Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Lịch sử phát triển vùng đất Nam bộ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.08 KB, 13 trang )

Chuyên đề
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT NAM BỘ – VIỆT NAM.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
1. Sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về cội nguồn và lịch sử phát triển
vùng đất Nam bộ – Việt Nam.
2. Sự cần thiết phải nâng cao nhận thức về cội nguồn và lịch sử phát triển
vùng đất Nam bộ – Việt Nam
3. Khẳng định chủ quyền việt nam trên vùng đất nam bộ và nhiệm vụ của
mọi công dân hiện nay
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ CỘI
NGUỒN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT NAM BỘ - VIỆT NAM
1. Vai trò của lịch sử đối với sự hình thành lòng yêu nước và ý thức
dân tộc.
Khoa học lịch sử là một môn khoa học giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, ý chí phấn đấu, rèn luyện nhân cách cho mọi công dân, từ đó xây
dựng trách nhiệm của mọi người ra sức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và phát huy
truyền thống đoàn kết dân tộc. Bác Hồ đã dạy “dân ta phải biết sử ta, cho tường
gốc tích nước nhà Việt Nam” và Bác Hồ đã cảnh báo “coi chừng, có nhiều người
Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử đất nước, con người và những cái vốn rất quí
của mình”.
Lịch sử Việt Nam, ngoài những bộ sử trước Cách mạng Tháng Tám
(1945), sau khi miền Bắc hòa bình, bộ “lịch sử Việt Nam” ra đời và không
ngừng được bổ sung hoàn thiện đã được phổ biến rộng rãi và đưa vào chương
trình học chính thức ở các cấp, góp phần nâng cao nhận thức trong các tầng lớp
nhân dân về “gốc tích nước nhà Việt Nam”, nâng cao tình yêu quê hương, đất
nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức mạnh mẽ về biên giới quốc gia, về vùng lãnh
hải và các hải đảo, về độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ.
Từ sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975), các
nhà sử học, khảo cổ học đã nghiên cứu các tư liệu lịch sử trong nước và nước
ngoài, khai quật di tích lịch sử ở nhiều địa phương Nam Bộ, một số nhà sử học
đã biên soạn nhiều tài liệu quí giá về vùng đất Nam Bộ; đồng thời, các tỉnh,


thành ở Nam Bộ cũng đã nghiên cứu và biên soạn lịch sử địa phương mình. Trên
cơ sở đó, Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã tập hợp, biên soạn phát hành sách
“Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam”. Tuy là “lược sử” nhưng quyển sách ra
đời có ý nghĩa quan trọng tập hợp các quan điểm và chứng cứ, tài liệu lịch sử
khoa học để khẳng định “cội nguồn và lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ Việt
Nam”, góp phần nâng cao nhận thức lịch sử cho mọi công dân, giữ gìn, phát huy
và bảo vệ vùng đất cực Nam của Tổ quốc.
2. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá, xuyên tạc lịch sử vùng
đất Nam Bộ
Lịch sử Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước và chiến đấu chống
giặc ngoại xâm đã dạy dân tộc ta “dựng nước đi đôi với giữ nước”, phải luôn
luôn cảnh giác đề phòng các thế lực xâm lược từ bên ngoài. Thực tế hơn 30 năm
1


hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước (từ 30/4/1975 đến nay) các thế lực đế
quốc và phản động chưa từ bỏ ý đồ xâm lược, phá hoại đất nước ta. Trước đây,
chúng đã bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị và suốt nhiều năm qua
chúng mốc nói, tổ chức bọn tay sai phản động trong nước, nuôi dưỡng và giúp
đỡ các tổ chức phản động ở nước ngoài, bằng mọi cách gây chia rẽ, lũng đoạn tư
tưởng, gây bạo loạn chính trị, làm mất trật tự trị an đất nước... Đặc biệt, trong
những năm gần đây, chúng xuyên tạc “ Lịch sử vùng đất Nam Bộ” để tuyên
truyền, kích động ý thức dân tộc hẹp hòi, đòi “độc lập”, “tự trị”, dùng vật chất,
tiền bạc mua chuộc, móc nối xây dựng tổ chức phản động lôi kéo quần chúng
hòng tách “vùng đất Nam Bộ” ra khỏi nước ta, cản trở công cuộc hòa bình, xây
dựng đất nước của nhân dân ta, như chúng đã làm ở Đông timo (In-đô-nê-xi-a),
Cô xô vô (Nam Tư) v.v... Chính vì vậy, cần nhận thức đúng về “cội nguồn và
lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ”, để kiên quyết đấu tranh với những luận
điệu xuyên tạc của kẻ thù.
3. Lực lượng vũ trang Quân khu nâng cao nhận thức về lịch sử vùng

đất Nam Bộ để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ.
Việc tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về “cội nguồn và lịch sử
phát triển vùng đất Nam Bộ Việt Nam” cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân
cả nước nói chung, đặc biệt là ở Nam Bộ, trong tình hình hiện nay là việc làm
cần thiết để mọi người nâng cao hiểu biết, có quan điểm đúng, xác định nhiệm
vụ của công dân, giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc; có cơ sở
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, ý đồ của kẻ thù, giữ vững hòa bình, độc lập
dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Đặc biệt đối với LLVT Quân khu, lực lượng nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn Tây Nam Bộ. Do đó mỗi cơ quan, đơn vị,
mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tích cực nghiên cứu, học tập để nhận thức sâu sắc và
đúng đắn về “cội nguồn và lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ Việt Nam”. Trên
cơ sở đó quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị,
nhiệm vụ của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Tích cực tuyên truyền đối với nhân dân trên
địa bàn nâng cao hiểu biết về vùng đất Nam Bộ thân yêu của chúng ta, góp phần
giữ vững, củng cố tinh thần đoàn kết dân tộc. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại
luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
II. CỘI NGUỒN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT NAM BỘ
VIỆT NAM.
1. Vị trí vùng đất Nam Bộ Việt Nam:
Nằm ở phía Nam của nước Việt Nam, thuộc hạ lưu sông Cửu Long, sông
Vàm Cỏ, sông Đồng Nai, tiếp giáp biển Đông. Hiện nay có 19 tỉnh, thành (miền
Đông Nam Bộ có 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa –
Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai; miền Tây Nam Bộ có 13 tỉnh,
thành là tỉnh Long An, Tiềng Giang, Bến tre, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long,
Trà Vinh, thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
2



Kiên Giang) và hàng trăm hải đảo lớn nhỏ, có đường biên giới trên bộ giáp với
Cam-pu-chia dài gần 880 km; vùng lãnh hải rộng hàng triệu km 2, giáp với vùng
biển các nước Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Cam-pu-chia.
Dân số toàn vùng Nam Bộ hiện nay trên 30 triệu người, chiếm hơn một
phần ba (1/3) dân số cả nước (cả nước trên 80 triệu dân), trong đó người Khmer
khoảng 1,3 triệu người, người Hoa trên 600.00 người, người Chăm trên 14.000
người, người Việt gần 28 triệu người và một số dân tộc người khác nhưng số
lượng ít.
Vùng đất Nam Bộ có diện tích trên 63.277,2 km 2, nằm ở hạ lưu 3 con
sông lớn nên đất đai phì nhiêu, màu mỡ. Nam Bộ có nhiều sông, rạch thuận lợi
giao thông thủy. Hiện nay vùng đất Nam Bộ có thế mạnh về công nghiệp,
thương mại – dịch vụ, nông nghiệp, thủy sản lớn nhất nước ta. Năm 2005, giá trị
công nghiệp toàn vùng chiếm 56,7% giá trị cả nước, tổng mức bán lẻ và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng chiếm 53,78% cả nước, sản lượng gạo xuất khẩu chiếm
trên 90%, sản lượng thủy sản chiếm 65% sản lượng cả nước.
Có được những thành tựu nêu trên, Nam Bộ phải trải qua quá trình đấu
tranh gian khổ, hy sinh để khai phá, chống giặc ngoại xâm, ra sức xây dựng và
phát triển. Đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải không ngừng nâng cao nhận thức
về cội nguồn và lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ.
2. Sự hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ – Việt Nam.
Theo sách “Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam” do Hội Khoa học lịch
sử Việt Nam biên soạn và Nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2006, sự hình
thành và phát triển vùng đất Nam Bộ Việt Nam chia ra làm 3 giai đoạn lịch sử
như sau:
a. Giai đoạn I: Vùng đất Nam Bộ dưới thời Vương quốc Phù Nam (từ
thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII).
Căn cứ vào nhửng ghi chép trong các thư tịch cổ Trung quốc, vào khoảng
đầu công nguyên, ở phía Nam của Lâm Ấp (Chăm Pa) đã hình thành một quốc

gia có tên gọi là Phù Nam. Trong thời kỳ cường thịnh nhất, Vương quốc Phù
Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn, bao gồm toàn bộ phần phía Nam
bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Cam-pu-chia, một
phần Nam Lào), một phần Thái lan và bán đảo Ma-lắc-ca, mà trung tâm là vùng
đất Nam Bộ.
Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định
rằng, nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu công nguyên và suy vong vào
khoảng thế kỷ thứ VII. Năm 1944, nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến
hành một cuộc khai vật có ý nghĩa lịch sử ở gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận
xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), phát hiện ra Nền văn hóa Óc
Eo. Các nhà khoa học khẳng định rằng những di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo là di
tích văn hóa vật thể của nước Phù Nam. Các học giả cũng khẳng định Óc Eo là
một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí. Từ những
nghiên cứu khoa học và khảo cổ học qua khai quật tìm thấy ở Long An, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang và nhiều đại phương khác ở đồng bằng Nam Bộ thì
3


văn hóa Óc Eo hoàn toàn khác biệt với văn hóa Khmer, về phong tục tập quán,
tang lễ và hôn nhân.
Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt
rất rõ Phù Nam với Chân Lạp. Sử ký của nhà Tùy chép rằng, nước Chân Lạp ở
về phía Tây Nam Lâm Ấp (Chăm Pa), nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua
nước Chân lạp là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam. Sử ký
nhà Đường cũng chép: “Trong nước (Phù Nam) bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà
vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải
chạy trốn về miền Nam, trú ở thị trấn Na Phất Na. những sự kiện được chép trên
đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện năm 627, Phù Nam còn đến
triều cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng, sự kiện nước Phù
Nam bị tiêu diệt phải xảy ra sau năm 627.

Như vậy, Chân Lạp là một quốc gia ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu
vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp làm nghề sống chính. Còn Phù Nam là một
quốc gia ven biển có truyền thống hàng hải và thương nghiệp phát triển. Trong
thời kỳ Phù Nam cường thịnh có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những
thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc
Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về
tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh. Những phần lãnh thổ khác
của Phù Nam trở thành một phần của đất nước Thái Lan, Mailayxia, Inđônêxia.
Đến thế kỷ 17 – 18 phần lãnh thổ được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi
Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam bộ ngày
nay.
Như vậy, khoa học đã chứng minh vùng đất Nam Bộ đã có lịch sử lâu
đời, là một phần lãnh thổ của Vương quốc Phù Nam, ra đời trước Vương quốc
Chân Lạp 4 đến 5 thế kỷ. Sau những biến thiên của lịch sử Vương quốc Phù
Nam bị suy vong và Nam Bộ đã trở thành một phần lãnh thổ của Việt Nam.
Nước ta đã quản lý, xây dựng và phát triển vùng đất Nam Bộ ổn định, hòa bình
và liên tục từ thế kỷ 16 đến nay, Nam bộ là một bộ phận thiêng liêng không thể
tách rời của Việt Nam. Mọi luận điệu xuyên tạc nói Nam Bộ là của Cam-pu-chia
hoặc đòi thành lập “Nhà nước Khmer Cam-pu-chia Crômtự trị” đều là luận điệu
phản động của các thế lực thù địch.
b. Giai đoạn II: Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân lạp (từ thế kỷ VII
đến thế kỷ XVI).
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là “Ô Thủy Chân
lạp” để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ và phân biệt với vùng
đất gốc của Chân Lạp là “Lục Chân lạp”. Tuy nhiên, việc cai quản phần lãnh thổ
mới đối với Chân lạp là hết sức khó khăn. Trước hết, đây là một vùng đồng bằng
mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ
chức khai thác trên qui mô lớn, phần lớn ở vùng đất cao, giồng cát. Hơn nữa,
việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của “ Lục Chân Lạp” đòi hỏi rất nhiều thời
gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỷ VII, quân đội Srivijaya của người Java

chiếm. Cả Vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện
này đến năm 802 mới kết thúc. Tuy nhiên, người Khmer lúc này muốn dồn sức
4


phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu
sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía Tây, vùng lưu vực sông
Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp
trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng
thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm đến cả khu vực sông Chao
Phaya. Trong khí đó, qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hóa Khmer
và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai – Gia Định hết sức mờ nhạt.
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở các
vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII, theo Chu Đạt
Quan – một người Trung Quốc, có dịp đến Chân lạp vào năm 1296-1297 đã
miêu tả vùng đất Nam Bộ như sau: “Từ chỗ Chân Bồ (tức Bà Rịa – Vũng Tàu)
hầu hết là rừng thấp, cây rậm, tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi...
những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt
chỉ là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm, hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy
trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm
dặm...”.
Bắt đầu thế kỷ XIV, Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các
vương triều Thái Lan từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Vương quốc Ayuthaya
hính thành. Trong gần một thế kỷ, Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những
cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội
Ayuthaya chiếm đóng. Thực tế vùng đất Nam Bộp thời kỳ này chưa có sự quản
lý về mặt hành chính.
c. Giai đoạn III: Vùng đất Nam Bộ trở thành một bộ phận không thể
tách rời của lãnh thổ Việt Nam (từ thế kỷ XVI cho đến nay).
* Công cuộc khai phá của người Việt trên vùng đất Nam Bộ (từ thế kỷ

XVI đến thế kỷ XVIII).
Từ thế kỷ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ
sâu sắc và dần bước vào thời kỳ suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm
đến vùng đất Nam Bộ và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này,
trong bối cảnh đó, nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài,
Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang, lập làng, sinh sống.
Năm 1620, vua Chân lạp Chey Chetta II đã cưới công chúa Ngọc Vạn con
gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết tham
giao với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này
đang rất mạnh làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu
hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt vốn đã có mặt từ trước, được tự
do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất “Ô Thủy Chân lạp” và tăng
cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong (U-Đông là nơi vua
Chey Chetta II xây dựng cung điện).
Năm 1623, chúa Nguyễn chính thức yêu cầu triều đình Chân lạp để cho
dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý
chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sái Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua
Chân lạp đã chấp nhận đề nghị này. Vào thời điểm đó, cư dân Việt đã có mặt ở
hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
5


Sau cái chết của vua Chey Chetta II vào năm 1628, nội bộ giới cầm quyền
Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến trabnh giữa các phe phái đã diễn
ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm (Thái Lan), một bên là
quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không anh hưởng đến người
Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long,
mà trái lại còn tạo điều kiện cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính
thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Mặt khác, cùng
thời kỳ này một số quan lại Nhà Minh (Trung Quốc) không thần phục nhà Thanh

đã vượt biển đi về phía Nam, đã góp phần đẩy nhanh quá trình xác lập chủ
quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất Nam Bộ. Từ năm 1679, chúa Nguyễn
Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ
vùng Quảng Tây (Trung Quốc) tổ chức khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu
vực Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương
Quảng Đông (Trung Quốc) của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa
– Dống Nai. Trong gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến Tiền Giang,
vồn đã được cư dân Việt đến sinh cơ lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành
những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường
sầm uất, hải cảng nhộn nhịp, có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây
Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán.
Trên cơ sở những tụ điểm dân cư đông đúc ấy đã hình thành những trung
tâm kinh tế phát triển. Năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu
Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là
phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được
quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của
người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, Chân lạp chưa khi nào thực thi một
cách đầy đủ chủ quyền của mình.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708, Mạc Cửu ở Hà
Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương dân Hoa kiều ở Lôi Châu
(Trung Quốc), thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu
đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà
Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân đinh để trấn giữ, bảo vệ quyền lợi, sửa
sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đấ hoang
vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc này (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu
đã từng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp
suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của dân vùng đất này khỏi
sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên Mạc Cửu đã tìm đến chúa Nguyễn
xin thần phục vào năm 1708 và được chúa Nguyễn phong chức, giao quyền
quản lý vùng đất này. Năm 1757, khi đất Tầm Phong Long (tương đương với

vùng Tứ Giác Long Xuyên) được vua Chân lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa
Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua. Quá trình
xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ đến năm 1757 về cơ
bản đã hoàn thành.
* Triều đình nhà Nguyễn (Việt Nam) thực thi chủ quyền, thiết lập các
đơn vị hành chính để quản lý vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XVII:
6


Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của
cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các
chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Tử thế kỷ
XVII, để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính,
sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại
thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh: Trấn Biên Hòa và Trấn
Gia Định, quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1744, vùng đất từ Nam Hoành Sơn
đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh; trong đó, vùng đất Nam Bộ chia thành
4 dinh (Trấn Biên Hòa, Gia Định, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu
còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng
hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện
toàn.
Triều Nguyễn (vua Gia Long) thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp
của các chúa Nguyễn, đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý
trên qui mô cả nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ lục
tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự triều đình khuyến khích
phát triển kinh tế – xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng
các công trình thủy lợi, phát triển giao thông thủy bộ. Năm 1817, vua Gia Long
cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng cho đào kinh
Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70 km.
Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt

đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các
chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ
của quân Xiêm vào các năm 1715, 1771... Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền
là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút của Tây
Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. sang thế kỷ XIX, các vua Nguyễn
đã cho xây dựng hệ thống các đồn lũy trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh
thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX, cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng
cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất
Nam Bộ.
Năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công xâm lược nước ta, triều Nguyễn đã
tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì cộng động
dân cư Việt Nam ở Nam Bộ cả người Việt, Khmer, Hoa, Chăm đã đoàn kết chiến
đấu không tiếc máu xương, liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước mình. Thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, Mỹ mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công năm 1975 giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước chứng minh quá trình chiến đấu hy sinh
bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó.
* Cộng đồng dân cư trên vùng đất Nam Bộ:
Do điều kiện lịch sử như nói trên và do điều kiện địa lý, đặc điểm vùng
đất Nam Bộ là vùng lầy, rừng rậm nên cộng đồng dân cư Nam Bộ có nguồn gốc
rất đa dạng. Cụ thể ở vùng đất Nam Bộ có các tộc người tiêu biểu là:
- Người Việt: Ngoài những cư dân đã có mặt từ trước (cuối thế kỷ XVI),
nhất là thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX, người Việt ở miền Trung, miền
7


Bắc đã di dân vào vùng Đồng Nai, Gia Định, khai phá đất hoang, sinh cơ lập
nghiệp và họ đã nhanh chóng trở thành bộ phận cư dân chủ đạo trong công cuộc
chinh phục vùng đất này. Hiện nay cư dân Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất dân số toàn
vùng, phân bổ đều khắp trong tất cả các tỉnh, thành ở Nam Bộ (gần 28 triệu

người, chiếm 93% dân số toàn vùng Nam Bộ).
- Người Khmer: Người Khmer cổ đã có mặt từ trước, nhất là sau khi Chân
Lạp chiếm Phù Nam cho đến thế kỷ XV người Khmer di dần từ nhiều vùng trên
đất nước Cam-pu-chia theo dòng sông Cửu Long về vùng đất Nam Bộ để tránh
họa diệt tộc của vua chúa cầm quyền lúc đó và sự xâm lược, chiến tranh tàn phá
của Xiêm La (Thái Lan ngày nay). Tuy nhiên người Khmer chiếm một diện tích
nhỏ trên vùng đất rộng lớn này, phần lớn ở trên vùng đất cao. Theo thống kê của
một học giả người Pháp, đến giữa thế kỷ XIX, dân số Khmer ở Nam Bộ có
khoảng 145.718 người. Hiện nay đồng bào Khmer sống tập trung ở đồng bằng
sông Cửu Long khoảng 1,3 triệu người nhiều nhất ở tỉnh Sóc Trăng (khoảng
400.000 người), Trà Vinh (320.000 người), Kiên Giang (204.000 người), An
Giang (85.000 người), Bạc Liêu (trên 60.000 người), thành phố Cần Thơ
(20.000 người), Hậu Giang (22.000 người), Cà Mau (24.000 người), Vĩnh Long
(21.000 người); các tỉnh còn lại có một số bà con Khmer sinh sống nhưng số
lượng ít.
- Người Chăm: Ở đồng bằng sông Cửu Long không nhiều, khoảng 14.000
người. Năm 1834 thủ trấn phủ An Giang là Lê Đại Cương xát thấy con đường
bộ từ Quang Hóa trở lên giáp sông lớn, phần nhiều là đất bỏ hoang, có thể trồng
cây được, tâu vua Minh Mạng xin cho những dân Chăm phiêu giạt... được lưu
lại tại đó mà cày cấy.
- Người Hoa: Vào nửa sau thế kỷ XVII có những đợt di dân lớn từ miền
Nam Trung Hoa đến Nam Bộ do những biến động chính trị sau khi Mãn Thanh
đánh bại nhà Minh. Hiện tại số người Hoa chủ yếu sống tập trung ở thành phố
Hồ Chí Minh (khoảng 400.000) và các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long
(khoảng 200.000).
Ngoài bốn tộc người Việt, Khmer, Chăm, Hoa còn có các tộc người như
Tày, Nùng, Ngái, Mnông, Stiêng, Mường... nhưng số lượng ít.
Trong quá trình phát triển, cộng đồng dân cư ở Nam Bộ ngoài những
người bản địa đã có mặt từ trước, phần lớn người Việt, Khmer, Hoa, Chăm... đều
là lưu dân từ nơi khác đến, đã đoàn kết gắn bó với nhau, từ buổi ban đầu khai

hoang, sản xuất, chống lại thú dữ để sinh tồn, cho đến khi triều đình nhà Nguyễn
thiết lập bộ máy hành chính quản lý vùng đất này thì toàn bộ cư dân ở đây sống
trong luật pháp triều đình nhà Nguyễn. Khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt
Nam đầu tiên đánh chiếm Nam Bộ, thì người dân Nam Bộ đã đoàn kết kháng
chiến chống ngoại xâm, đặc biệt từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
(1930), nhân dân Nam Bộ đã kiên cường chiến đấu làm nên Cách mạng Tháng
Tám (1945) thành công, tiến hành hai cuộc kháng chiến đánh Pháp, đánh Mỹ 30
năm thắng lợi hoàn toàn (1945 -1975), cùng nhân dân cả nước xây dựng nước
Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ từ ải Nam Quan (Lạng
Sơn) đến mũi Cà Mau, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
8


Do lịch sử phát triển và sự hình thành cộng đồng dân cư ở Nam Bộ
khá phức tạp nên nhiều năm qua vẫn còn một số tồn tại, nhận thức, ý kiến
khác nhau về quốc gia, dân tộc, Tổ quốc cần phải được làm rõ, cụ thể là:
- Quốc gia: Là lãnh thổ của một nước, có nhiều tộc người cùng sinh sống,
liên kết lại với nhau có tính chất xã hội như giai cấp, nhà nước, chế độ chính trị.
- Tộc người: Là những người có cùng tiếng nói, chữ viết, màu da, nền văn
hóa bản sắc riêng. Một tộc người có thể sống trên nhiều quốc gia.
- Dân tộc: Bao gồm nhiều tộc người hay tập đoàn người cùng sống trên
một quốc gia cùng chung chế độ chính trị, kinh tr61, xã hội trên quốc gia đó
(dân tộc Việt Nam gồm 54 tộc người anh em cùng sinh sống trên lạnh thổ Việt
Nam).
- Tổ quốc: Là đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình
và cả cuộc đời mình.
Mỗi tộc người có nguồn gốc lịch sử và những đặc trưng riêng về văn hóa,
ngôn ngữ, phong tục tập quán và ý thức tự giác tộc người. Nhưng một khi đã là
một bộ phận dân tộc của một quốc gia thì mọi tộc người đều có quyền và nghĩa
vụ bình đẳng như nhau của công dân theo qui định của pháp luật.

Thực tiễn mấy chục năm qua các tộc người sống ở Nam Bộ đã đoàn kết
đấu tranh viết nên trang sử vẻ vang của mình. Hầu hết các tỉnh, thành ở Nam Bộ
trong hai cuộc kháng chiến vừa qua đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tuyên dương anh hùng, hiện nay đang đóng góp công sức và trí
tuệ, cùng với nhân dân cả nước xây dựng nước Cộng hóa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam giàu mạnh, vị thế nước Việt Nam không ngừng được nâng cao trên thế
giới.
III. KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN VIỆT NAM TRÊN VÙNG ĐẤT
NAM BỘ VÀ NHIỆM VỤ CỦA MỌI CÔNG DÂN HIỆN NAY
1. Cơ sở pháp lý chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ
- nhận thức đúng về cội nguồn và lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ,
nhất là những vấn đề do lịch sử để lại nhằm đập tan những luận điệu tuyên
truyền, xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, đồng thời xây đắp them tình
yêu quê hương đất nước.
- Như phần trên đã nêu, chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên
vùng đất Nam Bộ là Phù Nam, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp- một
thuộc quốc của Phù Nam tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có
điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ
là công lao khai phá, cải tạo của nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ cuối thế
kỷ XVI, nhất là thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX. Chúa Nguyễn là người
bảo hộ cho quá trình khai phá này và thiết lập chủ quyền ở Nam Bộ một cách
hòa bình, hữu nghị, hoàn toàn không phải do chiến tranh.
- Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể
hiện ngay trong quá trình tiếp nhận và xác lập quyền quản lý lãnh thổ trên vùng
đất Nam Bộ. Giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong
văn bản các hiệp ước quốc tế. Tháng 12/1845, ba nước An Nam (Việt Nam),
Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cam-pu-chia) đã ký một hiệp ước, trong đó thừa
9



nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, triều Nguyễn và Xiêm lại ký
một hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng
tham gia. Như vậy, muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt
Nam, trong đó có Cam-pu-chia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận
vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Năm 1858 Pháp tấn công Nam Bộ rồi lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ (Việt
Nam) là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất
Nam Bộ (lúc đó Cam-pu-chia không có bất cứ một phản ứng gì). Triều Nguyễn
tiến hành kháng Pháp và khi cuộc chiến thất bại, đã đứng ra ký các hiệp ước
nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874).
Đây cũng là những chứng cứ và cơ sở pháp lý quan trọng để khẳng định chủ
quyền Việt Nam đối với vùng đất này.
- Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử
thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên
giới giữa Nam Kỳ và Cam-pu-chia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo
đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cam-pu-chia. Năm
1889, giữa Pháp và Cam-pu-chia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch
định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cam-pu-chia. Tất cả các văn
bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
- Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong công cuộc
kháng chiến chống Pháp, ngày 4/6/1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký Bộ
luật số 49-733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có
chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Giải thích về quyết định này, ngày 8/6/1949 Chính phủ Pháp đã có thư
chính thức gửi quốc vương Cam-pu-chia Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: “Về
pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán
song phương với Cam-pu-chia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì
“Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm 1862 và
1874… chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt
Nam… về pháp lý Pháp có đủ cơ sở để thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc

sửa đổi qui chế chính trị của Nam Kỳ”.
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn
“nhượng” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính
phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với
vương quốc Cam-pu-chia. Từ đó về sau, chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam
Bộ được tất cả các hiệp định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Geneve
(1954) giữa nước ta và Pháp ký; Hiệp định Paris (1973) giữa nước ta và Mỹ ký
được cộng đồng quốc tế trong đó có Lào và Cam-pu-chia thừa nhận. Trong
những năm đánh Mỹ, đất nước ta bị chia cắt, chính quyền Sài Gòn đã xảy ra
nhiều xung đột tranh chấp biên giới với Cam-pu-chia.
Trước tình hình đó, ngày 9/5/1967 Chính phủ vương quốc Cam-pu-chia ra
tuyên bố kêu gọi các nước tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ Cam-pu-chia trong đường
biên giới hiện tại độc lập. Đáp lời kêu gọi của Cam-pu-chia, ngày 31/5/1967 và
8/6/1967, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
10


và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã lần lượt ra tuyên bố thừa nhận và
cam kết tôn trọng đường biên giới hiện tại của Can-pu-chia. Đến cuối năm 1968,
đã có 34 nước trên thế giới ra tuyên bố tôn trọng độc lập chủ quyền, trung lập và
toàn vẹn lãnh thổ của Cam-pu-chia trong các đường biên giới hiện tại.
Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không
chỉ được khẳng định bởi tính chính đáng trong quá trình tiếp thu và quản lý lãnh
thổ cũng như công lao của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vùng đất Nam Bộ suốt từ thế kỷ XVII đến nay, mà còn phù hợp
với nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng, phù hợp thông lệ và các công ước quốc
tế hiện hành.
Từ sau ngày hòa bình, thống nhất đất nước đến nay, Chính phủ nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cam-pu-chia đã ký các hiệp ước:
- Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa hai nước , ký ngày

18/02/1979.
- Hiệp ước về biên giới trên đất liền, ký ngày 20/7/1983.
- Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước, ký ngày
27/12/1985.
- Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, ký ngày
10/10/2005.
Các hiệp ước trên đều khẳng định chủ quyền quốc gia hai nước Việt Nam,
Cam-pu-chia, trong đó phần đất Nam bộ thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam. Các hiệp ước trên không chỉ phù hợp với thực tế khách quan về đường
biên giới giữa Việt Nam và Cam-pu-chia, mà còn phù hợp với ý chí và nguyện
vọng của nhân dân hai nước Việt Nam – Cam-pu-chia.
Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 của Thủ
tướng hai nước Việt Nam – Cam-pu-chia ký ngày 10/10/2005 đã được Quốc Hội
của Cam-pu-chia và Việt Nam phê chuẩn ngay sau đó. Hiệp ước bổ sung một lần
nữa khẳng định giá trị pháp lý của đường biên giới, được hoạch định năm 1985
và thúc đẩy quá trình phân giới cắm mốc đường biên giới giữa hai nước. Ngày
7/9/2006, đại diện Chính phủ Việt Nam và Cam-pu-chia đã tiến hành khởi công
xây dựng cột mốc quốc tế đầu tiên tại cửa khẩu Mộc Bài (Việt Nam) – Ba Vét
Cam-pu-chia) và hai Chính phủ đã quyết tâm đến đầu năm 2008 cắm mốc xong
đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Cam-pu-chia.
2. Nhiệm vụ của mọi công dân Việt Nam là phải bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, ra sức giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, khai
thác tiềm năng vùng đất Nam Bộ.
- Từ những phân tích trên, nhân dân ta có đủ cơ sở khoa học khẳng định
“vùng đất Nam Bộ” là một bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam. Tháng 7/1946, tại Paris, bên lề hội nghị Phông-ten-bơ-lô, Bác Hồ
đã tuyên bố “Nam Bộ là đất Việt Nam. Nó là thịt của thịt chúng tôi, là máu của
máu chúng tôi… Trước khi đảo Cooc-sơ (Corse) trở thành đất của Pháp thì Nam
Bộ đã là đất Việt Nam”. Thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31/5/1946 Hồ Chủ tịch
đã viết: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể

mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
11


- Tuy nhiên, các thế lực đế quốc và phản động trong và ngoài nước trước
đây cũng như hiện nay luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng những
vấn đề do lịch sử để lại hòng chi rẽ, lôi kéo đồng bào ta thực hiện âm mưu ý đồ
đen tối của chúng, gây mất an ninh trật tự, phá hoại công cuộc hòa bình xây
dựng đất nước ta. Gần đây chúng lợi dụng vấn đề “lịch sử vùng đất Nam Bộ” để
tuyên truyền, xuyên tạc lôi kéo đồng bào và sư sãi Khmer đòi lại “vùng đất Nam
Bộ”, đòi “độc lập, tự trị”… hy vọng tách “vùng đất Nam Bộ” ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam, gây mất ổn định, phá hoại công cuộc hòa bình, xây dựng đất nước ta.
Do đó mọi công dân Việt Nam, không phân biệt người Việt, Khmer,
Hoa, Chăm, nhất là cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu cần phải thực hiện tốt
một số nội dung sau:
a) Tăng cường nghiên cứu, học tập để có nhận thức đúng đắn về cội
nguồn và lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ. Thấy hết tiềm năng, phát huy thế
mạnh vùng đất quan trọng này của đất nước để ra sức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ,
giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết xây dựng đất nước, góp phần cùng cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”.
b. Nâng cao cảnh giác, đập tan mọi âm mưu thủ đoạn và luận điệu xuyên
tạc, chia rẽ, phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, nhằm gây mất ổn định
đất nước Việt Nam. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho sư sãi và đồng bào
Khmer, ngoài việc nhận thức rõ lịch sử vùng đất Nam Bộ, cần cảnh giác, đề
phòng các thế lực phản động, thù địch trong và ngoải nước sử dụng đài phát
thanh, truyền hình, sách báo, băng đĩa, mạng internet… để đưa tin và hình ảnh
thất thiệt xuyên tạc lịch sử, kích động ý thức dân tộc hẹp hòi để chia rẽ lung lạc
nhận thức, tư tưởng đồng bào và sư sãi, phá hoại quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa
đồng bào Khmer với đồng bào Việt, Hoa, Chăm, phá hoại tình hữu nghị Việt

Nam – Campuchia.
c. Phối hợp với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể các cấp trên
địa bàn Quân khu đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho mọi người hiểu đúng, để
ra sức phát huy truyền thống đoàn kết đấu tranh của cộng đồng dân cư sống trên
vùng đất Nam Bộ giàu đẹp.
- Phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng âm mưu, thủ đoạn lâu dài của các thế
lực thù địch, không mơ hồ, chủ quan, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn
gây chia rẽ, ly khai của địch.
- Tổ chức thực hiện tốt chính sách “bình đẳng, đoàn kết dân tộc” và những
chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước và Nhà nước đối với
cộng đồng dân cư nói chung, đặc biệt trong vùng đồng bào Khmer, Chăm…
đồng bào vùng nông thôn.
- Thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
bào. Chú trọng giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho gia đình. Bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tập hợp quần chúng vào các tổ chức chính
trị xã hội. Phát triển đảng viên, đoàn thanh niên, đào tạo cán bộ là người dân tộc.
Lịch sử đã qua chứng minh, nhân dân Nam Bộ đã đoàn kết, chung lưng
đấu cật dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
12


công, tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, xây
dựng đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong thời gian tới, nhất
định đồng bào Nam Bộ sẽ phát huy truyền thống, thành tích đã đạt được, làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giành thắng lợi to lớn hơn; cùng cả
nước, vì cả nước xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”./.

13




×