Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Anhchị hãy trình bày hiểu biết về pháp luật công bằng (equity) trong hệ thống pháp luật Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.05 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Trang

1


A. Mở đầu
Hệ thống pháp luật Anh là một trong những hệ thống pháp luật lớn trên
thế giới. Hiện nay, common law và equity đều thể vai trò quan trọng và có
những đóng góp nhất định trong quá trình hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật Anh. Common law ra đời trước equity và có thể coi là nền tảng mà
dựa vào đó mà pháp luật Anh đã hình thành và phát triển. Tuy nhiên, sự hình
thành và phát triển của equity đã sửa đổi và bổ sung cho những hạn chế
Common Law.
Chính vì vậy, em xin chọn tìm hiểu đề số 8: “Anh/chị hãy trình bày hiểu
biết về pháp luật công bằng (equity) trong hệ thống pháp luật Anh” nhằm tìm
hiểu về sự hình thành, phát triển của equity cũng như những đóng góp của
equity trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Anh.

2


B. Nội dung
1. Khái niệm
Equity là hệ thống các học thuyết và thủ tục pháp lý phát triển song song
với common law được văn phòng đại pháp sử dụng trong hoạt động, nhằm sửa
chữa, bổ sung, khắc phục những bất cập của quy phạm common law.
2. Lịch sử hình thành của equity
2.1. Hạn chế của Common law
Giai đoạn thế kỷ XVI và XVII ở Anh, lúc này tình hình kinh tế xã hội
phát triển, tự do kinh tế, tự do mậu dịch được phát triển, nhiều tranh chấp mới


phát sinh giữa các thương nhân nhưng các Tòa án hoàng gia không thể giải
quyết thấu đáo các tranh chấp này, mặt khác các quy định của Common law
không phù hợp để điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh dẫn đến Common
law rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Common law đã phát huy tác dụng, là
một luật rất mềm dẻo vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải
quyết những vấn đề, vụ việc đưa đến tòa dựa trên các nguyên tắc chung đã được
thỏa thuận giữa các thẩm phán.
Đến cuối thế kỉ XIV, học thuyết tiền lệ pháp được tuân thủ và áp dụng
trong các Tòa án Hoàng gia của Anh. Học thuyết tiền lệ pháp là học thuyết mà
theo đó các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc tại thời điểm hiện tại, phải căn
cứ những phán quyết, những quy định trong quá khứ, trong đó có án lệ.
Trong hệ thống pháp luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ
XIII có tên Latinh là "stare decisis" (Tiền lệ phải được tôn trọng) có nghĩa là
tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật
đã được thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này, các Tòa án cấp dưới chịu sự
ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lí do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi
nhận trong các bản án trong quá trình xét xử các vụ việc trong quá khứ.

3


Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ pháp làm cho Common law trở nên
cứng nhắc, bởi vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển
các quy phạm pháp luật giải quyết những vấn đề đem đến tòa nữa. Khi tình tiết
vụ việc khác đi thì các thẩm phán không thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng
họ cũng không có khả năng sáng tạo ra tiền lệ pháp mới vì bị bó buộc trong
khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp.
2.2.


Hệ thống trát

Về mặt thủ tục, bản thân Common law được xây dựng trên thủ tục tố tụng
khá phức tạp, đặc biệt trong mối quan hệ với hệ thống trát. Nói đến sự phát triển
của Common law không thể không đề cập đến sự pháp triển của hệ thống trát.
Trát là văn bản hành chính dưới dạng một bức thư, được chứng thực bằng dấu
đóng trên trát, được dùng vào mục đích hành chính và tư pháp. Ở thời Anh trung
cổ, nói đến “hình thức khởi kiện” là nói đến các loại trát được sử dụng như một
loại giấy thông hành do vua cấp để bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa án
Hoàng gia, tiếp cận với công lí nhằm giải quyết những oan khuất của mình.
Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng, vì vậy, tùy thuộc vào
bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần giành được loại trát phù hợp
mới hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lí và giải
quyết. Nói cách khác, nếu không có trát thích hợp với bản chất vụ việc, tòa án có
quyền bác đơn khiếu kiện của bên nguyên.
2.3.

Sự hình thành của equity

Khi mới ra đời và trong giai đoạn đầu, common law không bị cản trở bằng
yếu tố kĩ thuật nhưng trong quá trình phát triển, đặc biệt trong mối quan hệ với
hệ thống trát, common law đã dần trở nên phức tạp, cứng nhắc và dẫn đến
những bất công trong xét xử. Hơn nữa, bước sang thế kỉ XV, bản thân thủ tục tố
tụng đã ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát và vì thế, thủ tục tố tụng
thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện. Nếu
đơn khiếu kiện không rơi vào một trong nhưng vụ việc đã có trát đang lưu hành,
4


bên nguyên sẽ mất quyền khởi kiện; mặt khác, nếu bên nguyên giành dược trát

nhưng trát đó không phù hợp với bàn chất của vụ kiện bên nguyên cũng sẽ bị toà
bác đơn. Thực tế này đã làm nảy sinh nhu cầu tìm kiếm giải pháp mới để khắc
phục bất công trong xã hội và giải pháp đó chính là equity được văn phòng đại
pháp quan khai thác để giải quyết các vụ việc không được giải quyết hoặc chưa
được giải quyết thoả đáng bởi toà án hoàng gia.
Theo nghĩa thông dụng, equity được hiểu là trạng thái bằng nhau hoặc
công bằng, vô tư. Cách sử dụng phổ biến của thuật ngữ này là để hàm chỉ những
gì chính đáng hoặc đúng đắn hoặc nhũng gì nảy sinh từ việc làm đúng lương tâm
hoặc từ các học thuyết về công lí tự nhiên.
Về phương diện pháp lí, equity được hiểu là hệ thống các học thuyết và
thủ tục pháp lí phát triển song song với common law và luật thành văn, được sử
dụng trong hoạt động xét xử tại Văn phòng đại pháp mà sau này phát triển thành
Toà đại pháp nhằm khắc phục những bất cập của common law. Sự hình thành và
phát triển của equity là nhằm sửa đổi và bổ sung cho common law để hoàn tất
common law chứ không nhằm mục đích thay thế common law. 
Do sự cứng nhắc của common law và sự phức tạp trong thủ tục tố tụng
được sử dụng tại Toà án Hoàng gia dã làm cho bên nguyên trong rất nhiều
trường hợp bị bác đơn hoặc bị thua kiện vì lí do kĩ thuật. Trước tình hình đó, bên
nguyên đơn trong vụ việc tranh chấp thường tiếp tục khiếu kiện lên vua nhằm
tìm khiến sự trợ giúp đặc biệt mang tính chất phúc thẩm. Nhiều người khởi kiện
không thỏa mãn với phán quyết của các Tòa án hoàng gia mà làm đơn thỉnh cầu
lên nhà vua. Họ coi nhà vua là người có quyền lực tối cao và là biểu tượng của
công lý, lẽ công bằng. Nhà vua không thể tự mình giải quyết, phân xử hết tất cả
những thỉnh cầu của thần dân ông ta mà những thỉnh cầu này gửi lên càng ngày
càng nhiều, tranh chấp càng ngày càng đa dạng, phức tạp.
Vì vậy, Vua thường thông qua viên Đại pháp quan của mình để giải quyết
những đơn kiện loại này và vì vậy Văn phòng đại pháp đã dần phát triển thành
5



Toà đại pháp. Đại pháp quan là thư kí của Vua và là người chịu trách nhiệm
quản lí bộ máy hành chính của Nhà nước. Làm việc tại Văn phòng đại pháp,
ngoài Đại pháp quan là người đứng đầu còn có các viên lục sự. Đại pháp quan
chính là người phát hành trát, vì vậy đại pháp quan có kiến thức sâu sắc về
common law và các giải pháp của common law. Trong quá trình sử dụng công lí
để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại pháp quan
đã phát triển thành tập hợp những quy phạm pháp luật đặc biệt, được nhắc đến
dưới danh nghĩa “equity”. Trong vài thế kỉ đầu kể từ khi ra đời, equity đã phát
triển độc lập, bên ngoài toà án hoàng gia.
Trong suốt thê ki XV, Đại pháp quan quyết định vụ việc theo những gì
ông ta cho là thích hợp. Các phán quyết này sau đó đã dược các viên Đại pháp
quan kế nhiệm phát triển thêm, tủy thuộc vào nhận thức cá nhân của mỗi viên
đại pháp quan về sự công bằng và lẽ phải, tuy nhiên từ khoảng giữa của nửa đầu
thế ki XVI, viên Đại pháp quan đầu tiên không phải là tín đồ cơ đốc giáo đã
được bổ nhiệm và equity đã bắt đầu đi theo chiều hướng của common law.
Từ cuối thế kỉ XVI, các phán quyết của Đại pháp quan đã được xuất bản
định kì và ngay tức khắc, Đại pháp quan bị ràng buộc bởi tiền lệ pháp, giống
như các thẩm phán của Toà án hoàng gia. Dân dần nhà vua giao cho Đại pháp
quan giải quyết luôn những vụ việc và giao quyền cho ông ta. Hoạt động của đại
pháp quan ngày càng mang tính tư pháp và văn phòng của đại pháp quan đã trở
thành Tòa đại pháp với thẩm phán duy nhất là bản thân viên Đại pháp quan. Tuy
nhiên từ khoảng giữa của nửa đầu thế ki XVIII, đại pháp quan đã được trợ giúp
trong hoạt động xét xử bởi viên trợ lí, chịu trách nhiệm giữ hồ sơ và sổ sách của
Toà đại pháp. Như vậy trong thế kỉ XVIII, các quy phạm pháp luật được áp dụng
ở Toà đại pháp cũng đã bị cố định bởi các phán quyết của Toà đại pháp trong
quá khứ và được định hình thành những quy phạm theo đúng nghĩa pháp luật,
giống kiểu quy phạm của common law. Các quyết định của Tòa Đại pháp hình
thành một hệ thống các quy định pháp lý và trong quá trình sử dụng công lí để
giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại pháp quan đã
6



phát triển thành tập hợp những quy phạm đặc biệt, được nhắc đến dưới danh
nghĩa "equity" hay Luật Công bằng và hình thành một hệ thống pháp luật thứ hai
gọi là equity law. Học thuyết về Equity law mang nhiều yếu tố của Luật La Mã
vì các Đại pháp quan thường là các mục sư bị ảnh hưởng của Luật Giáo hội
(cannon law)- một loại luật có cơ sở gần gũi với luật La Mã.
3. Vai trò và sự đóng góp của equity trong sự hình thành và phát
triển của hệ thống pháp luật Anh
Equity law có nguồn gốc coi nhà vua như biểu tượng của công lý, tất cả
các vấn đề đều được gửi đơn thỉnh cầu lên vua. Equity law xuất hiện bên cạnh
Common law nhưng không làm thay đổi luật chung và không vô hiệu hoá các
quy định của Common law.
So với Common law thì Equity law có một số ưu điểm như các quy phạm
thể hiện tính đạo đức, linh hoạt, mềm dẻo, các quy định được thiết lập trên
nguyên lý "lẽ phải và tình yêu thương của Chúa trời". Equity ra đời đã khắc
phục được những bất cập của Common Law, giúp giải quyết được các vụ việc
không được giải quyết hoặc chưa được giải quyết tại Tòa án Hoàng gia.
Tòa án equity can thiệp vì “sự công bằng”, mà không thay đổi quy phạm
pháp luật được tòa án common law áp dụng, trong trường hợp có sự xung đột
giữa common law và equity thì equity được ưu tiên áp dụng. Thẩm phán equity
chỉ can thiệp nếu hành động của bi đơn bị coi là trái lương tâm, đồng thời
nguyên đơn có tư cách đạo đức tốt, có “bàn tay sạch”; thông qua việc ra lệnh
cho bị đơn: cấm không được xử sự theo cách này hay cách khác, và áp đặt một
các xử sự cho bị đơn phù hợp với đòi hỏi của đạo đức và lương tâm. Thủ tục của
tòa án equity đơn giản hơn so với tòa án common law, equity được áp dụng khi
không có trát nào điều chỉnh vụ việc, trong nhiều lĩnh vực: bồi thường thiệt hại
khi không thực hiện hợp đồng, ủy thác, hoặc trong thủ tục xử án.
Hoạt động xét xử của tòa đại pháp thể hiện tính chất cá nhân, chủ quan.
Với Equity, những vụ khiếu kiện đều được giải quyết bởi các thủ tục pháp lý,

7


thủ tục xét xử đa dạng, đơn giản hơn so với Common law do không bị ràng buộc
nặng nề bởi hệ thống trát.thủ tục tố tụng được sử dụng ở Tòa Đại pháp khác với
thủ tục tố tụng sử dụng tại Tòa án Hoàng gia:
Thứ nhất, khác với Tòa án Hoàng gia, Tòa đại pháp mở đầu quá trình tố
tụng không phải bằng trát mà bằng đơn thỉnh cầu, không có mẫu in sẵn, viết
bằng thứ tiếng Pháp dùng ở Anh thời trung cổ. Người thỉnh cầu nêu rõ lí do
khiếu nại và khẩn cầu sự trợ giúp. Đơn thỉnh cầu phải được gửi kèm theo vật
làm tin mới có thể khởi kiện. Với đơn viết tay như thế, mọi oan ức của người
dân có thể nhờ công lí mà được giải quyết, tránh được tình trạng như việc sử
dụng hệ thống trát trong Tòa án Hoàng gia.
Thứ hai, sau khi nhận đơn thỉnh cầu nếu thấy bên nguyên có lí và cần
được bảo vệ, Đại pháp quan sẽ phát hành trát triệu tập đòi bên bị phải có mặt tại
toà mà không cần nêu lí do. Nêu bên bị không thực hiện lệnh triệu tập có thể sẽ
bi bắt giữ, thậm chí bỏ tù hoặc bị tịch thu tài sản.
Thứ ba, tại Tòa đại pháp, Đại pháp quan xét xử dựa vào nội dung vụ việc
và quyền lợi của các bên tranh chấp, còn tại Tòa án Hoàng gia thì lại rất coi
trọng chứng cứ. Trong quá trình xét xử, Đại pháp quan tiến hành thẩm vấn nhằm
phát hiện tình trạng lương tâm của bị đơn để gột rửa lương tâm cho bị đơn khi
cần thiết. Khi ra hầu tòa, bên bị sẽ phải trả lời những câu hỏi trên cơ sở tuyên thệ
do Đại pháp quan đưa ra. Từ đầu thế kỉ XV, luật sư tranh tụng được phép xuất
hiện ở Tòa đại pháp và đến giữa thế kỉ XV, lời khai viết cũng được chấp nhận và
các bên có thể sử dụng nhân chứng. Đại pháp quan tiến hành thẩm vấn nhằm
phát hiện tình trạng lương tâm của bị đơn để gột rửa lương tâm cho bị đơn khi
cần thiết. Những câu hỏi thông minh của Đại pháp quan buộc bị đơn tự khai ra
các tình tiết của vụ việc, trên cơ sở đó có thể khép bị đơn vào một tội, một lỗi
nào đó. Việc chất vấn bị đơn trên cơ sở tuyên thệ để buộc bị đơn tự khai các tình
tiết của vụ việc là thủ tố tụng đặc biệt không hề được sử dụng tại Toà án Hoàng

gia ở cùng thời. Đây là thủ tục tố tụng đặc biệt không hề được sử dụng tại Tòa
án Hoàng gia ở cùng thời.
8


Thứ tư, Đại pháp quan quyết định vụ việc căn cứ vào các tình tiết thực tế
của vụ việc mà không có sự tham gia của bồi thẩm.
Thứ năm, giải pháp dược đưa ra bởi Toà đại pháp rất khác so với giải pháp
đưa ra bởi Toà án Hoàng gia. Đại pháp quan có thề phát lệnh dưới hình thức
tuyên bố quyền của bên nguyên hoặc dưới dạng lệnh buộc bên bị (bên có hành
vi gây tôn hại) phải thực hiện hành vi nào đó hoặc cấm bên bị tiếp tục thực hiện
hành vi xâm phạm tới lợi ích của bên nguyên. Trong khi đó, toà án hoàng gia chỉ
có thể ra phán quyết buộc bên bị có hành vi gây thiệt hại cho bên nguyên phải
bồi thường thiệt hại. Thực tê này cho thấy Toà đại pháp có quyền lực lớn hơn
Toà án Hoàng gia.
Thứ sáu, trong quá trình xét xử tại tòa, Đại pháp quan không áp dụng các
án lệ của Tòa án Hoàng gia, luật Đại pháp quan sử dụng là dựa vào lẽ phải. Nói
đến lẽ phải tức là phải có người đúng, người sai rõ ràng nên các vụ việc đưa ra
thường được thụ lí giải quyết.
Đóng góp lớn nhất của equity đối với hệ thống pháp luật Anh là đã tạo ra
chế định ủy thác, với bản chất là yêu cầu bên ủy thác thực hiện cam kết của
mình. Chế định ủy thác ra đời ở Anh trong giai đoạn từ thế kỉ XII đến thế kỉ
XIII, khi người sử dụng đất ở Anh còn phải tuân thủ hàng loạt những nghĩa vụ
do Nhà nước phong kiến áp đặt như nghĩa vụ nộp địa tô trong quá trình sử dụng
đất đai và nghĩa vụ nộp thuế khi tài sản thừa kế là đất đai; hoặc khi người sử
dụng đất ở vào hoàn cảnh không thể tự mình trực tiếp quản lý và sử dụng đất do
tham gia vào các cuộc viễn chinh do các tín đồ cơ đố giáo tỏ chức… Trong
những trường hợp đó, chủ sử dụng đất (người ủy thác) thường tìm người thay
mặt mình quản lí và sử dụng đất bằng cách sang tên mảnh đất của mình cho bạn
thân hoặc họ hàng (người được ủy thác) của mình, với điều kiện:

(1) Phần đất đó sẽ được trả lại cho người ủy thác (chủ sử dụng đích thực)
khi anh ta quay trở về sau cuộc viễn chinh hoặc trà lại cho con cái người ủy thác
khi chúng đến tuổi trưởng thành;
9


(2) Trong suốt thời gian bên được ủy thác sử dụng đất, bên được ủy thác
phải chi trả cho bên ủy thác hoặc bên thụ hưởng (do bên ủy thác chỉ định) một
phần hoa lợi từ đất.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, bên được ủy thác thường có xu hướng không
thực hiện những điều đã cam kết. Theo nguyên tắc của common law, sau khi đã
sang tên đất, người uỷ thác không còn quyền sử dụng hợp pháp đối với mảnh đất
đã ủy thác mà phần đất đó đã thuộc về quyền sử dụng hợp pháp của người được
uỷ thác- quyền sử dụng đất của người được uỷ thác chỉ bị giới hạn bởi quy phạm
đạo đức chứ không bị giới hạn bởi quy phạm pháp luật (người được uỷ thác có
bổn phận, theo lương tâm chứ không phải theo pháp luật, trông coi tài sản uỷ
thác và chi trả thu nhập cho người dược uỷ thác hay người thụ hưởng theo đúng
những cam kết trong hợp đồng uỷ thác).
Vì vậy, theo common law, không có loại trát nào có thế bảo vệ lợi ích của
người uỷ thác gắn với phần đất mà họ không còn quyền sử dụng hợp pháp. Nên
khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án Hoàng gia chưa bao giờ giải quyết được.
Những người uỷ thác không may mắn đó thường đệ đơn lên Vua và Vua lại
thường chuyển những đơn kiện đó xuống cho Đại pháp quan giải quyết. Trước
những vụ việc này, Đại pháp quan cho rằng việc người được uỷ thác phủ nhận
quyền đòi lại đất của người uỷ thác là bất công, trái với giáo lí và lương tâm;
rằng người được ủy thác chỉ giữ mảnh đất đó vì lợi ích của người uỷ thác và sẽ
phải trả lại cho người uỷ thác khi có yêu cầu. Vì vậy, Đại pháp quan thường ra
phán quyết cưỡng chế thi hành những điều kiện theo đó hợp đồng uỷ thác được
thiết lập để buộc bên được uỷ thác thực hiện những cam kết của mình ở vào thời
điểm hợp đồng ủy thác được thiết lập. Những phán quyết này thường kèm theo

những hình phạt đối với cá nhân như bỏ tù hoặc tịch thu tài sản nếu người được
uỷ thác không chịu thi hành án.
Đại pháp quan đã dần dần hoàn thiện nguyên tắc giải quyết những vụ việc
loại này và xây dựng nên những quy phạm pháp luật chi tiết. Tập hợp các quy
phạm đó đã tạo thành chế định ủy thác mà sau khi chế độ phong kiến ở Anh sụp
10


đổ, các quy phạm pháp luật ủy thác này đã được sử dụng trong rất nhiêu lĩnh
vực quan hệ xã hội chứ không chi trong lĩnh vực ủy thác đất đai.
Việc áp dụng chế định ủy thác có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ lợi ích
vật chất của ngươi không có năng lực pháp luật; trong các mối quan hệ trong
pháp nhân, và giao dịch thương mại; trong việc giải quyết vấn đề thừa kế. Ngày
nay, ủy thác được coi là chế định pháp luật điển hình của dòng họ common law.
4. Cải tổ hệ thống pháp luật Anh hợp nhất common law và equity
Bước sang thế ki XIX, Anh quốc ở vào tình trạng khủng hoàng nghiêm
trọng cả về phương diện chính trị và xã hội. Trong lĩnh vực pháp luật, cả
common law và equity đều đã bộc lộ những khiếm khuyết của mình.
Có ý kiến cho rằng common law đã được hình thành một cách ngẫu nhiên
trong lịch sư nước Anh chứ không phải là sản phàm của hoạt động lập pháp, với
mục đích rõ ràng và vì vậy common law chính là vật cản trên con đường cải tổ
xã hội. Thủ tục tố tụng dược sử dụng ở các Toà án Hoàng gia thời bấy giờ cũng
trờ nên hêt sức phức tạp do sự tôn tại của những quy tắc tổ tụng đặc biệt áp dụng
riêng trong môi loại toà án và thậm chí trong mồi loại hình thức khởi kiện ở từng
toà án.
Equity lúc này cũng đã trở nên dễ thay đồi và thiếu ổn định: nhiều phán
quyết của Toà dại pháp mâu thuẫn làm cho luật sư khó có thể dự đoán trước để
tư vấn cho thân chủ của mình kết cục có thể, nếu đưa vụ việc ra giải quyết tại
Toà đại pháp. Đại pháp quan vẫn tiếp tục đóng vai trò chính yếu trong việc phát
triển equity tới tận thế kỉ XIX, trong khi đó, việc xuất bản các phán quyết của

Toà đại pháp lại không được chú ý đúng mực làm cho việc thiết lập hệ thống
tiền lệ trong equity trở nên hết sức khó khăn. Hơn nữa, thủ tục tố tụng của Toà
dại pháp đã trở nên lỗi thời do vẫn tiếp tục sử dụng kiểu tố tụng thời trung cổ
như: kiều bào chữa tối nghĩa, dài dòng, chi tiết, ẩn náu đằng sau những thuật
ngữ chuyên môn gây khó hiểu và làm chậm quá trình ra phán quyết; việc thu
11


thập chứng cứ từ nhân chứng bằng cách trả lời các câu hỏi theo mẫu in sẵn... đã
trì hoãn quá trình tố tụng và làm cho Toà đại pháp hoạt động kém hiệu quả.
Thêm vào đó, Toà án Hoàng gia và Toà đại pháp lại chịu trách nhiệm
cưỡng chế thi hành những mảng riêng biệt trong luật nội dung khiến cho nạn
nhân của một vụ việc đơn giản nếu vừa muốn có lệnh buộc bên bị hành động
hay cấm bên bị hành động và lại vừa muốn được bồi thường thiệt hại đã phải đệ
đơn tới cả hai toà án.
Những bất cập trong hệ thống pháp luật Anh ở vào thế kỉ XIX được tìm
thấy ở cả common law và equity cũng như những yếu kém trong hoạt động của
các toà án thời bấy giờ đã dẫn đến nhu cầu cải tổ hệ thống pháp luật Anh.
Điều này đòi hỏi phải có cuộc cải cách pháp luật. Việc cải cách này xuất
hiện từ tư tưởng của Jeremy Bantan, ông cho rằng hệ thống pháp luật của Anh
mang tính lịch sử, ngẫu nhiên nhiều hơn là tính hợp lý và đề xuất pháp điển hoá
ở Anh lúc bấy giờ, ban đầu tư tưởng cải cách này không được ủng hộ của các
luật sư, đến cuối thế kỷ XIX đã được chấp nhận và trở thành cơ sở cho việc cải
cách pháp luật ở Anh.
Mục đích cải cách là hợp nhất hai hệ thống tòa làm một và xóa bỏ tính hai
mặt trong thủ tục tố tụng, thống nhất về một mối. Kết quả là cuộc cải tổ pháp
luật ở Anh vào thế kỉ XIX đã hợp nhất common law và equity, theo đó, tất cả các
tòa chuyên trách trong tòa án cấp cao và toà phúc thẩm đều phái áp dụng các
quy phạm và nguyên tắc pháp lí cua Anh quốc, bất kể chúng đã được hình thành
từ Toà án Hoàng gia hay từ Toà đại pháp. Điều này giúp cho common law và

equity dễ dàng bổ sung khiếm khuyết cho nhau nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật Anh.

12


C. Kết luận
Như vậy, do những hạn chế của common law và hệ thống trát mà equity
đã ra đời nhằm bổ sung cho những hạn chế đó. Equity đã phát triển và có nhiều
đóng góp cho hệ thông phát luật Anh mà trong đó, đóng góp quan trọng nhất
được kể đến đó là chế định ủy thác với mục đích ban đầu là giải quyết trong lĩnh
vực đất đai. Ngày nay, chế định ủy thác đã được coi là chế định đặc thù của
dòng họ common law.
Với cuộc cải tổ pháp luật ở Anh vào thế kỉ XIX thì equity đã cùng với
common law trở thành một trong hai hệ thống pháp luật trong pháp luật Anh.

13


D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật so sánh, Nxb Công an nhân dân,
2012.
2. Các trang web:
/> /> />
14



×