Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Chế độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển 1982. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.32 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang

1


A. MỞ BÀI
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 được coi là hiến pháp của
biển. Công ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia Công ước
quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng
biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển.
Công ước cũng quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển.
Công ước Luật biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các
tranh chấp biển, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa
các nước xung quanh Biển Đông.
Chính vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn các quy định của Công ước Luật biển 1982
cũng như việc áp dụng Công ước này của Việt Nam, em xin chọn đề tài số 8:
“Anh/chị hãy phân tích chế độ pháp lý các vùng biển các quốc gia có quyền chủ
quyền và quyền tài phán theo Công ước Luật biển 1982. Liên hệ thực tiễn Việt
Nam.”

2


B. NỘI DUNG
1. Một số khái niệm
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 thì có thể hiểu:
- Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ
của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được
thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.


- Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở
chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai
thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế,
bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió...
- Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa
ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải
quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và
công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết
bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển
trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.
Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong khi quyền tài phán
là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo ra môi trường để thực hiện
quyền chủ quyền được tốt hơn.
Bên cạnh đó, trong khi chủ quyền và quyền chủ quyền chỉ được thực hiện trên
vùng lãnh thổ mà quốc gia có quyền thì quyền tài phán có không gian mở rộng hơn,
tới những nơi mà quốc gia đó không có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng
trên tàu thuyền có treo cờ của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong
vùng biển thuộc chủ quyền của một quốc gia khác).

3


Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia đối với: Vùng tiếp giáp lãnh hải; Vùng
đặc quyền kinh tế; Thềm lục địa.
2. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Điều 33 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982 có quy định
“1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc
gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:

a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa,
y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên
lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải.”
Theo quy định trên thì các quốc gia ven biển có quyền có một vùng tiếp giáp
lãnh hải. Vùng tiếp giáp lãnh hải được hiểu là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp
liền với lãnh hải. Vùng biển này hợp với lãnh hải và có chiều rộng tối đa là 24 hải
lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Như vậy, việc xác định chiều
rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải hoàn toàn phụ thuộc vào việc xác định đường cơ
sở và chiều rộng lãnh hải.
Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vì vùng này đã nằm ngoài vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển,
nên quốc gia ven biển chỉ được thực hiện thẩm quyền hạn chế trong một số lĩnh
vực nhất định đối với các tàu thuyền nước ngoài mà khoản 1 Điều 33 đã quy định.
Các quốc gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm ngăn ngừa
những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư

4


trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; trừng trị những vi phạm đối với các luật
và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
Ngoài ra, điều 303 của Công ước còn mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối
với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ, theo đó, việc lấy các hiện vật từ đáy
biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển, sẽ
được coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó trên lãnh thổ hoặc
trong lãnh hải của mình.
Phù hợp với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982,

Điều 13 Luật Biển Việt Nam 2012 cũng đã quy định “Vùng tiếp giáp lãnh hải là
vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ
ranh giới ngoài của lãnh hải.”.
Điều 14 quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam:
“1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền
khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải.
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa
và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy
ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.”
3. Vùng đặc quyền kinh tế
Điều 55 Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 quy định: “Vùng đặc
quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải,
đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền
tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các
quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.

5


Điều 57 của Công ước đã quy định chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải.
Về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế:
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, lần đầu tiên được ghi
nhận trong Công ước. Đây là một vùng biển đặc thù, trong đó quốc gia ven biển có
những quyền chủ quyền và quyền tài phán theo những quy định của Công ước.
Theo quy định tại Điều 56 của Công ước thì trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc
gia ven biển có những quyền sau:
- Các quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên sinh vật và không sinh vật, của vùng nước trên đáy biển, của đáy biển và

lòng đất dưới đáy biển, cũng như những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác
vùng này vì mục đích kinh tế từ nước, hải lưu và gió.
- Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; Nghiên cứu khoa
học về biển; Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; và các quyền và nghĩa vụ khác do
Công ước quy định.
a. Quyền đối với tài nguyên thiên nhiên
Các quốc gia ven biển có các quyền sau:
Đối với tài nguyên sinh vật:
-

Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối với các
tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình (khoản 1 Điều 61).
6


-

Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng tin cậy nhất mà mình có, thi
hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các
nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do
khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ
chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp tác với nhau một cách thích hợp để
thực hiện mục đích này (khoản 2 Điều 61).

-

Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác
tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế mà không phương hại
đến các quy định về bảo tồn các nguồn lợi sinh vật theo như quy định tại Điều 61

(khoản 1 Điều 62).

-

Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài nguyên
sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng
khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia
khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và theo đúng các thể thức, điều kiện,
các luật và quy định nói ở khoản 4 Điều 62, khai thác số dư của khối lượng cho
phép đánh bắt (khoản 2 Điều 62).

-

Các quốc gia ven biển và các quốc gia khác có quyền và nghĩa vụ trong việc phối
hợp, bảo tồn các loài cá di cư xa, các loài định cư, các đàn cá vào sông sinh sản,
các loài cá ra biển sinh sản và các loài có vú ở biển.
Đối với các tài nguyên không sinh vật thì các quốc gia ven biển tự khai thác
hoặc cho phép quốc gia khác khai thác cho mình và đặt dưới quyền kiểm soát của
mình.
b. Quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công
trình

7


Điều 60 Công ước có quy định về quyền này gồm có một số nội dung chính
sau:
-

Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây

dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng: Các đảo nhân tạo;
các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 hoặc các
mục đích kinh tế khác; các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực
hiện các quyền của quốc gia ven biển trong vùng.

-

Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị
và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, an
ninh và nhập cư.

-

Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông báo theo
đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo hiệu sự có mặt của
các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm. Các thiết bị hay công
trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ để đảm bảo an toàn hàng
hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được chấp nhận chung do tổ chức quốc
tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản,
bảo vệ môi trường biển, các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông
báo thích đáng về vị trí, kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết
bị hoặc công trình chưa được tháo dỡ hoàn toàn.

-

Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị
hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; trong các khu vực
đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo đảm an toàn
hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình đó.


-

Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính đến các
quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này được xác định sao
8


cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng của các đảo nhân tạo, các
thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra một khoảng cách quá 500m
xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trình, tính từ mỗi điểm của
mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do
các vi phạm của quốc tế đã được thừa nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có
thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ
tục.
-

Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo các tiêu
chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong khu vực của các
đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an toàn.

-

Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được
thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó
có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là
thiết yếu cho hàng hải quốc tế.

-

Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của các

đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì
đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hoặc thềm
lục địa.
c. Quyền trong việc nghiên cứu khoa học biển
Điều 246 Công ước Luật biển 1982 đã quy định về việc nghiên cứu khoa học
biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa tương đối cụ thể bởi lẽ việc
nghiên cứu khoa học biển là nhu cầu chính đáng của các quốc gia nhằm mở rộng hiểu
biết về quá trình phát triển và biến đổi của biển và môi trường biển.

9


- Các quốc gia ven biển có quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác
nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của
mình theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc.
- Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm
lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển nhằm vào những mục
đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức khoa học về môi truờng biển, vì lợi
ích của toàn thể loài nguời. Vì mục đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy
tắc và thủ tục bảo đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ
một cách phi lý.
- Quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện một dự án nghiên
cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một tổ chức quốc tế có thẩm quyền đề
nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình trong các
truờng hợp sau:
+ Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và Khai thác các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật;
+ Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng chất nổ hay
đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển;
+ Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân tạo, thiết bị

và công trình đã nêu ở các Điều 60 và Điều 80 của Công ước;
+ Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự án không
đúng theo quy định tại Điều 248 Công ước, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam kết với quốc gia
ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc đây.
d. Quyền tài phán về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển
Điều 193 Công ước Luật biển 1982 quy định: “Các quốc gia có quyền thuộc
chủ quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về môi
10


trường của mình và theo đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của
mình.”
Như vậy, các quốc gia cũng có nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Để
thực hiện trách nhiệm này, Công ước đã có một số quy định như: Các quốc gia có
quyền thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô
nhiễm bắt nguồn từ đất, ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền
tài phán quốc gia gây ra, ô nhiễm do sự nhận chìm, ô nhiễm do tàu thuyền gây ra (Điều
207, 208, 210, 211)
e. Quyền của các quốc gia khác
Trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác (dù có biển hay không có
biển) đều được hưởng quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp
và ống dẫn ngầm, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác
hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù
hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác
các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm (khoản 1 điều 58).
Ngoài ra, trên cơ sở thỏa thuận với quốc gia ven biển, các quốc gia khác còn có
quyền khai thác số dư tài nguyên thiên nhiên.
Công ước 1982 cũng quy định các quốc gia khác có quyền thực hiện các quyền
tự do biển cả trên thềm lục địa của quốc gia ven biển với điều kiện tôn trọng các

quyền của quốc gia đó. Đối với vùng nước phía trên hay vùng trời trên vùng nước
của thềm lục địa thì Điều 78 Công ước Luật biển 1982 quy định:
“1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến
chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này.

11


2. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không
được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia
khác đã được Công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các
quyền này một cách không thể biện bạch được”
Phù hợp với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982,
Luật Biển Việt Nam 2012 quy định cụ thể:
“Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh
hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính
từ đường cơ sở.”
Luật Biển Việt Nam quy định chế độ pháp lý vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam như sau:
“1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên
thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt
động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc
tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền

chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
12


Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt
Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có
liên quan.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại
Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này.”
4. Thềm lục địa
Hiện nay có hai khái niệm về thềm lục địa là thềm lục địa địa chất và thềm lục
địa pháp lý.
Thềm lục địa địa chất còn được gọi là rìa lục địa được hiểu là phần kéo dài
ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương
ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không
bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng,
cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
Như vậy, theo cách hiểu trên có thể thấy thềm lục địa địa chất được cấu tạo bởi
ba phần chính là: đáy biển tương ứng với thềm, dốc lục địa và bờ lục địa.
Còn về mặt pháp lý, khoản 1 Điều 76 Công ước Luật biển 1982 đã đưa ra định
nghĩa nêu bản chất pháp lý của thềm lục địa và mở rộng thềm lục địa như sau:
“Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng
13



để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở
khoảng cách gần hơn.”
Trên thực tế, rìa ngoài của thềm lục địa ở các khu vực có khác nhau: có nơi hẹp,
không đến 200 hải lý; nhưng có nơi rộng đến hàng trăm hải lý. Theo định nghĩa
trên cũng như những quy định tại các khoản tiếp theo trong điều 76 của Công ước
thì có thể xác định ranh giới của thềm lục địa như sau:
- Khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý, thì ranh giới
của thềm lục địa là đường cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200
hải lý.
- Khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt
quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thì quốc gia ven biển này có thể
xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình bằng một đường vạch theo
đúng knối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng
bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay
một đường vạch bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất
là 60 hải lý. Đường ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa có khoảng cách không
vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 mét là
đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m một khoảng cách không vượt quá 100
hải lý, với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài
của thềm lục địa trong Công ước Luật biển 1982 và phù hợp với các kiến nghị của
Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước.
Có nghĩa là quốc gia ven biển phải trình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của
Liên hợp quốc báo cáo quốc gia kèm đầy đủ bằng chứng khoa học về địa chất và
địa mạo của vùng đó. Sau đó, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc sẽ
xem xét và ra khuyến nghị.
Về chế độ pháp lý của thềm lục địa:
14



Chế độ pháp lý của thềm lục địa được thể hiện qua các quyền của quốc gia ven
biển. Đó là việc “Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm
lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình” (khoản 1 Điều
77). Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là quan trọng
nhất. Các quyền này có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển không
thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa,
thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận
rõ ràng của quốc gia đó. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không
phụ thuộc vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ
ràng nào. Tài nguyên thiên nhiên trong quy định này bao gồm các tài nguyên thiên
nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh
vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới
đáy; hoặc là không có khả năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay
lòng đáy dưới đáy biển.
Ngoài ra, Công ước cũng quy định các quốc gia ven biển còn có quyền tài phán
về nghiên cứu khoa học biển trên thềm lục địa của mình; quyền đối với các đảo
nhân tạo, các thiết bị, công trình trên thềm lục địa; quyền bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển (Điều 60 và Điều 80).
Tất cả các quốc gia khác đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở
thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven
biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc đường cáp đó (Điều 79).
Phù hợp với các quy định của Công ước, Điều 17 Luật Biển Việt Nam 2012 quy
định: “Thềm lục địa Việt Nam là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và
nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.”
15



Điều 18 Luật Biển Việt Nam cũng đã quy định rõ chế độ pháp lý thềm lục địa
Việt Nam như sau:
“1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai
thác tài nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền,
không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài
nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định
việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng
biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định
của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên,
không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích
quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt
Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên, hợp
đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ
Việt Nam.”
5. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Việt Nam đã ký kết và tham gia Công ước Luật Biển 1982. Theo luật pháp quốc
tế về biển, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và các
16


Tuyên bố, văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam được ban hành
trong mấy chục năm gần đây, Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán đối với
những vùng biển và hải đảo của mình với các chế độ pháp lý khác nhau. Theo

Công ước Luật Biển 1982, Việt nam được phép mở rộng chủ quyền và quyền chủ
quyền quốc gia tại Biển Đông, bao gồm các vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
200 hải lý, thềm lục địa dưới biển có thể lên tới 350 hải lý. Điều này có nghĩa là,
với chiều dài bờ biển của Việt nam là 3260 km, Việt Nam được mở rộng lãnh hải
quốc gia đến 1 triệu km2. Việt Nam trở thành một quốc gia biển.
Ngoài những quy định của Luật biển Việt Nam 2012 và các văn bản pháp luật
khác đều tuân theo Công ước Luật biển mà cụ thể là một số điều luật đã được nêu ở
các phần trên (từ Điều 13 đến Điều 18) thì trên thực tế, Căn cứ vào các quy định
của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả
và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Ngoài
ra, Việt Nam đã thông qua một số bộ luật khác liên quan đến quản lý và sử dụng
biển như Bộ Luật hàng hải Việt Nam, Luật Dầu khí, Luật Tài nguyên nước, Luật
Bảo vệ môi trường, Luật Biên giới quốc gia, Luật Thủy sản và nhiều pháp lệnh,
nghị định khác. Chính phủ Việt Nam luôn bảo vệ những lợi ích hợp pháp của các
đối tác nước ngoài trong hợp tác kinh tế, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên
biển phù hợp với các quy định của Công ước 1982.
Thực hiện đúng quy định của Công ước, Việt Nam nộp hai báo cáo quốc gia
xác định ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam vượt quá 200 hải lý lên Ủy ban
Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp quốc vào năm 2009 trong đó xác định một
cách có cơ sở khoa học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở
Biển Đông theo đúng tiêu chuẩn, quy định của Ủy ban Thềm lục địa Liên hợp
quốc. Đầu tháng 5/2009, Việt Nam nộp Báo cáo chung với Malaysia về khu vực
thềm lục địa mở rộng ở phía Nam Biển Đông và Báo cáo riêng của Việt Nam về
khu vực thềm lục địa ở khu vực phía Bắc.
17


Quan điểm pháp lý cơ bản trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam là khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định

chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển
và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm
1982; tuân thủ Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tôn trọng các
điều ước, hiệp định quốc tế về phân định biển đã được ký kết giữa các nước liên
quan; Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa không ảnh hưởng đến việc
phân định biển giữa Việt Nam và các nước liên quan sau này.
Trong các ngày 27 và 28/8/2009, Việt Nam đã trình bày hai Báo cáo này tại Ủy
ban Ranh giới thềm lục địa, đồng thời đề nghị Ủy ban thành lập các Tiểu ban để
xem xét Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo đúng các quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 cũng như Quy tắc hoạt động của Ủy ban, bảo
đảm các quyền và nghĩa vụ chính đáng của quốc gia ven biển.
Việc Việt Nam nộp và trình bày tại Ủy ban Ranh giới thềm lục địa các Báo cáo
quốc gia xác định Ranh giới ngoài của thềm lục địa Việt Nam là hoàn toàn phù hợp
với các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và để thực
hiện quyền của một quốc gia thành viên, như nhiều quốc gia thành viên khác đã
làm.
Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan trong việc bảo
vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển khai
các biện pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực
hiện đầy đủ các quy định của Công ước Luật Biển 1982.
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được 20 nhà giàn DK1 trên các bãi cạn nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Việt Nam đang sử dụng
chúng vào những mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường
biển, thăm dò khai thác tài nguyên dầu khí theo đúng quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam không cố ý biến các bãi cạn này thành
18


các đảo nổi và cố tình gán ghép chúng trở thành một bộ phận của quần đảo Trường
Sa. Việt Nam cho rằng mọi hành vi cố ý và gán ghép đó là hoàn toàn sai trái trong

việc giải thích và áp dụng Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, cần
phải lên án, bác bỏ.
Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển là vấn đề luôn được
Chính phủ Việt Nam hết sức coi trọng và đã được quy định trong các văn bản pháp
luật liên quan đến quản lý biển của Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau như:
vận tải biển, dầu khí, nuôi trồng khai thác thủy hải sản và kiểm soát và tuần tra
biển. Việt Nam cũng là quốc gia đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến liên quan khai
thác bền vững nguồn tài nguyên biển và đại dương, liên quan đến bảo vệ môi
trường biển, chống nước biển dâng cao.
Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn theo quyết định số
780/TTg ngày 23 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ. Ủy ban có nhiệm
vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm-cứu nạn người và phương tiện (tàu bay,
tàu thuyền, thiết bị dầu khí…) bị lâm nạn trên không, trên biển và vùng trách nhiệm
tiếp giáp giữa Việt Nam với các nước. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của
Công ước về Tìm kiếm Cứu nạn và đang chuẩn bị để đàm phán với các nước liên
quan về phân định vùng tìm kiếm cứu nạn trên vùng biển.
Thời gian qua, căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, Với
chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất
đồng trên biển, Việt Nam đã nỗ lực cùng các nước liên quan như Thái Lan, Trung
Quốc, Indonesia, Campuchia và Malaysia giải quyết dứt điểm được một số tranh
chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn hoặc đi đến một số giải
pháp tạm thời. Cụ thể:
+ Ngay trong năm 1982 khi Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển được
ký kết, ngày 7/7/1982 Hiệp định về “Vùng nước lịch sử” giữa Việt Nam và
Campuchia cũng đã được ký kết.
19


+ Ngày 5/6/1992 tại Kuala Lumpur (Malaysia), hai nước đã ký thỏa thuận hợp
tác thăm dò khai thác chung vùng chống lấn, việc phân định vùng chống lấn sẽ giải

quyết sau.
+ Ngày 9/8/1997, Hiệp định về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa trong Vịnh Thái Lan có liên quan giữa Việt Nam và Thái Lan đã được
ký kết. Hiệp định này có hiệu lực ngày 27/2/1998.
+ Ngày 25/12/2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ. Đường phân định
gồm 21 điểm, trong đó Việt Nam chiếm 53,23%; Trung Quốc chiếm 46,77%.
+ Ngày 23/6/2003, Việt Nam và Indonesia đã ký kết Hiệp định phân định ranh
giới thềm lục địa phía nam Biển Đông. Hiệp định này có hiệu lực từ năm 2006.
Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo chủ trương tuân thủ
nghiêm ngặt Công ước Luật Biển năm 1982; đồng thời kêu gọi các quốc gia khác
tuân thủ nghĩa vụ này. Trong bối cảnh Biển Ðông đang có nhiều diễn biến phức tạp,
yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt Công ước Luật Biển năm 1982 càng trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết vì lợi ích chung của nhân dân các quốc gia ven Biển Ðông.
Mặt khác, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm
Công ước Luật Biển 1982. Khi bàn về các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt
Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982,” coi
đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển
đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN.
Tại các diễn đàn liên quan, Việt Nam luôn khẳng định: Trong hoạt động sử
dụng biển, các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định trong Công ước Luật Biển
1982, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Công ước Luật Biển 1982. Việt
Nam đã tích cực tham gia thảo luận và ủng hộ thông qua hai Nghị quyết của Đại
20


hội đồng Liên hợp quốc về đại dương và về đánh cá trên biển phù hợp với mục tiêu
phát triển bền vững; tham gia tiến trình tham vấn không chính thức về các vấn đề
đại dương và Luật biển hàng năm. Việt Nam cũng đã tham gia xây dựng nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ

chức Vệ tinh Hàng hải, Hệ thống An toàn và Cứu nạn Hàng hải toàn cầu..., đồng
thời lập hệ thống đài thông tin duyên hải đáp ứng thông tin liên lạc giữa các tàu và
giữa các tàu với bờ. Việc tiến hành kiểm tra tại cảng biển các tàu luôn tuân thủ các
Thỏa thuận khu vực về kiểm tra nhà nước. Ngoài Công ước Tổ chức Hàng hải
Quốc tế (IMO), Việt Nam đã tham gia rất nhiều Công ước của IMO khác gồm:
Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu 1973 và Nghị định thư bổ
sung 1978, Công ước về tấn trọng tải, Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc
chung liên quan đến đâm va giữa các tàu chung, Công ước quốc tế về an toàn sinh
mạng người trên biển, Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp chứng chỉ
chuyên môn và trực ca cho thuyền viên, Công ước quốc tế về ngăn ngừa các hành
vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải và Nghị định thư về ngăn ngừa các hành
vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải đối với các dàn khoan cố định ở thềm
lục địa; Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu đối với thiệt
hại do ô nhiễm dầu; Công ước về Tạo thuận lợi trong giao thông đường biển; Công
ước về Tìm kiếm, cứu nạn.
Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định chung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN
liên quan đến vận tải biển và dịch vụ hàng hải.
Việc Việt Nam tham gia các văn kiện pháp lý liên quan đến biển của khu vực và
quốc tế thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi đầy đủ
những nội dung của Công ước Luật Biển 1982.
Tóm lại, trong hơn 30 năm nay, Công ước Luật Biển 1982 đã thực sự trở thành
căn cứ pháp lý quốc tế vững chắc để xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của

21


quốc gia ven biển, đồng thời cũng là cơ sở để xử lý các vấn đề liên quan đến biển
và đại dương, kể cả những tranh chấp về biển.

22



C. KẾT LUẬN
Là một quốc gia gắn liền với biển, Việt Nam luôn không ngừng nỗ lực trong
việc thực hiện Công ước Luật Biển 1982. Việc các quốc gia ven biển đều thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định bởi Công ước Luật Biển 1982 thì sẽ tránh
được những căng thẳng, xung đột trên biển và sẽ có điều kiện tốt hơn để khai thác
biển và đại dương phục vụ lợi ích con người.
Vận dụng các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và
các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế
và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế
giới.

23


D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
2. Luật biển Việt Nam 2012.
3. Giáo trình Luật Quốc tế, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2015.
4. 100 câu hỏi đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam, Ban tuyên giáo
trung ương, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013.

24



×