Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tính thông tin trong báo chí hiện đại tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.59 KB, 12 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình
cảm…chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm
tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh
hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm
và của cộng đồng xã hội. về mục đích, truyền thông hướng đến sự hiểu
biết một cách chung nhất, nhằm thay đổi nhận thức, hành vi cảu đối
tượng truyền thông và tạo giá trị định hướng cho công chúng. Về bản
chất, truyền thông là quá trình trao đổi, chia sẻ thông tin hai chiều giữa
chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông. Quá trình truyền thông
hai chiều ấy được thể hiện theo nguyên tắc bình thông nhau. Quá trình
truyền thông này cũng được thể hiện rõ, khi có sự chênh lệnh về thông
tin giữa chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông.
Trong sang tác, người làm báo cũng phải luôn luôn chú trọng đến
quá trình truyền thông. Nói như vậy, báo chí có khả năng truyền thông
rộng lớn, và tính phản biện xã hội cao. Chính vì vậy, truyền thông , mà
góc nhìn ở đây là việc cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo trong
việc quản lý và điều chỉnh quản lý phù hợp với quy luật phát triển, phù
hợp với tiến trình phát triển và yếu tố cung và cầu trong xã hội. một
trong những giá trị đặc thù và chuyên biệt của báo chí trong truyền thông
là thông tin. Trong lĩnh vực truyền thông mang tính rộng lớn, tác giả chỉ
mong muốn đề cập đến một lĩnh vực tiêu biểu, thể hiện rõ nét của truyền
thông là Báo chí.

1


I.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


1. Một số góc nhìn về truyền thông báo chí thể hiện rõ vai trò
truyền thông cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo, quản lý
a. Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa xã hội công
dân và Nhà nước, buộc Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã
hội do “tính công cộng” của nó.
Không gian công cộng tự nó mang tính chất phê phán bởi lẽ nó
giả định rằng phải có những thông tin về các hoạt động của Nhà nước để
công luận có thể xem xét và phê phán các loại hoạt động này.
Những tầng lớp dân chúng bình thường hay những nhóm thiểu số
vốn trước đây không có quyền phát ngôn, nay có nhiều cơ hội hơn để lên
tiếng. Hiện tượng Blog trong những năm gần đây là một bằng chứng
sinh động các cá nhân giờ đây ngày càng có điều kiện tiếp cận trực tiếp
những thông tin vốn trước đây phải thông qua sự chọn lọc của các Nhà
báo.
Dưới quan điểm xã hội học, truyền thông đại chúng là một định
chế xã hội chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, hiểu theo nghĩa là đối lập
với xã hội cổ truyền, phong kiến. Nó góp phần tạo ra một "không gian
công cộng" vốn chưa hề có trong các xã hội tiền tư bản - một không gian
dành cho sự thảo luận công khai và dân chủ.
Khi phân tích mối quan hệ giữa các hệ thống truyền thông với các
hệ thống xã hội, nhà xã hội học Mỹ Daniel Lerner, trong một bài đăng
trên Tạp chí Bchavioral Science ra tháng 10/1957, cho rằng một trong
những điều kiện và đặc điểm của quá trình chuyển đổi từ các xã hội cổ
truyền sang các xã hội hiện đại chính là sự chuyển tiếp từ các hệ thống
truyền thông truyền miệng sang các hệ thống truyền thông đại chúng.
2


Các hệ thống truyền thông đại chúng (như báo chí, xuất bản, phát thanh,
truyền hình...) mang một số đặc điểm như sau: do những tổ chức chuyên

nghiệp đảm trách, đưa thông tin ra công thúng một cách rộng rãi mà
không phân biệt ai với ai, và nội dung thông điệp thủ yếu mang tính chất
tường thuật chứ không phải là ra lệnh. Sự thay đổi trongứng xử truyền
thông này (chuyển từ truyền thông truyền miệng sang truyền thông đại
chúng) có liên quan chặt chẽ với những thay đổi khác về ứng xử trong hệ
thống xã hội. Lerner kết luận rằng "một hệ thống truyền thông chính là
một dấu chỉ và cũng đồng thời là một tác nhân của sự thay đổi trong toàn
bộ một hệ thống xã hội". Nói khác đi, hệ thông truyền thông đại chúng
đã trở thành một trong những động lực của sự phát triển của xã hội.
Theo Lerner, khi con người biết đọc biết viết, tức là khi thoát ra khỏi
tình trạng mù chữ, thì bát đầu có được một khả năng còn quan trọng hơn
cả việc biết đọc biết viết. Đó là khảnăng bước vào "thế giới của những
kinh nghiệm gián tiếp", tức là bước vào một thế giới mà trong đó các
kinh nghiệm của người khác đã được tường thuật và ghi chép lại trên
chữ viết qua sách vở, báo chí... Mặt khác, cũng chính nhờ đó mà người
ta tăng cường được khả năng thấu cảm (empathy), tức là khả năng tự đặt
mình vào vị trí của người khác đểhiểu được người khác. Và chính nhờ
có khả năng này mà con người mới có thể sống được với nhau một cách
hài hòa trong xã hội. Khả năng biết đọc biết viết còn giúp cho con người
hình thành được khả nàng linh hoạt vềtrí tuệ (psychic mobihty) vốn là
một thuộc tính đặc trưng của con người trong xã hội hiện đại. Chính các
phương tiện truyền thông đại chúng là nhân tố góp phần mạnh nhất vào
việc rèn luyện khả năng thấu cảm cũng như khả năng linh hoạt trí tuệ,
khi chúng giúp cho con người tiếp xúc được với nhiều tư tưởng khác
nhau và biết được những vấn đề công cộng của xã hội.
3


Trong một công trình in năm 1962, triết gia người Đức Júrgen
Habermas đã khai triển khái niệm "tính công cộng" hay "không gian

công cộng" (óffentlichkeit, tiếng Anh dịch là publicity hoặc public
sphere) mà Emmanuel Kant đã đề cập vào nam 1784, và nhấn mạnh rằng
việc sử dụng lý tính trong không gian công cộng chính là điều kiện để
hình thành nên công luận, và đây cũng là điều kiện để thiết lập một nền
dân chủ. Theo Kant, người độc thoại chỉ đối diện với chính mình, chỉ khi
tranh luận với người khác về những vấn đề công cộng thì người ta mới
thoát ra khỏi những chuyện cục bộ, cá biệt, mới vượt qua được cái "tính
thô thiển" của mình.
Theo Habermas, không gian công cộng là không gian mà trong đó
bất cứ cá nhân nào cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà
không bị áp lực từ bên ngoài. Trên nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những
cuộc tranh luận mang tính chất lý tính và phê phán (rational-critical
debate), và do vậy đây chính là nơi kết tinh nên những ý kiến (công
luận) và ý muốn của công chúng. Tính duy lý của sự đối thoại trong
không gian công cộng giúp cho người ta vượt dần ra khói những lợi ích
đặc thù để đạt tới một sự đồng thuận (consensus) giữa những người có
thiện chí với nhau. Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa
xã hội công dân và nhà nước, buộc Nhà nước phải chịu trách nhiệm
trước xã hội do "tính công cộng" của nó. Không gian công cộng tự nó
mang tính chất phê phán bởi lẽ nó giả định rằng phải có những thông tin
về các hoạt động của Nhà nước đểcông luận có thể xem xét và phê phán
các hoạt động này. Theo Habermas, chính các phương tiện truyền thông
đại chúng là định chế điển hình nhất của không gian công cộng. Chúng
đóng vai trò làm trung gian liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân
sự, cũng như giữa xã hội dân sự và các thiết chế nhà nước. Hiểu theo ý
4


nghĩa này, truyền thông đại chúng không phải là một lãnh địa dành riêng
cho những người có quyền lực, những nhà truyền thông hay các chuyên

gia, mà là một nơi có mục tiêu thực hiện cùng một lúc hai chức năng:
vừa là nơi trình bày các kiến thức về xã hội con người, vừa là nơi diễn ra
các mối quan hệ tiếp xúc, liên lạc giữa các tầng lớp, các khu vực, hay
các nhóm xã hội.
b.Hệ thống truyền thông báo chí phát triển mạnh mẽ đã tạo
điều kiện cho nhu cầu xã hội về thông tin; trong đó có sự bùng nổ
của Internet.
Sự ra đời của phương tiện Internet trong vài thập niên gần đây đã
đặt ra nhiều vấn đề mới hết sức đáng quan tâm của định chế truyền
thông đại chúng trong xã hội hiện đại, . Trong một cuốn sách xuất bản
năm 2004, Serge Soudoplatoff nhận định rằng lịch sử của phương tiện
Internet tương ứng với sự đụng độ giữa hai quan niệm khác nhau về cách
thức tổchức và quản trị. Một bên là phương thức tập trung hóa, theo mô
hình có trật tự thứ bậc và đắng cấp, còn một bên là trải ra thành những
mạng lưới nối kết giữa những người có cùng mối quan tâm hoặc cùng
lợi ích. Theo Soudoplatofi, sự thành công đáng kinh ngạc của Internet
cho thấy rằng người ta có thể có những mô hình quản ra trị khác hiệu
nghiệm hơn so với những mô hình ra truyền thống dựa trên thứ bậc đẳng
cấp: logic của Internet là chia sẻ quyền lực, nó là một công cụ tương tác
và giao dịch giữa những tác nhân tích cực và ngang hàng với nhau, chứ
không phải giữa một trung tâm phát sóng với những khán giả thụ động
như phương tiện truyền hình. Dominique Wolton (1999), một nhà xã hội
học vềtruyền thông đại chúng người Pháp, cho rằng Internet có thể có
tác dụng làm "vỡ vụn" không gian công cộng hơn là tăng cường cho
không gian này. Trong khi các phương tiện truyền thông đại chúng
5


truyền thống chủ yếuđi theo cái logic "cung", thì phương tiện Internet
thiên về việc đápứng cái logic "cầu” người sử dụng chỉ lo đi tìm cái

mình cần, cái mình muốn, chứ không quan tâm tới những điều mà người
khác muốn nói với mình. Theo Wolton, Internet không có tác dụng nối
kết giống như các phương tiện truyền thông đại chúng trước đó. Và điều
này cuối cùng sẽdẫn tới hệ quả là làm cho cá nhân trở nên cô lập hơn
trong xã hội. Tocqueville từng nói rằng tư duy chỉ khởi sự khi người ta
bắt đầu tin vào lời người khác. Con người không thể nào tự mình suy
nghĩ tất cả mọi thứ, tự mình lý giải mọi chuyện trên đời. Chính vì thế
mới có vai trò quan trọng của những người "trung gian" trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng như các nhà báo, chính trị gia, giới trí thức... Một
trong nhữngđặc trưng quan trọng trong lĩnh vực truyền thông đại chúng
mà người ta không nên quên, đó là xem với người khác, xem cái mà
người khác đã xem (hay đã đọc), theo dõi những chuyện được voi là
đáng quan tâm, đáng đưa ra bàn luận với nhau.Nhà xã hội học Đức
Ulrich Beck (1986) và nhà xã hội học Anh Anthony Giddens (1996) cho
rằng sự phát triển của các công nghệ thông tin và vi điện tử là một trong
những điều kiện vật chất quan trọng làm thay đổi diện mạo các quan hệ
xã hội, nhất là trong bối cảnh mà những lằn ranh của các định chế chính
trị truyền thống dần dần bị xóa nhòa, nhường chỗ cho sự tham gia ngày
một tích cực hơn của các cá nhân trong các "xã hội phản tỉnh" (renexive
society), phá vỡ sự độc quyền phát ngôn của các chuyên gia trong các
lĩnh vực khoa học cũng như chính trị. Trong các xã hội hiện đại, việc
thảo luận và việc ra quyết định trong nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi
những vũ đài chính trị truyền thống như quốc hội hay Chính phủ, cũng
như vượt ra khỏi khuôn khổ của hình thức dân chủ đại diện.

6


Những tầng lớp dân chúng bình thường hay những nhóm thiểu số
vốn trước đây không có quyền phát ngôn, nay có nhiều cơ hội hơn để lên

tiếng. Hiện tượng blog trong những năm gần đây là một bằng chứng sinh
động. Các cá nhân giờ đây ngày càng có điều kiện tiếp cận trực tiếp
những thông tin vốn trước đây phải thông qua sự chọn lọc của các nhà
báo. Nhưng nói như thế phải chăng có nghĩa là Internet có thể đi đến chỗ
"phi trung giới hóa" (desintermediation) lĩnh vực thông tin trong xã hội
hiện đại? Phải chăng kể từ nay, nhờ có Internet, mọi người đều có thể tự
mình trực tiếp biết mọi chuyện và hiểu mọi chuyện mà không cần có các
định chếtrung giới như báo chí hay sách vở, xã hội sẽ không còn cần đến
vai trò của những người "trung gian" (như nhà báo, nhà chính trị, giới trí
thức...)? Phải chăng "mass média" (các phương tiện truyền thông đại
chúng) nay đang tan rã để trở thành "média des masses" (các phương
tiện truyền thông của đại chúng, hay là do đại chúng thực hiện), nếu nói
nhưcái tựa của một cuốn sách của Joèl dễ Rosnay và Carlo Revelli mới
xuất bản năm 2006. Chúng tôi nghĩ không phải như thế. Chúng tôi cho
rằng sự phát triển hiện nay của Internet và các loại hình truyền thông
trên Internet chỉ có nghĩa là thẩm quyền của những vai trò "trung
gian"ấy ngày nay chỉ côn mang tính chất tương đối, và cách thức hoạt
động của họ, đặc biệt là giới nhà báo cũng như các nhà chính trị, cũng
phải thay đổi chứ không thể tiếp tục như trước. Sự xuất hiện của Internet
hay các blog làm cho người ta bây giờ có quyền đòi hỏi nhiều hơn đối
với những vai trò trung gian ấy. Internet tự nó không thể làm tan rã
"không gian công cộng", hiểu theo nghĩa của Habermas. Mặt khác, nó
cũng không thể (hay chưa thể?) thay thế các định chế truyền thôngđại
chúng hiện hành để trở thành phương tiện duy nhất của không gian công
cộng. Nhưng hiển nhiên khó có ai chối cãi là Internet đang góp phần mở
7


rộng "không gian công cộng" của xã hội hiện đại một cách không thể
đảo ngược được nữa.

2.

BÁO CHÍ VIỆT NAM ĐÃ THỂ HIỆN RÕ NÉT ĐẶC

THÙ, TRUYỀN THÔNG CUNG CẤP THÔNG TIN CHO CÁC
NHÀ LÃNH ĐẠO
-

Quan niệm: Ngành Báo chí – Truyền thông gồm hai lĩnh vực

riêng biệt là lĩnh vực báo chí và lĩnh vực truyền thông, nhưng chúng có
quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Về nghề báo, nhiều người cho rằng nó
xuất phát trước tiên từ một nhu cầu chung của nhân loại. Đó là nhu cầu
thông tin. Hãy tưởng tượng, mỗi ngày, khi thức giấc đón chào ngày mới,
hầu như ai cũng có chung một câu hỏi: “Hôm nay có gì mới?”. Mọi
người đều muốn được trả lời nhanh nhất. Và với các nhà lãnh đạo, quản
lý, nhu cầu thông tin này càng lớn hơn. Đương nhiên, chính nhà báo sẽ
là người làm thỏa mãn nhu cầu ấy.
a.

Báo chí Cộng sản thể hiện rõ vai trò cung cấp thông tin

cho các nhà lãnh đạo, quản lý. ( lý luận và thực tiễn)
-

Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, là tiếng nói của quần

chúng nhân dân, thể hiện tính chính trị sâu sắc. Ở đây, báo chí thể hiện
rõ nét là cơ quan ngôn luận, thể hiện bản chất của chế độ, đóng góp vai
trò cùng cả xã hội xây dựng nhà nước của dân do dân và vì dân. Do vậy,

những thông tin từ báo chí truyền thông luôn được các nhà lãnh đạo
quan tâm, chú ý.
- Báo chí truyền thông thông thể hiện nguyên tắc chính trị: Báo chí
là kênh thông tin hai chiều, phản ánh các chủ trương đường lối của Đảng
tới quần chúng nhân dân, và thông qua tính phản biện xã hội, Đảng, nhà
nước, các cơ quan ban ngành cũng nắm được việc thực hiện các chủ

8


trương, chính sách đó có phù hợp với thực tiễn hay không, phù hợp với
sự phát triển hay chưa nhằm kịp thời có sự điều chỉnh.
-

Theo TS Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng QH,

hoạt động báo chí thông tin về QH ngày càng có vai trò quan trọng trong
việc tăng cường mối quan hệ thông tin hai chiều và sự gắn kết giữa QH
với cử tri. Báo chí giúp người dân theo dõi tốt hơn các hoạt động của
QH; đánh giá được những người do mình bầu ra đã thực sự đại diện cho
quyền và lợi ích của mình chưa. Báo chí trở thành kênh thông tin không
thể thiếu của QH, các cơ quan của QH và từng đại biểu QH..
- Trong hội nghị về vai trò của Báo chí truyền thông với giá trị thông tin
hai chiều tổ chức tại Hà Nội vào cuối năm 2011, các ý kiến tại hội thảo
cũng cho rằng công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động của QH còn
thiếu cân đối. Hiện, phần lớn báo chí mới tập trung chủ yếu vào các kỳ
họp của QH, chưa quan tâm tuyên truyền hoạt động giữa hai kỳ họp, các
đợt giám sát chuyên đề hay hoạt động của các đoàn đại biểu tại địa
phương… Đề cập khá nhiều khía cạnh trong mối quan hệ với báo chí
của QH và các đại biểu dân cử, hội thảo nhằm nâng cao kỹ năng tiếp cận

với báo chí của đại biểu QH và vai trò của báo chí trong công tác tuyên
truyền hoạt động của QH đến với nhân dân. Thực tế này cho thấy, vai trò
không thể thiếu của báo chí truyền thông và việc nâng cao vai trò hơn
nữa của Báo chí trong việc phản biện xã hội, thông tin hai chiều và sự
gắn kết giữa Quốc hội với cử chi, nhân dân.
b. Góc nhìn vai trò của báo chí truyền thông qua sự việc tại
Tiên Lãng, Hải phòng

9


Tại hội thảo bàn về nguồn lực đất đai và vai trò của truyền thông,
ông Lưu Đình Phúc, trưởng phòng quản lý báo chí Trung ương, Cục Báo
chí, Bộ Thông tin - Truyền thông nó: “Qua truyền thông đại chúng, vụ
ông Đoàn Văn Vươn không còn là vấn đề của Hải Phòng mà trở thành
vấn đề của cả nước, nhất là trong thời điểm toàn Đảng chuẩn bị triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về chỉnh đốn Đảng".
"Báo chí luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng",
ông Lưu Đình Phúc nhận định. Với sức lan tỏa nhanh và rộng lớn, thông
tin từ báo chí cũng góp phần cung cấp chứng cứ ban đầu cho cơ quan
điều tra. Đặc biệt trong bối cảnh vấn đề đất đai luôn là điểm nóng.
Ông Phúc phân tích, điều đáng ghi nhận ở báo chí qua vụ ông
Đoàn Văn Vươn là ở tính xung kích, đấu tranh không khoan nhượng
trước những hành vi tiêu cực, góp phần làm trong sạch nội bộ chính
quyền ở địa phương. Báo chí cũng đã thể hiện thái độ quyết liệt với
mong muốn cơ quan chức năng sớm làm rõ đúng sai vụ việc. Đồng thời
đưa ra nhiều bài học kinh nghiệm thông qua các bài phỏng vấn chuyên
gia, nhà quản lý, cựu quan chức...
Nói như ông Vũ Văn Luân, thư ký liên chi hội nuôi trồng thủy hải
sản huyện Tiên Lãng, “nếu không có báo chí, sự việc cưỡng chế ở Tiên

Lãng đã đi theo một hướng khác”.

10


II.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

Truyền thông nói chung, Báo chí nói riêng là kênh thông tin có
giá trị phản biện xã hội rộng lớn. Thông qua báo chí, người dân góp ý
với các cấp lãnh đạo về những bất cập của chính sách, pháp luật hiện
hành để Nhà nước xem xét tiến hành bổ sung, sửa đổi hoặc góp ý vào
các dự thảo đang trong quá trình hoàn thiện, thông qua haowcj đang thực
hiện. Đặc biệt, báo chí là kênh thông tin quan trọng phát hiện những vấn
đề bức xúc của cuộc sống mà Đảng, Nhà nước cần tập trung giám sát.
Báo chí luôn có mặt và đưa tin kịp thời những hoạt động giám sát của
Quốc hội và các đoàn đại biểu Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu quả
các hoạt động giám sát. Thông qua báo chí, hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, các cơ quan ban ngành có cái nhìn toàn diện hơn
về các chính sách. Hơn hết góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn
dân xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Tức là
cung cấp thông tin quan trọng cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý. Như
Đảng , Nhà nước ta cũng luôn khẳng định. Báo chí truyền thông là cơ
quan quyền lực thứ 4 trong xã hội.

11


MỤC LỤC


12



×