thống nhất, hiệu quả
Thứ tư, thể chế QLNN đối với TSC trong các DNNN quyết định đến sự phát triển
các DNNN
1.2.2. Các yếu tố cấu thành thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước
1.2.2.1. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp

nhà nước
Bộ máy quản lý nhà nước về TSC trong các DNNN là hệ thống các cơ quan
công quyền từ trung ương đến các địa phương do nhà nước thành lập để thực thi hoạt
động QLNN đối với TSC. Bộ máy nhà nước được phân cấp, phân công trên cơ sở các
định chế nhà nước và các cơ chế quản lý đã được thiết lập. Bộ máy ở cấp này vừa là
chủ thể quản lý của cấp đó vừa là đối tượng quản lý của các cấp trên cao hơn. Mỗi
kiểu tổ chức bộ máy quản lý đều ứng với một kiểu thể chế nhà nước và cơ chế vận
hành. Có thể nói, mỗi một thể chế nhà nước và cơ chế quản lý nào thì có bộ máy tổ
chức quản lý tương ứng.
Theo đó, Chính phủ là cơ quan quản lý thống nhất về TSC nói chung và TSC trong
các DNNN nói riêng. Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về công sản với
đơn vị chịu trách nhiệm chính là Cục quản lý Công sản.
Ở cấp Trung ương, các bộ và cơ quan ngang bộ đều có bộ phận thực hiện chức
năng quản lý TSC trong các DNNN nằm ở các phòng khác nhau (Phòng nghiệp vụ,
Phòng Kế hoạch tài chính, Phòng Kế toán tài chính, Phòng Hành chính - Tổng hợp…).
Ở cấp địa phương, UBND cấp tỉnh là cơ quan quản lý thống nhất về công sản trong
phạm vi địa phương mình. UBND cấp tỉnh giao cho Sở Tài chính chịu trách nhiệm với bộ
phận giúp việc là Phòng Quản lý công sản hoặc Phòng Quản lý giá - Công sản hoặc cũng
có địa phương là Phòng Hành chính sự nghiệp trực thuộc Sở Tài chính.
Ngoài ra xuất phát từ đặc thù, liên quan đến quản lý vốn nhà nước chúng ta
còn có mô hình Tổng công ty đầu tư và quản lý vốn nhà nước (SCIC).
1.2.1.2. Hệ thống quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nước
Căn cứ vào hệ thống các quy định pháp luật đối với TSC trong các DNNN hiện
nay chúng ta có chia thành những nội dung cơ bản về quản lý tài sản công trong các
7


DNNN như sau:
(1) Hệ thống quy định pháp lý về phân công, phân cấp trong quản lý TSC trong

các DNNN
(2) Hệ thống quy định về quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp do
nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, gồm 14 Điều (Từ Điều 22 đến Điều 35 Luật
DN 2014). Nội dung bao gồm: Vốn điều lệ; huy động vốn; đầu tư, xây dựng, mua,
bán tài sản cố định; các nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản cố định, nợ phải thu, nợ
phải trả; quy định việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp, đầu tư vốn của doanh
nghiệp ra nước ngoài, chuyển nhượng vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp; quy định
nguyên tắc phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp và quy định việc bảo
toàn vốn của doanh nghiệp.
(3) Quy định pháp lý về cơ chế giám sát, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước
1.3. Kinh nghiệp một số quốc gia trên thế giới về thể chể quản lý nhà nƣớc đối
với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nƣớc và giá trị tham khảo đối với
Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệp một số quốc gia trên thế giới
Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc xây dựng mô hình quản lý tài sản nhà nước tập trung
thông qua việc thiết lập hệ thống Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước
(SASAC) ở cả cấp Trung ương và các địa phương.
SASAC được thành lập tháng 3/2003 với tư cách là cơ quan cấp bộ đặc biệt
thuộc Chính phủ Trung Quốc. Nhiệm vụ chính của SASAC vừa là đại diện chủ sở
hữu của các DNNN, hoặc cổ đông nhà nước của các doanh nghiệp có vốn nhà nước,
vừa giám sát để giải quyết các vấn đề trong hoạt động hàng ngày tại các DNNN, tập
đoàn kinh tế nhà nước trên 3 lĩnh vực: giám sát về nhân sự chủ chốt, giám sát các vấn
đề trọng yếu của doanh nghiệp và giám sát tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Hiện
tại, SASAC có khoảng 600 cán bộ theo dõi 146 tập đoàn kinh tế và các tổng công ty.
SASAC có xu hướng bảo hộ cho cho các DNNN duy trì sức mạnh độc quyền
và ngày càng mở rộng hơn để gia tăng tầm ảnh hưởng của mình. Với sự tồn tại của
SASAC, các DNNN độc quyền chậm thay đổi khi mà họ vẫn tiếp tục được hưởng ưu
đãi từ những nguồn lực có lợi cho mình và như vậy, các DNNN và các doanh nghiệp

khối tư nhân không thể cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng. Một ví dụ điển hình
là năm 2009, khi Bộ Thương mại cảnh báo kế hoạch sáp nhập China Unicom và
China Netcom (2 doanh nghiệp đầu ngành về viễn thông do SASAC quản lý) sẽ vi
phạm luật chống độc quyền, SASAC đã nhanh chóng giải vây cho 2 doanh nghiệp
của mình bằng lý luận rằng, việc sáp nhập và tái cấu trúc các DNNN không nằm dưới
sự chi phối của luật chống điều hành của Bộ Thương mại.
8


Indonesia
Tại Indonesia, trước khi thành lập bộ chuyên trách quản lý DNNN, việc quản
lý DNNN được phân chia giữa Bộ Tài chính và bộ quản lý ngành. Trong đó, Bộ Tài
chính được giao quyền quyết định những vấn đề có liên quan đến tài chính của
DNNN, còn bộ chuyên ngành kỹ thuật được giao quyền quản lý các vấn đề liên quan
đến hoạt động của DNNN.
Mặc dù đã có sự phân định nhất định về quyền, trách nhiệm giữa Bộ Tài chính
và bộ chuyên ngành kỹ thuật, nhưng vẫn tồn tại nhiều chồng chéo, trùng lắp trong
thực hiện quyền, trách nhiệm giữa hai bộ này do các vấn đề tài chính và hoạt động
của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đến năm 2001, Bộ Đầu tư và Phát
triển DNNN được khôi phục và năm 2004 được đổi tên thành Bộ DNNN.
Singapore
Temasek (Singapore) là tổ chức kinh doanh vốn đầu tư nhà nước hoạt động
dưới hình thức doanh nghiệp. Temasek, bên cạnh Tổng công ty Đầu tư vốn của Chính
phủ (CIIC), được Chính phủ Singapore cấp vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp khác.
Việc cấp vốn cho hai doanh nghiệp này được thực hiện thông qua Bộ Tài chính trên
cơ sở dự toán đầu tư vốn đã được Quốc hội phê chuẩn. Ngoài đặc điểm là tập đoàn do
Nhà nước đầu tư vốn, Temasek hoạt động như một tập đoàn tư nhân và được khẳng
định là một nhà đầu tư và một cổ đông năng động. Những ưu thế về thể chế pháp trị
minh bạch, cơ chế thị trường hiện đại, cộng với tính kỹ trị và tính chuyên nghiệp cao,
đã tạo điều kiện cho Temasek phát triển, uy tín ngày càng cao trong cộng đồng kinh

doanh và tài chính, không chỉ trong nước mà còn vươn ra toàn cầu.
Malaysia
Khazanah là tổ chức đầu tư vốn nhà nước có cơ cấu gồm công ty mẹ
(Khazanah Nasional Berhad), các công ty con và các công ty có cổ phần, vốn góp của
công ty mẹ. Khazanah Nasional Berhad được giao thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ: quản lý các khoản vốn đầu tư do Chính phủ Malaysia giao; thực hiện các khoản
đầu tư mới trong các ngành, lĩnh vực mang tính chiến lược, lĩnh vực công nghệ cao
và tìm kiếm các khoản đầu tư chiến lược ở nước ngoài; quản lý có hiệu quả vốn, tài
sản của Chính phủ Malaysia tại các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khác
(trừ Tập đoàn Petronas và một số DNNN do Chính phủ trực tiếp quản lý).
1.3.2. Giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Thứ nhất, về phạm vi đầu tư vốn: Hoạt động đầu tư vốn Nhà nước nên tập
trung vào những ngành, lĩnh vực trọng điểm hoặc những ngành những lĩnh vực đòi
hỏi vốn lớn, các công ty tư nhân không có khả năng đầu tư, hoặc không muốn đầu tư
do khả năng thu hồi vốn chậm, tỷ suất đầu tư thấp như giao thông vận tải, Truyền
thông, năng lượng an ninh quốc phòng.
Thứ hai, về thẩm quyền cấp vốn đầu tư: Các DNNN cần làm rõ đối với trường
hợp đầu tư trực tiếp hay gián tiếp.
9


Thứ ba, về phân phối lợi nhuận của DNNN và DN có vốn Nhà nước, cần phải
được cụ thể hóa. Tuy nhiên, chính sách cổ tức có thể thay đổi hằng năm tùy thuộc
vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, tình hình tài chính, điều kiện của
thị trường, tình hình kinh tế nói chung và các yếu tố khác, bao gồm cả phân tích cơ
hội đầu tư và nhu cầu tái đầu tư của DN, tiền mặt và yêu cầu về vốn; khả năng vay
nợ, triển vọng kinh doanh… Bên cạnh đó, việc phân chia lợi nhuận còn lại sau khi
trích lập các quỹ cần thiết theo quy định thì được chia cho các cổ đông dựa vào tỷ lệ
vốn góp. Do đó, lợi nhuận từ các DN có vốn đầu tư Nhà nước nên chuyển một phần
về NSNN, một phần chia về các quỹ (Quỹ đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ sắp xếp và

phát triển DN…).
Thứ tư, về thoái vốn đầu tư cần căn cứ vào danh mục các lĩnh vực mang tính
quyết định đến vận mệnh kinh tế quốc dân, an ninh an toàn xã hội, căn cứ về hiệu quả
sản xuất kinh doanh, tăng cường tính cạnh tranh trong một ngành nhất định để xác
định các lĩnh vực, DN cần được thoái vốn.
Thứ năm, giám sát vốn đầu tư cần làm rõ: (i) Vai trò đại diện chủ sở hữu đối
với tài sản Nhà nước hay vốn Nhà nước được đem đầu tư; (ii) Xây dựng bộ chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả đầu tư vốn Nhà nước trên cả các khía canh về lợi nhuận, hiệu quả
gián tiếp về kinh tế, xã hội; (iii) Xây dựng bộ tiêu chí giám sát hoạt động đầu tư của
DN như: Giám sát Hội đồng quản trị, cấp quản lý trong đầu tư, giám sát hoạt động
đầu tư của công ty con…; (iv) Đẩy mạnh sự tham gia giám sát của các bên liên quan:
Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hữu quan và người dân...

10


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ THỂ CHẾ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI TÀI SẢN CÔNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC – THỰC TIỄN BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
2.1. Khái quát chung về Bộ Thông tin và Truyền thông và các doanh nghiệp nhà
nƣớc tại Bộ Thông tin và Truyền thông
2.1.1. Khái quát chung về Bộ Thông tin và Truyền thông
Tháng 8/2007, Bộ Thông tin và Truyền thông được thành lập trên cơ sở chức
năng nhiệm vụ của Bộ Bưu chính, Viễn thông và tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản từ Bộ Văn hóa – Thông tin. Lịch sử ngành
Thông tin và Truyền thông Việt Nam lại bước sang một trang mới. Việc thành lập Bộ
Thông Tin và Truyền thông thể hiện tư duy mới trong quản lý đa ngành, đa lĩnh vực
theo hướng tinh gọn bộ máy quản lý hành chính, tăng tính trách nhiệm và hiệu quả
quản lý phù hợp với xu thế phát triển và hội tụ giữa công nghiệp nội dung và hạ tầng

Truyền thông của thế giới.
Mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông, Internet trong nước, quốc tế,
thông tin hàng hải và truyền báo luôn đảm bảo an toàn thông tin trong hoàn cảnh khó
khăn do lũ, lụt, thiên tai. Thông tin liên lạc từ Trung ương đến địa phương luôn được
thông suốt, phục vụ tốt các hoạt động, sự kiện lớn của đất nước cũng như công tác
phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn.
2.1.2. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước và tài sản công trong các doanh nghiệp
nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông
2.1.2.1. Khái quát tình hình các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền
thông
Đến thời điểm hiện nay, có Bộ Thông tin và Truyền thông có 4 doanh nghiệp
nhà nước. Đó là : Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty
Viễn thông MobiFone, Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện Việt Nam (VTC),
Tổng công ty Bưu điện Việt Nam.
(1)Tổng công ty Viễn thông MobiFone
MobiFone được thành lập ngày 16/04/1993 với tên gọi ban đầu là Công ty
thông tin di động. Ngày 01/12/2014, Công ty được chuyển đổi thành Tổng công ty
Viễn thông MobiFone, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, kinh doanh trong
các lĩnh vực: dịch vụ viễn thông truyền thống, VAS, Data, Internet & truyền hình
IPTV/cable TV, sản phẩm khách hàng doanh nghiệp, dịch vụ công nghệ thông tin,
bán lẻ và phân phối và đầu tư nước ngoài.

11


(2),Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện Việt Nam (VTC) trực thuộc Bộ
Thông tin và Truyền thông.
Tổng công ty VTC hoạt động chính trong các lĩnh vực: Nội dung số, Thương
mại điện tử, Dịch vụ Truyền hình, Viễn thông, Công nghệ thông tin... Tổng công ty
VTC được thành lập theo Quyết định số 192/2005/QĐ-TTg ngày 29/7/2005 của Thủ

tướng Chính phủ về việc chuyển Công ty Đầu tư và Phát triển công nghệ Truyền hình
Việt Nam thành Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và
Quyết định số 01/2006/QĐ-BBCVT ngày 04/01/2006 của Bộ BCVT về việc thành
lập Tổng công ty VTC hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Ngày
28/06/2010 Bộ TT&TT ban hành Quyết định số 929/QĐ-BTTTT chuyển công ty mẹ
- Tổng công ty VTC thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH
MTV) do Nhà nước làm chủ sở hữu. Trong giai đoạn này Tổng công ty hoạt động và
kinh doanh trên các lĩnh vực: Truyền thông, báo chí; truyền hình, viễn thông và công
nghệ thông tin. Ngày 16/10/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định
132 chuyển Đài THKTS VTC khỏi Tổng công ty VTC về trực thuộc Bộ Thông tin và
Truyền thông. Tổng công ty VTC tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính là
nội dung số, dịch vụ viễn thông, dịch vụ truyền hình và công nghệ thông tin.
(3)Tổng công ty Bưu điện Việt Nam
Tổng công ty Bưu điện Việt Nam được hình thành trên cơ sở triển khai Đề án
thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Tập đoàn VNPT) do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 58/2005/QĐ-TTg ngày 23/3/2005.
Ngày 16/11/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1746/QĐ-TTg về
việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước tại Tổng công ty Bưu chính Việt
Nam từ Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam về Bộ Thông tin và Truyền thông.
Tổng công ty Bưu chính Việt Nam được đổi tên thành Tổng công ty Bưu điện Việt
Nam (theo Quyết định số 2596/QĐ-BTTTT ngày 28/12/2012 của Bộ Thông tin và
Truyền thông).Ngày 06/01/2015 Bộ Thông tin và Truyền thông đã Ban hành Quyết
định số 09/QĐ-BTTTT về việc tổ chức lại Công ty mẹ Tổng công ty Bưu điện Việt
Nam theo đó mô hình tổ chức quản lý của Tổng công ty gồm Hội đồng thành viên và
Ban Tổng giám đốc, phù hợp với Nghị định số 69/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Bộ
máy quản lý điều hành của Tổng công ty theo mô hình tổ chức mới đến nay cũng đã
được kiện toàn. Cơ cấu tổ chức của Vietnam Post: 67 đơn vị hoạch toán phụ thuộc
(gồm 63 Bưu điện tỉnh, thành phố, Công ty PHBC Trung ương, Công ty Datapost,
Công ty Vận chuyển và Kho vận, Trung tâm Đào tạo); 02 Công ty TNHH một thành
viên do Tổng công ty nắm giữ 100% vốn điều lệ; 03 công ty cổ phần do Tổng công ty

nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và 08 Công ty liên kết. Vốn điều lệ: 8.122 tỷ đồng.
Tổng nhân sự trên toàn mạng lưới: 42.777 người.

12


(4), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT).
Tháng 1/2006, VNPT chính thức trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam thay thế cho mô hình Tổng công ty cũ theo quyết định số 06/2006/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, với chiến lược phát triển theo mô hình tập đoàn kinh tế
chủ lực của Việt Nam, kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực, đa sở hữu, trong đó
Bưu chính - Viễn thông - CNTT là nòng cốt. Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam chuyển đổi hoạt động sang mô hình Công ty trách
nhiệm Hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu theo quyết định số
955/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của VNPT:
Dịch vụ và sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin và Truyền thông đa phương
tiện; Khảo sát, tư vấn, thiết kế, lắp đặt, khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa, cho thuê các
công trình viễn thông, công nghệ thông tin; Nghiên cứu, phát triển, chế tạo, sản xuất
thiết bị, sản phẩm viễn thông, công nghệ thông tin; Thương mại, phân phối các sản
phẩm thiết bị viễn thông, công nghệ thông tin;Dịch vụ quảng cáo, nghiên cứu thị
trường, tổ chức hội nghị hội thảo, triển lãm liên quan đến lĩnh vực viễn thông, công
nghệ thông tin; Kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng; Dịch vụ tài chính
trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin và Truyền thông đa phương tiện.
2.1.2.2. Tình hình tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và
Truyền thông
Về tài sản công trong các doanh nghiệp chủ yếu luận văn nghiên cứu số liệu về
số liệu vốn Nhà nước của 3 DN là VNPT, VTC, tổng công ty Bưu điện Việt Nam) và
đất (trong đó số liệu về đất đai được lấy thông qua hai DNNN là VNPT và tổng công
ty Bưu điện Việt Nam).
Thứ nhất, về vốn Nhà nước

Năm 2014 doanh thu công ty mẹ đạt 2.620 tỷ đồng, vượt 21% so với kế hoạch; lợi
nhuận Công ty mẹ đạt 46 tỷ đồng, vượt 34.7 tỷ đồng. Bên cạnh đó, lợi nhuận năm 2014 là
46.5 tỷ đồng, lỗ lũy kế còn 199 tỷ đồng, giảm 40% so với năm 2013 và dự kiến đến hết năm
2016 sẽ không còn lỗ luỹ kế hoàn thành một số chi tiêu kế hoạch được giao, cụ thể:
- Doanh thu Công ty mẹ năm 2014 đạt 2620 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2013;
năm 2015 đạt 3.180 tỷ đồng tăng 21% so với năm 2014.
- Lợi nhuận trước thuế năm 2014 đạt 46 tỷ đồng, tăng 44 tỷ đồng so với năm 2013;
năm 2015 đạt 78 tỷ đồng tăng 70% so với năm 2013.

Tình hình tài chính đã dần được cải thiện theo hướng ồn định, tổng tài sản tăng
5%, hệ số nợ phải trả năm giảm 7%, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu không thay đổi
trong 2 năm 2013;2014 nhưng giảm còn 1,62 lần trong năm 2015 cho thấy chuyển
biến tích cực trong cơ cấu nguồn vốn và tài sản.
Tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn chủ sở hữu năm 2013 đạt 0,1% và tăng lên
qua các năm 2014;2015 lần lượt là 4,4% và 6,9%.
13


Vòng quay tài sản tăng ổn định 16%/năm, năm 2013 là 0,8 lần; 2014 0,93 lần;
2015 là 1,08 lần tức là cứ 1 đồng tài sản năm 2013 sẽ tạo ra 0,8 đồng doanh thu; năm
2014 tạo ra 0,93 đồng doanh thu; năm 2015 tạo ra 1,08 đồng doanh thu.
(2) Để đánh giá việc quản lý, sử dụng tài sản công của Tổng công ty Bưu điện
Việt Nam có thể xem xét qua các số liệu sau:
Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, môi trường kinh doanh còn nhiều
hạn chế, thị trường lĩnh vực bưu chính cạnh tranh ngày càng cao, nhiều doanh nghiệp
tham gia vào thị trường, hoạt động chủ yếu tại những địa bàn thuận lợi, năm 2014 là
năm đầu tiên VNPost không còn được trợ cấp công ích, VNPost cơ bản vẫn hoàn
thành được kế hoạch giao, duy trì được mức tăng trưởng phù hợp, cụ thể:
+ Doanh thu năm 2014 thực hiện đạt 6.369 tỷ đồng, đạt 96% so với kế hoạch
giao và giảm 17% so với năm 2013;năm 2015 là 8.543 tỷ đồng tăng 2.174 tỷ đồng so

với năm 2014, vượt 28% so với năm 2014.
+ Lợi nhuận thực hiện đạt 72 tý đồng, đạt 172% kế hoạch năm, tăng so với
năm 2013 là 31 tỷ đồng, tương ứng tăng 75%;
Hệ số nợ trên tổng tài sản biến động mở mức biến động từ 0,23 đến 0,33 lần
cho thấy sự phù hợp trong cơ cấu tài sản và nguồn vốn, tình hình tài chính ở mức an
toàn trong giai đoạn này là rất quan trọng trong bối cảnh kinh doanh hiện nay của
VNPost.
Tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn chủ sở hữu năm 2013 đạt 0,5% và tăng lên
qua các năm 2014;2015 lần lượt là 0,9% và 1,07 %.
Vòng quay tài sản biến động qua các năm, năm 2013 là 0,73 lần; 2014 0,52
lần; 2015 là 0,6 lần tức là cứ 1 đồng tài sản năm 2013 sẽ tạo ra 0,73 đồng doanh thu;
năm 2014 tạo ra 0,52 đồng doanh thu; năm 2015 tạo ra 0,6 đồng doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản tăng trưởng đều.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu thuần tăng trưởng tốt từ 0,5% năm
2013 lên 1,03% năm 2015 cho thấy hiệu quả kinh doanh tăng lên bằng các biện pháp
quản lý chi phí hiệu quả.
(3) Để đánh giá tài sản công của Nhà nước tại VNPT có thể xem xét thông qua
một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn tại VNPT như sau:
Theo các quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 10/06/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về việc duyệt đề án tái cơ cấu Tập đoàn VNPT thực hiện việc tách hbạch hoạt
động kinh doanh - hoạt động kỹ thuật của các VNPT tại 63 tỉnh thành và các công ty
dọc đồng thời thực hiện tái cấu trúc bộ phận quản lý điều hành, sắp xếp lại các đơn vị
tham mưu, giúp việc cho Hội đồng thành viên, Ban tổng giám đốc. Từ những thay
đổi trên hoạt động sản xuất của Tập đoàn có những kết quả như sau:
-Tổng lợi nhuận sau thuế riêng của Tập đoàn giai đoạn 3 năm, (2013-2015) đạt
11.772 tỷ đồng đạt tỷ lệ tăng trưởng 17,9%/năm.
14


- Tổng doanh thu của 03 năm là 148.037 tỷ đồng đạt tỷ lệ tăng trưởng 15.7% /năm.

- Nộp ngân sách nhà nước giai đoạn 03 năm (2013-2015) đạt 10.211 tỷ đồng
đạt tỷ lệ tăng trưởng bình quân 17,6%/ năm.
Kết quả sản xuất kinh doanh của Tập đoàn từ năm 2013 đến năm 2015 có
nhiều sự biến động do việc thực hiện bàn giao các đơn vị thành viên như: bàn giao
Mobifone, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Bưu điện Trung ương về Bộ
thông tin Truyền thông.
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam được có hệ số nợ và vốn ổn định
qua các năm.
Hệ số vốn chủ sở hữu/ Tổng tài sản là 0,75 chứng minh trong cơ cấu vốn của
VNPT tài sản được tài trợ chủ yếu bằng vốn nhà nước. Cơ cấu nguồn nợ thấp chỉ
chiếm 0,33 lần sơ với nguồn vốn chủ sơ hữu là tỷ số này cho biết quan hệ giữa vốn
huy động bằng đi vay và vốn chủ sở hữu. Tỷ số này nhỏ chứng tỏ VNPT ít phụ thuộc
vào hình thức huy động vốn bằng vay nợ; có thể hàm ý Tập đoàn chịu độ rủi ro thấp.
Tỷ suất LNTT/Tổng tài sản là 5 %, tỷ suất LNTT/Doanh thu thuần trung bình
ở mức 7,8% ở mức cao so với các tập đoàn trực thuộc nhà nước, chẳng hạn Tập đoàn
Than và Khoáng sản Việt Nam LNTT/ Tổng tài sản chỉ đạt ở mức 1%, tỷ suất lợi
nhuận trước thuế/ Doanh thu thuẩn chỉ đạt 2% .Nghĩa là cứ 1 đồng tài sản VNPT tạo
là 0,05 đồng lợi nhuận và 1 đồng doanh thu mang lại 0,078 đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu vòng quay tài sản trung bình 0.57 lần thể hiện cứ 1 đồng tài sản sẽ tạo
ra 0,57 đồng doanh thu.
Thứ hai, tài sản đất đai
Để làm rõ được thực trạng sử dụng tài sản công ở nội dung thứ hai là đất đai
của Nhà nước tại Tập đoàn VNPT và Tổng công ty Bưu điện, tác giả tiến hành tổng
hợp, phân tích báo cáo của Cục Công sản – Bộ Tài chính trong năm 2015 thông qua
Bảng tổng hợp diện tích đất nhà nước giao cho Tập đoàn VNPT, Tổng Công ty Bưu
điện quản lý và sử dụng ( Phụ lục 1). Qua bảng số liệu cho thấy tài sản đất đai của
Nhà nước giao cho Tập đoàn VNPT (3.335.295,61 m2 )và Tổng công ty Bưu điện
(2.433.614,37 m2 ) ở cả 63 tỉnh, thành là rất lớn.
2.2. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nƣớc và hệ thống văn bản pháp luật quản lý
nhà nƣớc đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nƣớc tại Bộ thông tin và

Truyền thông
2.2.1. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh
nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông
Chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý các
tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước là Cục Quản lý công sản thuộc Bộ Tài

15


chính và Vụ Quản lý doanh nghiệp thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Đây có thể
nói là cơ chế “ kép” cùng song song quản lý.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Cục Quản lý công sản thuộc Bộ Tài
chính là đơn vị thuộc Bộ Tài chính, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về tài sản nhà nước và trưng mua, trưng dụng tài sản; thực hiện
quản lý về tài chính đối với đất đai và tài nguyên quốc gia; quản lý tài sản kết cấu hạ
tầng; tài sản được xác lập sở hữu nhà nước; trực tiếp quản lý một số loại tài sản nhà
nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Trực tiếp quản lý các DNNN nói chung cũng như tài sản công trong các DNNN
thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông là Vụ Quản lý doanh nghiệp thuộc Bộ Thông tin
và Truyền thông.
Vụ Quản lý doanh nghiệp là tổ chức thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, có
chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện một số quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp do Bộ quyết định thành lập hoặc được giao quản lý (sau đây gọi chung
là doanh nghiệp thuộc Bộ); tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về doanh
nghiệp và các loại hình kinh tế tập thể, tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thông tin,
Truyền thông. Thực hiện chức năng của mình, Vụ Quản lý doanh nghiệp có 16 nhiệm
vụ, trong đó có một số nhiệm vụ liên quan đến tổ chức, hoạt động, sắp xếp, đổi mới,
khuyến khích, hỗ trợ, định hướng phát triển doanh nghiệp thuộc Bộ.
Hiện nay Vụ Doanh nghiệp của Bộ Thông tin và Truyền thông có 9 người, trong

đó 1 Vụ trưởng, 02 Vụ phó và 06 nhân viên. Theo đúng quy định của pháp luật, Vụ
không tổ chức thành các phòng mà Vụ trưởng và các thành viên sẽ trực tiếp tiến hành
các hoạt động tham mưu quản lý nhà nước. Với số lượng người như trên vừa thực
hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng trong quản lý nhà nước đối với các DNNN
của Bộ cũng như tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về doanh nghiệp và các
loại hình kinh tế tập thể, tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thông tin, Truyền thông về
tất cả các nội dung hoạt động, có thể nói là quá lớn.
Từ thực trạng mô hình bộ máy quản lý nhà nước đối với tài sản công của các
DNNN tại Bộ Thông tin và Truyền thông có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, hiện nay việc quản lý TSC tại các DNNN tại Bộ Thông tin và Truyền
thông nói riêng và DNNN ở Việt Nam nói chung rất phân tán và do nhiều đầu mối
đảm nhận. Bộ Thông tin và Truyền thông là bộ chủ quản, đại diện phần vốn của chủ
sở hữu là Nhà nước.Tuy nhiên bản thân bộ, ngành được giao làm đại diện chủ sở hữu
nhà nước cũng không được toàn quyền quyết định những vấn đề trong phạm vi quyền
chủ sở hữu; các quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước bị phân tán ở nhiều
cấp trung gian nhưng quan hệ phối hợp giữa các cơ quan còn nhiều vấn đề khó thống
nhất. Việc quản lý tài sản công lại thuộc chức năng quản lý của Bộ Tài chính. Ngoài
16


ra, việc lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương, quyết định đầu tư chương trình, dự án
đầu tư công lại thuộc thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Hai là, Bộ Tài chính và Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện đồng thời cả
ba chức năng: quản lý nhà nước về kinh tế, chủ quản cấp trên đối với doanh nghiệp
và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Hiện tại chúng ta chưa có một
cơ quan chuyên trách quản lý toàn bộ vốn của Nhà nước. Cách quản lý này cũng có
những ưu điểm nhất định của mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa nhưng thực tế những
năm qua cho thấy cũng đã phát sinh rất nhiều nhược điểm. Cơ chế thực hiện quyền
chủ sở hữu của Nhà nước đối với tài sản đầu tư vào kinh doanh tại doanh nghiệp vẫn
chưa tách bạch rõ ràng giữa quản lý của chủ sở hữu với quản lý của Nhà nước với tư

cách là cơ quan công quyền quản lý chung đối với các loại hình doanh nghiệp. Đối
với các tập đoàn kinh tế nhà nước, chưa có một đầu mối thực hiện chức năng đại diện
chủ sở hữu nhà nước. Tình trạng các bộ, ngành vẫn được giao làm chủ sở hữu phần
vốn nhà nước tại doanh nghiệp vẫn là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng can
thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quyết định các vấn đề
quan trọng về nhân sự, kế hoạch kinh doanh, dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước đều phải trông chờ vào sự quyết định của cơ quan chủ quản khiến cho hoạt
động của doanh nghiệp trở nên trì trệ, không kịp thời theo yêu cầu của thị trường.
Ba là, Bộ Thông tin và Truyền thông vừa một số quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp do Bộ quyết định thành lập; vừa thực hiện quản lý nhà nước về doanh
nghiệp và các loại hình kinh tế tập thể, tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thông tin,
Truyền thông. Việc thực hiện đồng thời hai chức năng trên với đội ngũ nhân sự hiện
này của Bộ là “quá tải” về chuyên môn dẫn đền hiệu quả quản lý bị giảm sút, đặc biệt
là hoạt động kiểm tra, giám sát chưa được chú trọng.
2.2.2. Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với tài sản công
trong các doanh nghiệp nhà nước tại Bộ Thông tin và Truyền thông
Việc quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước
tại Bộ Thông tin và Truyền thông tuân thủ hệ thống các quy định pháp lý chung do
Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính ban hành.
Kết quả đạt đƣợc:
Pháp luật về quản lý tài sản công trong các DNNN hiện nay đã tương đối đầy
đủ, chế định hầu hết các vấn đề có liên quan; cơ bản khắc phục những lỗ hổng pháp
luật sau khi toàn bộ DNNN chuyển sang hoạt động theo Luật DN; đáp ứng yêu cầu
sắp xếp, tái cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN nói chung, hoạt động quản
lý TSC nhà nước nói riêng.
Về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng TSNN đã
đầy đủ, đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức, đơn
17



vị, cá nhân chủ động thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng TSC. Góp phần
nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về TSC; dần đưa việc quản lý, sử dụng
TSC đi vào nề nếp, kỷ cương, công khai và có hiệu quả. Pháp luật về tài sản công đối
với DNNN góp phần quan trọng vào việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, nâng
cao hiệu quả hoạt động của DNNN và bảo đảm vai trò của kinh tế nhà nước. DNNN
cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết
kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
Bất cập
Thứ nhất, hạn chế về kỹ thuật lập pháp, lập quy
Những quy định về quản lý, sử dụng tài sản công nằm rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật có hiệu lực khác nhau. Hiện nay, văn bản pháp lý cao nhất trong quản lý
TSC là Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (2008).
tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, không quy định về tài sản trong các DNNN. Tài
sản công trong các DNNN chịu sự chi phối bởi nhiều văn bản pháp lý khác nhau
(như đã liệt kê ở nội dung trên) dẫn đến những bất cập sau:
Mặc dù các nghị định và văn bản hướng dẫn nêu trên đều ghi rõ căn cứ ban
hành từ Luật DN nhưng nhiều nội dung điều chỉnh chưa được quy định trong Luật
hoặc quy định khác với Luật DN. Điển hình là nguyên tắc và mô hình tổ chức thực
hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước, quyền kinh doanh của DN, hoạt động của TĐ,
TCT, áp dụng chế độ viên chức quản lý đối với các cán bộ quản lý, điều hành DN,
khống chế tiền lương tối đa... Thậm chí, có ý kiến cho rằng, cần xem lại tính hợp
hiến, hợp pháp của hệ thống văn bản này.
Thứ hai, hạn chế về nội dung các quy định pháp luật. Cụ thể:
Một là, hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh về TSC trong các DNNN nói
chung và DNNN tại Bộ Thông tin và Truyền thông nói riêng, chưa chặt chẽ có nhiều
kẽ hở dẫn đến thất thoát, lãng phí TSC.

Hai là, quy định về phân công, phân cấp quản lý vốn và tài sản tại các doanh
nghiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chồng chéo, trùng lặp và không rõ
phạm vi. Thực tế này dẫn đến khó xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy
ra sai phạm, quy định các hành vi bị cấm, xử lý vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu
quả hoạt động đối với DNNN còn thiếu và không đồng bộ. Vì vậy, làm giảm hiệu
lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với DNNN nói chung cũng như hoạt động
giám sát của nhà nước đối với việc sử dụng các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước đầu
tư tại DNNN nói riêng.
18


Ba là, các quy định về giám sát vốn nhà nước đầu tư tại DNNN chưa chặt chẽ dẫn
đến hiệu quả giám sát chưa cao; công tác giám sát tài chính được thực hiện chủ yếu đối
với các đối tượng trực tiếp sử dụng vốn nhà nước vào hoạt động kinh doanh, chưa chú
trọng đến giám sát quá trình thực thi chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước; việc
công bố thông tin của các DN có vốn nhà nước còn thiếu minh bạch; cơ chế xử lý người
đứng đầu khi xảy ra sai phạm, cũng như việc xử lý các hành vi vi phạm về giám sát,
đánh giá hiệu quả hoạt động đối với DNNN chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

hành mới
vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp; chưa điều chỉnh đối với các loại tài sản nhà nước khác như: tài sản của các dự
án sử dụng vốn nhà nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về nhà nước, tài
sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, đất đai, khoáng sản,
rừng, nguồn lợi ở vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ
tinh, tên miền Internet và các tài nguyên khác. Do đó, nhiều nội dung thuộc chế độ
quản lý, sử dụng tài sản, nhất là việc hạch toán tài sản, khai thác tài sản với vị trí là
nguồn lực tài chính chưa có luật điều chỉnh để thực hiện đã làm hạn chế hiệu quả,
hiệu lực trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Nguyên nhân

Về mặt khác quan, đất nước ta chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường được 30 năm nay. Tuy nhiên các quan hệ kinh tế vẫn còn ảnh
hưởng nặng nề bởi tư duy bao cấp, các DN chưa bắt kịp với tư duy thị trường, vì thế
vẫn có tâm lí “được bao cấp”. Chính vì thế việc quản lí, sử dụng TSC trong các
DNNN vẫn xây dựng trên lối tư duy cũ. Mặt khác, do sự vận động thay đổi mạnh mẽ
của các điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm gần đây (đặc biệt là từ
khi có đường lối đổi mới 1986) dẫn đến thể chế QLNN đối với TSC trong các DNNN
chưa kịp chuyển biến kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
Về chủ quan, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thay đổi thể chế
QLNN đối với TSC trong các DNNN đã có từ rất lâu. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII
của Đảng đã xác định: "Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và
chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước; sớm xoá bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Uỷ ban nhân
dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan
chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước". Như vậy sẽ
xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của các bộ, ngành chủ quản vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh bằng các công cụ, mệnh lệnh hành chính. Có thể nói việc thể chế hóa các quan
19


điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên còn chậm và lúng túng. Thể chế QLNN
đối với đối với TSC trong các DNNN vẫn còn ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý quan liên
bao cấp, vì vậy nặng chiều chỉ đạo từ trên xuống, xin từ dưới lên. Tư tưởng ”bộ chủ
quản” còn khá nặng nề.
Sự hạn chế về năng lực lập pháp, lập quy của các chủ thể xây dựng và ban
hành văn bản pháp luật cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự và
bất cập trong các quy định pháp luật về QLNN đối với TSC trong các DNNN ở Việt
Nam nói chung và Bộ Thông tin và Truyền thông nói riêng hiện nay.
2.3. Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nƣớc đối với tài sản công trong các
doanh nghiệp nhà nƣớc – thực tiễn Bộ Thông tin và Truyền thông

2.3.1. Giải pháp chung
2.3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước 2008 là đạo luật có liên quan đến rất
nhiều luật chuyên ngành, tác động đến hầu hết các đối tượng quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Để sớm khắc phục tình trạng quản lý, sử
dụng tài sản còn manh mún, chưa hiệu quả, lãng phí nguồn lực nhà nước, thì cần sửa
đổi Luật này để đảm bảo việc quản lý tài sản công một cách hiệu quả, tăng cường
nguồn lực phát triển kinh tế đất nước và bổ sung đầy đủ các loại tài sản công theo quy
định của Hiến pháp năm 2013 và các luật chuyên ngành. Đồng thời, khắc phục bất
cập của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước 2008 chưa đưa nội dung tài sản nhà
nước trong các DNNN vào phạm vi điều chỉnh. Vì vậy cần ban hành Luật Quản lý, sử
dụng tài sản công, đồng thời với các luật chuyên ngành khác như Luật Đầu tư công;
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh
nghiệp 2014…để hình thành khung pháp lý điều chỉnh hoạt động QLNN đối với TSC
trong các DNNN.
Cụ thể, đối với tài sản công trong các DNNN đã được điều chỉnh bởi các luật
chuyên ngành, Luật này chỉ quy định những nguyên tắc chung cần tuân thủ, còn nội
dung cụ thể được dẫn chiếu theo các luật chuyên ngành.
Những nội dung cần thể hiện trong Luật Quản lý, sử dụng tài sản công là:
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích thuật ngữ, phân loại TSC, nguyên
tắc quản lý, sử dụng TSC; xác định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước đối
với TSC; xác định cơ quan quản lý TSC; chế độ quản lý, sử dụng TSC trong các cơ
quan, đơn vị; công khai thông tin về TSC, việc giám sát quản lý, sử dụng TSC….
2.3.1.2. Giải pháp hoàn thiện về bộ máy quản lý nhà nước
Xuất phát từ những bất cập trong mô hình quản lý nhà nước đối với TSC trong
các DNNN tại Bộ Thông tin và Truyền thông đã phân tích tại tiết 2.2, thiết nghĩ cần
phải có sự đổi mới triệt để trong việc thay đổi mô hình quản lý nhà nước. Mặt
khác,cần phải thay đổi trong mô hình quản lý nhà nước đối với các DNNN chứ không
20



chỉ dừng lại sự quản lý với TSC. Hay nói cách khác quản lý đối với TSC không tách
rời sự quản lý đối với các DNNN. Tất nhiên, trong đó chú trọng đến việc xây dựng một
mô hình hiệu quả nhất để đảm bảo quản lý, sử dụng và phát triển có hiệu quả nhất những
TSC trong các DNNN. Và mô hình này không chỉ áp dụng riêng đối với DNNN tại Bộ
Thông tin và Truyền thông mà còn áp dụng trong quản lý TSC nói riêng.
Hiện nay, có 3 phương án đưa ra để thiết lập mô hình quản lý nhà nước đối với
các DNNN nói chung và DNNN tại Bộ Thông tin và Truyền thông nói riêng.
Phương án 1: Thành lập mới cơ quan chuyên trách trên cơ sở điều chuyển cán
bộ tại các Bộ, ngành liên quan, bổ sung một số nhân sự đủ điều kiện từ Tổng công ty
Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), bảo đảm không làm tăng biên chế theo
tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị. Theo đó, Cơ quan chuyên trách
quản lý danh mục khoảng 30 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và doanh
nghiệp có vốn nhà nước quy mô lớn, trong đó bao gồm SCIC là đầu mối độc lập để
quản lý và thoái vốn tại các công ty cổ phần Nhà nước không cần nắm giữ.
Phương án 2: Nâng cấp SCIC thành Ủy ban quản lý vốn nhà nước đầu tư tại
doanh nghiệp để quản lý doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp có vốn
nhà nước.
Phương án 3: thành lập mô hình cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp. Tăng
cường, củng cố, kiện toàn SCIC là doanh nghiệp trực thuộc Chính phủ làm chức năng
đại diện chủ sở hữu (tăng địa vị pháp lý, nhân lực);tiến hành quản lý các DNNN.
Phương án 1 và 2 là thành lập một Ủy ban quản lý vốn nhà nước trực thuộc
Chính phủ. Ủy ban là cơ quan thuộc Chính phủ, do Chính phủ thành lập; giúp Chính
phủ quản lý, giám sát có hiệu quả vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp; thực
hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu, thoái vốn, sắp
xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; tập trung nguồn vốn nhà
nước đang đầu tư tại doanh nghiệp để đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực chiến
lược, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, với Việt Nam, cơ chế kinh tế thị trường
buộc chúng ta phải tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh.

Việc thành lập một Ủy ban chuyên trách độc lập làm chức năng đại diện quyền chủ
sở hữu nhà nước tại DN khó có thể làm thay đổi được thực trạng yếu kém trong quản
lý và sử dụng vốn nhà nước lâu nay, thậm chí làm cồng kềnh hơn nữa bộ máy quản
lý, gây chồng chéo chức năng, trách nhiệm lại không rõ ràng. Hơn nữa Việt Nam
chưa từng có tiền lệ thiết lập một ủy ban quản lý một lượng vốn nhà nước khổng lồ
như vậy. Không những không có kinh nghiệm trong việc thiết lập ủy ban quản lý vốn
nhà nước, mà ngay cả những phương hướng điều hành và hoạt động cơ bản của ủy
ban này cũng đang tỏ ra hết sức mù mờ kể cả trong dự thảo nghị định đang được
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư
21


(KH&ĐT) thực hiện. Về cơ bản, việc thiết lập ủy ban này sẽ quyết định việc giám sát
và sử dụng một trong những nguồn vốn lớn nhất trong nền kinh tế, lên tới 5 triệu tỉ
đồng (tương đương 250 tỉ USD) bao gồm vốn nhà nước trong các tập đoàn, tổng công
ty và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Bắt tay vào thực hiện ngay một kế hoạch đồ
sộ mà không có được những kinh nghiệm cơ bản là một việc làm có vẻ như không
thực sự khôn ngoan.
Mặt khác, nếu đặt tên Ủy quan quản lý vốn nhà nước thì không bao hàm các
nội dung khác như: tài sản dưới dạng tài nguyên, nhân sự, con người…Hay nói cách
khác không quản lý được toàn diện các DNNN.
Vì thế tác giả ủng hộ phương án thứ ba: thí điểm với một đơn vị có quy mô
nhỏ hơn để tích lũy những kinh nghiệm cần thiết, sẽ chịu trách nhiệm thay mặt Chính
phủ quản lý tất cả các DNNN. Và Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
(SCIC) có thể trở thành một hình mẫu thí điểm phù hợp cho yêu cầu này.
Việc thực hiện thí điểm mô hình tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước với
SCIC cũng là điều cần làm, khi mà trong suốt nhiều năm qua chúng ta đã hạn chế khá
nhiều những chức năng mà lẽ ra SCIC cần phải được đảm trách. Sự thiếu hiệu quả của
SCIC trong nhiều năm qua là do chúng ta đã không đáp ứng đủ các điều kiện để tổng công
ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước này thực hiện đúng chức năng của mình.

Về lý thuyết, SCIC là công ty chuyên đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước,
trong đó đặt vấn đề hiệu quả kinh tế trong việc đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
lên hàng đầu. Tuy nhiên thay vì đưa vốn cho SCIC đầu tư kinh doanh thì chúng ta lại
chuyển các DN cổ phần hóa về cho SCIC quản lý thoái vốn để lấy tiền đầu tư. Do đó,
về bản chất, chức năng chỉ tập trung cho đầu tư kinh doanh vốn nhà nước của SCIC
đã không được đảm bảo, mà thay vào đó phải phân tán vào các chức năng như thoái
vốn và cổ phần hóa. Ngoài ra, do SCIC vẫn chưa được tách ra hoạt động độc lập mà
còn phải chịu sự quản lý của nhà nước, mà ở đây là Bộ Tài chính, nên hiệu quả đầu tư
kinh doanh vốn của SCIC là chưa thực sự lớn.
Nói cách khác, nếu như Việt Nam đang cần một đối tượng có thể thí điểm theo
mô hình công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước như Temasek Holdings của
Singapore, thì SCIC hiện đang là ứng cử viên sáng giá nhấ, SCIC hội tụ được nhiều
điều kiện thuận lợi nhất để có thể đi theo mô hình và cách thức hoạt động tương tự
như Temasek. Nếu việc thí điểm với SCIC thành công, trong đó cho phép SCIC tách
ra và hoạt động độc lập với các cơ quan quản lý nhà nước và tập trung hoàn toàn vào
vấn đề đầu tư kinh doanh vốn nhà nước; thì Việt Nam hoàn toàn có thể tính đến việc
nâng cấp SCIC trở thành tổng công ty nắm giữ vai trò đầu tư kinh doanh vốn tại các
tập đoàn và tổng công ty nhà nước khác, thay vì thành lập một ủy ban với những
nhiệm vụ chồng chéo, bất khả thi mà Việt Nam không có bất cứ một kinh nghiệm khả
dĩ nào trước đó.
22


2.3.1.3. Giải pháp khác
Thứ nhất, cần đổi mới tư duy giám sát, kiểm soát vốn nhà nước bằng giám
sát, kiểm soát quyền chủ sở hữu nhà nước (có nội hàm rộng hơn, toàn diện hơn
quyền sở hữu vốn nhà nước) tại tất cả các DNNN nói chung và DNNN tại Bộ Thông
tin và Truyền thông nói riêng. Việc thể chế hoá tư duy giám sát, kiểm soát quyền
chủ sở hữu nhà nước trong DNNN thay cho giám sát, kiểm soát vốn nhà nước thành
các quy định pháp luật là cần thiết và là tất yếu . Hiện nay, chúng ta mới chú trọng

đến việc “quản lý và sử dụng vốn nhà nước” mà chưa thể hiện được ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc “quản lý và giám sát thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước”.
Cũng vì vậy, cần thay đổi cách dùng từ “chủ sở hữu vốn” thành “chủ sở hữu” trong
các quy định pháp luật. Chỉ thông qua việc giám sát, kiểm soát quyền chủ sở hữu
nhà nước trong DNNN mới có thể bảo đảm quyền và lợi ích của Nhà nước; khắc
phục được những bất cập trong quản lý, giám sát DNNN nói chung và TSC trong
các DNNN nói riêng như trong thời gian vừa qua.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát việc quản lý, sử dụng TSC
trong các DNNN thông qua các công cụ khác nhau và các chủ thể khác nhau. Ngoài
sự kiểm soát của bộ chủ quản, các bộ, ngành có liên quan như ( Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và đầu tư), kiểm soát của các cơ quan chức năng như ( Quốc hội, Kiểm toán
Nhà nước, Thanh tra Chính phủ) còn nâng cao, phát huy vai trò của phương tiện
thông tin đại chúng cũng như kiểm soát của xã hội.
Thứ ba việc quản lý vốn và tài sản nhà nước tại DNNN cần đến những cơ
quan chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm, từng cán bộ phải là chuyên gia trong lĩnh
vực kinh doanh chứ không phải công chức quản lý hành chính đơn thuần. Vì vậy,
cần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, trước mắt là công chức tham gia
QLNNN đối với TSC trong các DNNN.
2.3.2. Giải pháp cụ thể với Bộ Thông tin và Truyền thông
Trước mắt, xuất phát từ sự lãng phí, thất thoát trong sử dụng TSC mà cụ thể là
đất đai giao cho các DNNN của Bộ Thông tin và Truyền thông, cần xây dựng thể chế,
văn bản quản lý nhà nước về đất đai sát thực tế và có tính dự báo để đáp ứng nhu cầu,
xu thế phát triển của đất nước.
Bộ Thông tin và Truyền thông cần nghiên cứu, đánh giá lại nhu cầu sử dụng
đất thực tế của các DNNN thuộc bộ. Mặt khác, với số lượng nhân sự ít ỏi của Vụ
Doanh nghiệp thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông (9 người), trong xu thế chung là
tinh giảm biên chế trên cả nước thì việc tăng thêm người là không khả thi. Chính vì
vậy, chỉ có phương án điều chuyển nhân sự từ các Vụ, Cục khác và nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức trong Vụ Doanh nghiệp.
Bản thân, Bộ Thông tin và Truyền thông cần tích cực triển khai hoạt động cổ

phần hóa DNNN theo đúng lộ trình Chính phủ đã đưa ra, hướng tới chuyển giao các
DNNN về cơ quan quản lý chuyên trách khi cơ quan này được thành lập.
23


×