Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn skkn Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.96 KB, 22 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

1. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến
Áp dụng trong công tác quản lý chỉ đạo giáo dục về chủ quyền và tài nguyên
biển đảo cho trẻ ở trường mầm non.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : “Ngày trước ta chỉ có
đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài tươi đẹp,
ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Từ nhiều năm nay trên biển đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo
rất quyết liệt và phức tạp. Quần đảo Hoàng Sa bị cưỡng đoạt từ năm 1974,
Trường Sa bị xâm chiểm và đồn trú bởi nhiều quốc gia. Biển đông tiềm ẩn những
nhân tố mất ổn định tác động đến quốc phòng và an ninh nước ta, gây ra những
nhân tố khó lường về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước.
Chưa lúc nào vấn đề giáo dục chủ quyền biển đảo đặc biệt viêc hệ
thống tài liệu, cứ liệu lịch sử nhằm nâng cao nhận thức trong nhân dân về hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại cần kíp như lúc này.
Lâu nay qua các phương tiện thông tin đại chúng ai cũng biết chủ
quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Nhưng hiểu sâu cặn kẽ và khoa học thì không phải ai cũng biết vì
vậy yêu cầu đặt ra lúc này cần có một chương trình học liên quan đến chủ
quyền biển đảo.
Thực tế hiện nay đa số giáo viên và phụ huynh cũng như học sinh còn thiếu
kiến thức về biển đảo và chủ quyền vùng biển Việt Nam. Thực trạng này do nhận
thức còn hạn chế và do công tác tuyên truyền chưa thật sâu rộng trong nhà trường
và xã hội, đã khiến cho cho dư luận xã hội quan tâm đặc biệt, nhiều ý
kiến đã nêu rõ sự quan ngại. Trong khi Bộ Giáo dục Đào tạo chưa chính
thức đưa nội dung chủ quyền biển đảo vào chương trình giáo dục, nếu mỗi nhà


Ma Thị Minh Thư

1

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

trường chú trọng hơn đến vấn đề này bằng các cách làm khác nhau, tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực, trong đó có việc đưa vấn đề chủ quyền biển đảo lồng ghép
vào các tiết học, hoạt động trong nhà trường thì tin rằng các học sinh là những chủ
nhân tương lai của đất nước sẽ ý thức được trách nhiện bảo vệ chủ quyền biển đảo
của đất nước
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách và bức thiết này tôi thiết nghĩ, cùng với
sứ mệnh giáo dục tri thức cần đặt ra những giải pháp cụ thể giáo dục về tài
nguyên, chủ quyền biển đảo từ đó nâng cao lòng tự hào dân tộc, tình yêu đất
nước cho thế hệ trẻ cũng như đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên một cách
nhẹ nhàng có hệ thống sâu sắc nhất.
Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục về tài
nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường mầm non Hợp Thành”.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở và thực trạng tìm ra những biện pháp để chỉ đạo
cán bộ, giáo viên và nhân viên phối hợp cùng phụ huynh học sinh thực hiện giáo
dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường mầm non Hợp Thành.
3. Nội dung của sáng kiến:
3.1. Tính mới
Để thực hiện giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường
mầm non thì gia đình, nhà trường, xã hội cộng đồng phải có sự phối kết hợp

khăng khít chặt chẽ với nhau. Do vậy phải làm tốt hơn công tác chỉ đạo cán bộ,
giáo viên, nhân viên phối hợp cùng phụ huynh để giáo dục về tài nguyên, chủ
quyền biển đảo cho trẻ. Biện pháp tiến hành:
- Lồng ghép vào trong các bài học cho trẻ: lồng ghép một số bài hát, bài thơ
có nội dung về biển đảo vào các chủ điểm. Thường xuyên trò chuyện cùng trẻ về
biển đảo, tấm gương, hình ảnh những người chiến sĩ.

Ma Thị Minh Thư

2

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

- Tạo góc biển đảo trong lớp học: Những hình vẽ về biển đảo của học sinh.
Tranh ảnh liên qua đến biển.
- Nâng cao nhận thức của các bậc phụ huynh bằng cách xây dựng kế hoạch cụ
thể để tuyên truyền đến phụ huynh học sinh về vấn đề biển đảo. Truyền đạt những
vấn đề cơ bản, thời sự, thiết thực về biển, đảo Việt Nam như: khái quát về vùng
biển, đảo nước ta; vai trò của biển, đảo đối với an ninh quốc phòng, đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội; giáo dục ý thức về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc; ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường biển, đảo. Ngoài ra còn giải thích cặn
kẽ, được biết thêm các thông tin, kiến thức có liên quan về biển, đảo Việt Nam.
Qua hoạt động này nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, xây dựng ý thức công
dân về biển, đảo quê hương; đồng thời nhân lên trong nhân dân lòng tự hào, tình
yêu quê hương, đất nước, đặc biệt về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

- Tổ chức tập huấn về kiến thức cho toàn bộ giáo viên một cách đại trà, đây
là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền về tài nguyên, chủ quyền biển đảo
Việt Nam sâu rộng và cụ thể đến mỗi phụ huynh và học sinh Trường Mầm non
Hợp Thành.
Các nội dung tập huấn để làm công tác tuyên truyền chủ yếu là giới thiệu về
vùng biển chủ quyền Việt Nam. Giới thiệu về hệ thống các đảo lớn và các quần
đảo. Điều kiện kinh tế xã hội, đặc điểm dân cư, cuộc sống thường ngày của người
dân trên các đảo.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến bằng văn bản những cơ ở pháp lý, khẳng
định chủ quyền củaViệt Nam đối với các quần đảo trên biển Đông. Tuyên truyền
giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao ý thức đấu tranh, bảo
vệ giữ gìn tài nguyên, chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của tổ quốc đến giáo viên,
phụ huynh, học sinh Trường Mầm non Hợp Thành.

Ma Thị Minh Thư

3

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

- Bên cạnh kiến thức có trong tài liệu để giúp thế hệ trẻ hiểu hơn chủ quyền
biển đảo cần phải có các buổi học trực địa trên sa đồ, mô hình, hình ảnh để có thể
hiểu biết rõ hơn cũng như tạo sự lôi cuốn với trẻ. Từ hiểu biết thông tin qua tài
liệu, qua thực địa sẽ dễ dàng tổ chức các cuộc thi tìm hiểu chủ quyền biển đảo.
Không những là các cuộc thi viết mà còn cần cuộc thi sáng tạo kỹ thuật, ứng dụng

giúp ngư dân trên biển, giúp chống lại thiên tai, nhân tai trên biển. Thực hiện tốt
điều này sẽ mang lại giá trị lớn về giáo dục rất lớn.
- Tổ chức nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp với nhiều hình thức khác nhau.
Tổ chức các hội thi với sự tham gia của cả gia đình, nhà trường, học sinh như: Thi
văn nghệ hát về biển đảo, đố vui, thi vẽ tranh về biển đảo thi kể chuyện, hùng
biện với chủ đề biển đảo… Nhằm tạo sân chơi sôi nổi, hấp dẫn lôi cuốn toàn
trường tham gia. Qua đó nâng cao nhận thức, hiểu biết về tài nguyên chủ quyền
biển đảo cho tất cả mọi người.
- Nâng cao tư tưởng và nhận thức cho giáo viên. Đây là vấn đề quan
trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền về biển
đảo. Đội ngũ giáo viên trong nhà trường phải là những người có bản lĩnh chính trị
kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
có tính đảng, tính chiến đấu cao. Không chỉ nắm vững quan điểm đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà phải có kiến thức cơ bản toàn diện,
hệ thống đúng đắn về biển, đảo, có năng lực tổng hợp, nghiên cứu dự báo những
vấn đề nảy sinh, nhất là tình hình về thực tiễn biển đảo hiện nay. Bên cạnh đó,
cần phát huy tốt vai trò của đội ngũ giáo viên trong các nhà trường nhằm định
hướng thông tin về biển đảo cho học sinh, phụ huynh học sinh. Đội ngũ giáo viên
phải không ngừng tự bồi dưỡng kiến thức, cập nhật những thông tin mới nói
chung và thông tin về biển, đảo nói riêng để làm phong phú thêm cho bài giảng
của mình. Trong đó, cần nắm thông tin về biển, đảo một cách đa chiều, đa diện và

Ma Thị Minh Thư

4

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm


Năm học 2015- 2016

đứng vững trên quan điểm, lập trường, đường lối của Đảng khi phân tích luận
giải vấn đề về biển, đảo. Biết cân nhắc, chắt lọc, lựa chọn những thông tin có ích,
có tác dụng định hướng chính trị, tư tưởng cho học sinh, phụ huynh học sinh. Từ
đó, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng lòng tự hào, tự tôn
dân tộc và khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, hòa bình, ổn định
và phát triển.
- Nâng cao trình độ chuyên môn qua các chuyên đề, giáo viên phải
linh động trong thiết kế bài giảng cũng như hình thức tổ chức dạy học. Do
đặc thù của mỗi vùng miền khác nhau, nên giáo viên có thể giáo dục biển
đảo thông qua dạy học tích hợp, nhưng cũng có thể dạy học theo nội dung
chủ đề. Hình thức dạy học theo chủ đề cần phải có thời gian chuẩn bị kĩ
lưỡng, Hình ảnh minh họa sinh động, thu hút, hệ thống câu hỏi phải đạt
được ở các cấp độ tư duy nhằm phát huy năng lực nhận thức cho các đối
tượng học sinh.
- Bồi dưỡng qua phong trào thi giáo viên dạy giỏi.
- Bồi dưỡng qua hướng dẫn kỹ năng làm đồ dùng đồ chơi.
- Nâng cao trình độ chuyên môn qua thi viết Sáng kiến kinh nghiệm.
- Xây dựng khối đoàn kết thống nhất.
- Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân và cùng tổ chức thực hiện giáo dục
tài nguyên và chủ quyền biển đảo.
- Cung cấp và triển khai tài liệu về tài nguyên và chủ quyền biển đảo cho
cán bộ, giáo viên, nhân viên.
- Tiến hành kiểm tra đánh giá. Nội dung đánh giá cần được bám sát theo
mục tiêu, nội dung giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển của Việt Nam.
+Về mặt kiến thức: Học sinh nhớ được các khái niệm cơ bản, có thể trình bày
lại hoặc nhận ra chúng khi được yêu cầu. Nắm được chủ quyền biển đảo Việt Nam.


Ma Thị Minh Thư

5

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

* Biết tên 1 số bãi biển, đảo nổi tiếng của nước ta.
* Biết phân biệt được những hành động đúng, sai đối với môi trường biển và hải đảo
+ Về kỹ năng:
* Biết cách quan sát, nhận xét về tranh ảnh tài nguyên thiên nhiên và môi
trường biển đảo qua tranh ảnh, hình vẽ, thực tế địa phương.
* Thực hiện một số hành động cụ thể biểu hiện sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên của biển, đảo; tham gia bảo vệ môi trường biển đảo.
* Biết giữ gìn trật tự vệ sinh công cộng, vệ sinh trường lớp.
Cần chú ý đánh giá khả năng vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học về
giáo dục tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vào các tình huống của thực
tiễn cuộc sống.
- Xác định rõ vai trò của người làm công tác giáo dục về tài nguyên, chủ
quyền biển đảo cho thế hệ trẻ. Để giáo dục có hiệu quả nội dung chuyên đề biển
đảo, ngoài việc tổ cốt cán định hướng giúp cho giáo viên xây dựng kế hoạch nội
dung chuyên đề, thì cần tham mưu Phòng Giáo dục tổ chức các hội nghị chuyên
đề về nội dung biển đảo. Mục đích giúp cho cán bộ giáo viên thấy được tầm quan
trọng của việc dạy học có tích hợp biển đảo hoặc ý nghĩa của việc tổ chức chuyên
đề. Đây là cơ sở để giáo viên xác định rõ mục tiêu của việc tổ chức chuyên đề.
Các chuyên đề biển đảo không chỉ giáo dục ý nghĩa về giá trị của tài nguyên

thiên nhiên mà cao hơn nữa là giáo dục cho học sinh nhận thức về việc sử dụng
hợp lí và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo. Các chuyên đề giáo dục về nội
dung biển đảo còn giúp cho học sinh hình thành ý thức sẵn sàng tham gia bảo vệ
tài nguyên, môi trường biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước ta.
3.2.Tính khoa học.
3.2.1. Một số khái niệm
- Khái niệm giáo dục:

Ma Thị Minh Thư

6

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

“Giáo dục, theo nghĩa tổng quát, là một hình thức học tập, trong đó kiến
thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người từ thế hệ này (người truyền
đạt) được chuyển giao sang thế hệ kế tiếp (người thụ huấn) thông qua giảng
dạy, huấn luyện, nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của
người khác, nhưng cũng có thể tự học. Bất kỳ sự trải nghiệm nào mà có tác
dụng trên cách suy nghĩ, cảm nhận hay hành vi của một người đều có thể được
coi là giáo dục”
Nói cách khác “Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức hướng tới mục
đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người học
theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng
những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và

phát triển của con người trong xã hội đương đại”.
Giáo dục trẻ em nói chung, giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho
trẻ ở trường mầm non Hợp Thành nói riêng. Dù nhỏ tuổi nhưng có được tình yêu
biển đảo ở các em là điều vô cùng quý giá. Các em sẽ là chủ nhân tương lai của
đất nước. Các em sẽ là những người gìn giữ Trường Sa, Hoàng Sa, bảo vệ vùng
biển vùng trời tổ quốc. Sẽ không thể làm được, nếu đất nước ta không trở nên
cường thịnh, giàu mạnh...
- Khái niệm tài nguyên biển đảo
Tài nguyên biển là một bộ phận của tài nguyên thiên nhiên, hình thành và
phân bố trong khối nước biển (và đại dương) trên bề mặt đáy biển và trong lòng
đất dưới đáy biển.
Tài nguyên biển và hải đảo bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi
sinh vật thuộc khối nước, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển vùng đất ven biển, các
đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam

Ma Thị Minh Thư

7

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

- Khái niệm chủ quyền biển đảo
Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ
của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được

thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.
Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở
chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và
khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích
kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió..
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc
đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện đúng như: cấp phép,
giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị
và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các
thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển. Bảo vệ và giữ gìn môi trường
biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.
Tài liệu tham khảo: 100 câu Hỏi – Đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt
Nam (Ban Tuyên giáo Trung Ương).
3.2.2. Tầm quan trọng của tài nguyên, chủ quyền biển đảo
* Tầm quan trọng của tài nguyên biển đảo
Vùng biển Việt Nam là một phần của biển đông. Bờ biển dài 3.260km từ
Quảng Ninh đến Kiên Giang. Biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu km. Có khí hậu biển là vùng nhiệt
đới tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển, tồn tại tốt. Có tài nguyên, sinh vật
và khoáng sản phong phú, đa dạng, quý hiếm.
- Các nguồn tài nguyên quan trọng của biển đảo Việt Nam
+ Tài nguyên sinh vật:

Ma Thị Minh Thư

8

Trường Mầm non Hợp Thành



Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Vùng biển Việt Nam có hơn 2.458 loài cá, trữ lượng cá có thể đánh bắt hàng
năm khoảng 2,3 triệu tấn. Có nhiều loài là thực phẩm được ưa thích, như: mực,
hải sâm...Ngoài động vật, biển còn cung cấp cho con người nhiều loại rong biển
có giá trị.
+ Tài nguyên phi sinh vật:
Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta
+ Tài nguyên giao thông vận tải :
Lãnh thổ nước ta có đường bờ biển chạy theo hướng Bắc - Nam dọc theo
chiều dài đất nước, lại nằm kề trên các tuyến đường biển quốc tế quan trọng của
thế giới, có những vụng sâu kín gió là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông
vận tải biển và mở rộng giao lưu với bên ngoài.
+ Tài nguyên du lịch Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vịnh, hang động tự nhiên
đẹp là tiềm năng về du lịch lớn của nước ta.
Các trung tâm kinh tế thương mại, các thành phố du lịch nằm ven biển hoặc
cách bờ biển không xa như Hạ Long, Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha
Trang, Vũng Tàu, Hà Tiên, Hà Nội, Sài Gòn,... Hệ thống đường bộ, đường xe lửa
xuyên Việt và liên vận quốc tế chất lượng cao được xây dựng dọc bờ biển.
* Tầm quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
Ngày 10/4/1956, khi nói chuyện tai Hội nghị cán bộ cải cách miền biển, Hồ
Chí Minh đã nói: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa
có được không? Kẻ gian tế nó sẽ vào chỗ nào trước? Nó vào ở cửa trước. Vì vậy
ta phải giáo dục cho đồng bào biết bảo vệ bờ biển.
Biển đảo là một phần máu thịt, là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ
quốc, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của quốc gia… Bảo về chủ
quyền biển đảo chính là khẳng định chủ quyền của nước ta ở vùng biển và thềm

lục địa xung quanh.

Ma Thị Minh Thư

9

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Biển nước ta từ xưa tới nay luôn đóng vai trò to lớn, là không gian chiến
lược quan trọng đối với quốc phòng an ninh. Bảo vệ chủ quyền biển đảo làm tăng
chiều sâu phòng thủ của đất nước. Hầu hết các trung tâm trính trị, kinh tế xã hội
của nước ta đều nằm cách bờ biển không xa.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp trong điều
kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn
xem như một yếu tố đặc lợi. Chúng ta cần tăng cường hơn nữa những khả năng
quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền
phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và
lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn
trên các vùng biển đảo, nhất là ở vùng biển xa. Phải xây dựng Hải quân nhân dân
Việt Nam và các lực lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và hiện đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Ngày nay, đất nước đã hòa bình và phát triển nhưng biển đảo vẫn canh cánh
mối lo xâm lấn của các thế lực thù địch. Nên nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam,

nhiệm vụ của mỗi người với tình yêu Tổ quốc, tình yêu biển đảo lại được đặt lên
trên hết.
Tóm lại : Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo vào
trong chương trình giáo dục mầm non là rất cần thiết, tạo cho cơ hội cho trẻ được
làm quen, nhận biết về biển đảo, trên cơ sở đó hình thành ý thức, thái độ với môi
trường tài nguyên, chủ quyền biển đảo. Trang bị cho trẻ những kỹ năng thực hành
khi được tiếp cận với môi trường biển đảo. Từ đó có ý thức, tránh nhiệm, hành vi
tốt để bảo vệ tài nguyên, chủ quyền biển đảo.

Ma Thị Minh Thư

10

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

3.3.Tính Thực tiễn
Trên Biển Đông, Việt Nam đang thực hiện chủ quyền đối với hơn 3.000 hòn
đảo lớn nhỏ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Việt Nam là một quốc gia biển có hơn 3260 km bờ biển và hơn 3000 hòn
đảo. Trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông –
một giao lộ hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới.
3.3.1. Tài nguyên biển đảo hiện nay
Tài nguyên biển nước ta vô cùng phong phú dồi dào, Hiện nay, trước sức ép
của tốc độ gia tăng dân số ngày càng nhanh, nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng
cao trong bối cảnh các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng cạn kiệt càng đẩy

mạnh khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển, nhưng thường
đi kèm với đó lại là các phương thức khai thác thiếu tính bền vững; các họat động
khai thác chủ yếu chỉ tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế để đạt được các
mong muốn tối đa, trong khi xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường, hoặc không có
hoặc thiếu những qui hoạch, kế hoạch chi tiết, cụ thể, cùng với cơ chế quản lý
lỏng lẻo của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh tác động của
biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự gia tăng mực nước biển và nhiệt độ
của trái đất, Vấn đề khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều khu
vực, quốc gia ngày càng đứng trước nhiều thách thức, nhiều nguồn tài nguyên bị
khai thác cạn kiệt, môi trường biển nhiều nơi bị ô nhiễm đến mức báo động.
Biển và đại dương có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống và của con
người và với môi trường tự nhiên. Song biển và đại dương đang chịu nhiều sức ép
về môi trường do đã và đang được xem là “bãi rác khổng lồ” của con người.
Công ước Luật biển năm 1982 đã chỉ ra 5 nguồn gây ô nhiễm biển:
- Các hoạt động trên đất liền: chất thải do hoạt động sinh hoạt và sản xuất
(công nghiệp, nông nghiệp..) của con người theo các dòng chảy sông suối ra biển.

Ma Thị Minh Thư

11

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

- Do hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyên (dầu khí, thủy sản,..) trên
thềm lục địa và đáy đại dương.

- Thải các chất độc hại ra biển một cách có hoặc không có ý thức: Trong
nhiều năm, biển sâu là nơi đổ các chất thải độc hại như chất thải phóng xạ, đạn,
dược, bom mìn… của nhiều quốc gia trên thế giới.
- Hoạt động giao thông vận tải biển: rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu
thuyền trên biển thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển. Bên cạnh đó,
các tàu thuyền thường xuyên thải dầu cặn trực tiếp xuống biển.
Cạn kiệt nguồn tài nguyên biển và ven biển do đánh bắt quá mức, tỷ lệ tổn
thất sau thu hoạch cao. Trước hết là do sức ép gia tăng dân số, tốc độ đô thị hóa
ngày một gia tăng. Trong khi đó, việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên
biển và hải đảo chưa thật hiệu quả, thiếu bền vững, nhất là trình độ khai thác tài
nguyên biển của nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, và việc thực thi kém các luật lệ cho nên dẫn đến tình trạng
lãng phí tài nguyên, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Cùng với sự suy giảm, cạn kiệt nhiều nguồn lợi biển do khai thác, sử dụng
không hợp lý và thiếu tính bền vững, môi trường biển ở nhiều khu vực trên trái
đất đang chịu nhiều thách thức và các mối đe dọa trầm trọng khi dân cư ven biển
ngày càng tăng, các họat động kinh tế ven biển ngày càng phát triển, nhiều cửa
sông ven biển bị ô nhiễm do nước thải từ các khu công nghiệp, khu đô thị thải ra
cùng với nạn phá hủy rừng ngập mặn ngày càng tăng, và sự gia tăng về tần suất
và mức độ ảnh hưởng của thiên tai bão lũ do biến đổi khí hậu …
Con người quan niệm có nước mà làm sạch được tất cả nên chính con người
đã biến biển thành bãi rác. Con người đổ xuống biển tất cả rác thải, bất kể những
công ước của cộng đồng quốc tế đã ngăn cấm như chất thải phóng xạ của các
quốc gia đổ ra biển, chôn xuống biển. Con người không ngừng đổ ra biển tất cả

Ma Thị Minh Thư

12

Trường Mầm non Hợp Thành



Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

chất thải chưa qua xử lý, số lượng ngày càng lớn thì biển sẽ quá tải.
Ở Việt Nam tình trạng một số bãi biển bị ô nhiễm không còn xa lạ. Do con
người xả rác bừa bãi. Không có ý thức giữ gìn môi trường nơi công cộng. Biến
bãi biển thành một bãi rác vừa ô nhiễm môi trường, cảnh quan. Vừa là nơi chất
chứa, tiềm ẩn những mầm bệnh cho người.

Tình trạng ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng

Bờ biển lại trở thành bãi rác

Ma Thị Minh Thư

13

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Hiện tượng cá chết hàng loạt tại miền trung đang là vấn đề nóng bỏng, đáng
quan tâm hiện nay. Hình ảnh cá chết trắng dọc bờ biển, những con cá bắt đầu
phân hủy và nước mắt của người ngư dân thực sự là nỗi ám ảnh với biết bao

người. không chỉ ảnh hưởng tới đời sống kinh tế, gây thiệt hại nặng nề cho người
dân miền biển mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh bờ biển Việt Nam. Ảnh hưởng đến
tiềm năng du lịch, ngành khai thác thủy sản.

Nước mắt của ngư dân trước thảm cảnh cá chết hàng loạt

Ma Thị Minh Thư

14

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Cá chết hàng loạt ở miền Trung

Ô nhiễm do khí thải công nghiệp

Ma Thị Minh Thư

15

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm


Năm học 2015- 2016

3.3.2. Chủ quyền biển đảo hiện nay
Biển, đảo Việt Nam có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cũng như mối quan hệ giao thương hàng hải, đối với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam luôn thấy rõ vị trí, tầm quan trọng biển, đảo của Tổ quốc, kiên quyết
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng pháp luật
Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hòa bình, an ninh trên biển.
Tình hình mới, nhất là từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương
981 trong vùng biển Việt Nam việc bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối với nước
ta càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm
xuyên suốt của Đảng ta trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu vực hiện nay đặt ra
phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khôn khéo, không bị kích động, xúi giục gây xung đột vũ
trang, chiến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực. Vì vậy, trước sự biến
đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông thời gian qua, nhiệm vụ
phòng thủ, bảo vệ đất nước nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm vụ nặng nề, đặt
trước nhiều khó khăn, thách thức. Phát huy lợi thế kết hợp với bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo Việt Nam đang trở thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
hiện nay. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa…” Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đặt ra nhiệm vụ cấp
bách không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, đảm bảo bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề chiến lược, mang tính cấp
bách, then chốt. Vì vậy, để phát huy lợi thế kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt

Ma Thị Minh Thư


16

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Nam trước mắt và lâu dài, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:
- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển
trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
- Xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo vững mạnh đáp ứng yêu cầu
quản lý, khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới.
- Kiên trì đối thoại tìm kiếm giải pháp hoà bình, tham gia xây dựng Bộ Quy
tắc ứng xử trên Biển Đông, kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp chính trị,
ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo.
- Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở
một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Biển, đảo là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia. Bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam là nhiệm vụ thường xuyên và là vấn đề mang tính cấp bách hiện
nay, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi người dân. Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế, đẩy mạnh đấu
tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao và pháp lí, nhất định chúng ta sẽ bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Xây dựng một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng nước ta thực sự trở thanh quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
3.3.3. Công tác giáo dục tài nguyên và chủ quyền biển đảo tại trường Mầm

non Hợp Thành
Thực tế hiện nay đa số giáo viên và phụ huynh cũng như học sinh Trường
Mầm non Hợp Thành còn thiếu kiến thức về tài nguyên biển đảo và chủ quyền
vùng biển Việt Nam. Thực trạng này do nhận thức còn hạn chế và do công tác
tuyên truyền chưa thật sâu rộng trong nhà trường và xã hội.

Ma Thị Minh Thư

17

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Trong chương trình học chưa có tiết học dành riêng cho tài nguyên, chủ
quyền biển đảo. Mà giáo dục về tài nguyên chủ quyền biển đảo chỉ gián tiếp
thông qua các tiết tạo hình, các bài hát, trò chơi.
Giáo viên nhà trường còn ít tài liệu, trang thiết bị dạy học hiện đại về tài
nguyên, chủ quyền biển đảo. Nhiều giáo viên còn mơ hồ về vùng chủ quyền của đất
nước, Khi được hỏi thì không ai nắm chính xác diện tích, vị trí địa lý, giới hạn chủ
quyền, các nguồn tài nguyên, tiềm năng và lợi thế biển đảo chúng ta như thế nào.
Thực tế hiện nay, Đa số học sinh nói chung đều còn thiếu về kiến thức biển đảo
và chủ quyền vùng biển Việt Nam. Với số lượng bài học về biển đảo còn hạn chế
trong chương trình địa lý chưa thể giúp học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết cụ
thể về các vấn đề biển đảo Việt Nam. Mặt khác, các bài học này chỉ nêu vài nét khái
quát về tình hình phát triển kinh tế xã hội ở vùng biển. Học sinh Mầm non nói riêng
các em ít có cơ hội tiếp xúc với biển đảo, nhận thức còn non nớt.

Phụ huynh học sinh còn nhiều hạn chế chủ yếu do công tác tuyên truyền
chưa sâu rộng. Một số thì không quan tâm, chưa có ý thức bảo vệ tài nguyên, cụ
thể: Các nguồn ô nhiễm theo các sông mang ra biển như dầu thải, nước thải chưa
qua xử lý, hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón, chất thải công nghiệp,
nông nghiệp, làng nghề, thuốc súng, chất phóng xạ, các chất thải rắn như đất cát,
rác, phế thải vật liệu xây dựng… Tất cả sẽ đổ về biển. Có những loại không phân
hủy được đọng lại ở ven bờ, chìm xuống đáy biển, những chất phân hủy thì hòa
tan trong khối nước biển.
Trong chiến tranh, biển Đông giữ vị trí rất quan trọng đối với miền Nam và
cả nước. Trong hòa bình, biển, đảo thuộc chủ quyền của ta là sự sống còn của cả
dân tộc Việt Nam. Cho nên việc bảo vệ, xây dựng, khai thác biển thuộc chủ quyền
của ta hiện nay càng quan trọng hơn bao giờ hết.

Ma Thị Minh Thư

18

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

3.4. Tính hiệu quả
Về phía trẻ: Khích lệ được trí tưởng tượng, sự tò mò của trẻ, trẻ có hứng thú
học, tiếp thu kiến thức nhanh. Trẻ rất hứng thú, yêu quê hương đất nước nhiều
hơn, thích tạo ra cái đẹp. Trẻ có ý thức bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng
và trẻ bước đầu có khái niệm về tỉnh yêu quê hương đất nước biết bảo vệ tài
nguyên, môi trường, chủ quyền biển và hải đảo của nước ta.

Giáo viên nắm vững kiến thức về biển đảo, luôn gương mẫu cho trẻ làm
theo, luôn có ý thức hướng dẫn và nhắc nhở trẻ kiên trì thực hiện những việc làm
hàng ngày có ý nghĩa có tình yêu thiêng liêng đối với quê hương đất nước có bảo
vệ tài nguyên, chủ quyền biển đảo.
Phụ huynh học sinh hiểu biết thêm và quan tâm hơn đến tài nguyên, chủ
quyền biển đảo. Và thể hiện rõ nhất ở việc thực hiện tốt vệ sinh môi trường ngay
tại địa phương mình.
4. Phạm vi áp dụng
Về tình hình thực hiện chỉ đạo cán bộ, giáo viên và nhân viên phối hợp cùng
phụ huynh học sinh giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường
mầm non Hợp Thành
5. Kết quả, hiệu quả mang lại
Qua công tác tuyên truyền giáo dục tài nguyên,chủ quyền biển đảo cho giáo
viên, phụ huynh, học sinh Trường Mầm non Hợp thành đạt các kết quả cụ thể
như sau:
- 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên nắm vững kiến thức về biển đảo. Giáo
viên chuẩn bị tốt bài giảng về tài nguyên chủ quyền biển đảo. Tự tổ chức làm đồ
dùng đồ chơi về chủ đề biển đảo ứng dụng tốt trong các giờ học.

Ma Thị Minh Thư

19

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016


- 97% phụ huynh học sinh quan tâm đến vấn đề tài nguyên, chủ quyền biển
đảo. Thể hiện ở việc thực hiện tốt vệ sinh môi trường, tham gia cùng nhà trường
giáo dục học sinh về giữ gìn tài nguyên môi trường, tình yêu quê hương đất nước.
- 100% học sinh trường mầm non Hợp Thành thông qua việc được giáo dục
về tài nguyên, chủ quyền biển đảo đã có ý thức yêu, giữ gìn môi trường sạch đẹp
ở trường học và nơi các em sinh sống. Các em học sinh biết hát 1 số bài hát về
biển đảo, kể tên 1 số biển đảo ở nước ta, biết vẽ tranh về chủ đề biển đảo…
Công tác giáo dục tài nguyên, chủ quyền biển đảo sẽ giúp học sinh hiểu hơn
về vị trí, vai trò, tầm quan trọng cũng như tiềm năng của biển đảo. Đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược biển, đảo trong tình hình mới.
Qua đó trẻ sẽ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ tài nguyên, chủ
quyền biển đảo.
6. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Vấn đề chỉ đạo giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo cho trẻ ở Trường
Mầm non Hợp Thành mà do bản thân tôi nghiên cứu, trong quá trình thực tế thực
hiện tại đơn vị tôi thấy nó mang lại hiệu quả rõ rệt nên có thể áp dụng được trong
toàn ngành.
7. Mục đích và những điểm khác biệt được áp dụng của sáng kiến:
Giáo dục về tài nguyên và chủ quyền biển đảo là một vấn rất quan trọng trong
thời kỳ này. Hiện nay các cấp các ngành đã có sự tuyên truyền về vấn đề này
thông qua các lớp tập huấn, các buổi học chính trị nhưng chưa thật sự sâu rộng,
đối tượng được tuyên truyền chủ yếu là người lớn và học sinh phổ thông. Còn
việc giáo dục về tài nguyên và chủ quyền biển đảo cho trẻ ở trường mầm non
chưa được coi trọng. Để con người có ý thức hơn về việc bảo vệ tài nguyên và
chủ quyền biển đảo thì rất cần thiết phải được giáo dục ngay từ khi trẻ học ở
trường mầm non, đó là lứa tuổi trẻ bắt đầu hình thành và phát triển nhân cách.

Ma Thị Minh Thư

20


Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2015- 2016

Được giáo dục ngay từ lứa tuổi này trẻ sẽ khắc sâu hơn, có ý thức hơn trong việc
bảo vệ tài nguyên và chủ quyền biển đảo.
8. Thời gian thực hiện sáng kiến:
Từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
9. Kiến nghị, đề nghị
Qua nghiên cứu thực tiễn và thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Tôi
kiến nghị:
- Trong thực tế việc thực hiện giáo dục về tài nguyên, chủ quyền biển đảo
đã khó nhưng giáo dục với trẻ mầm non càng khó hơn bởi vì tài liệu và các
phương tiện để giáo dục còn chưa phong phú, đa dạng.
Vì vậy đề nghị Ngành Giáo dục quan tâm hỗ trợ cho các nhà trường mầm
non đầu tư mua sắm thêm một số trang thiết bị hiện đại, tranh ảnh, các phương
tiện để các cô giáo có điều kiện giáo dục trẻ về tài nguyên, chủ quyền biển đảo
cho trẻ một cách tốt nhất là việc hết sức quan trọng.
Các nhà giáo dục cần làm tốt việc giáo dục về tài nguyên và chủ quyền
biển đảo cho học sinh ngay từ lứa tuổi mầm non.
Các cô giáo thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, học tập nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị để có kiến thức và hiểu biết sâu
rộng về các lĩnh vực để giáo dục trẻ./.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
P. HIỆU TRƯỞNG


Phú Lương, ngày 10 tháng 5 năm 2016
NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO

Trần Thị Phương

Ma Thị Minh Thư

Ma Thị Minh Thư

21

Trường Mầm non Hợp Thành


Sáng kiến kinh nghiệm

Ma Thị Minh Thư

Năm học 2015- 2016

22

Trường Mầm non Hợp Thành



×