Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại nguyễn thanh lịch huyện ba vì – thành phố hà nội và thử nghiệm một số phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.28 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN DUY TÙNG
Tên đề tài:
“KHẢO SÁT TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở

ĐÀN LỢN NÁI NGOẠI NUÔI TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH
HUYỆN BA VÌ – TP HÀ NỘI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT
SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Chuyên ngành: Thú y
Khoa:

Chăn nuôi thú y

Khóa học:

2012 - 2017

Thái Nguyên, năm 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN DUY TÙNG
Tên đề tài:
“KHẢO SÁT TÌNH HÌNH MẮC BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở
ĐÀN LỢN NÁI NGOẠI NUÔI TẠI TRẠI NGUYỄN THANH LỊCH
HUYỆN BA VÌ – TP HÀ NỘI VÀ THỬ NGHIỆM MỘT
SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Chuyên ngành:

Thú y

Lớp:

K44 – Thú Y

Khoa:

Chăn nuôi thú y

Khóa học:

2012 - 2017


Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Văn Sửu

Thái Nguyên, năm 2016


i
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là nội dung cuối cùng trong chương trình đào tạo
của các trường đại học nói chung và Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói
riêng. Đây là khoảng thời gian quan trọng với mỗi sinh viên, là cơ hội để áp
dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời đây cũng là khoảng
thời gian quý báu để mỗi sinh viên học hỏi, thu thập mọi kiến thức, là hành
trang bước vào cuộc sống mới với công việc của mình.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, yêu cầu của cơ sở, được sự
đồng ý của Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi - Thú y, Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, được sự giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn
Văn Sửu, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm
tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch - huyện Ba Vì
– TP Hà Nội và thử nghiệm một số phác đồ điều trị ”. Do thời gian và trình độ
còn hạn chế, bước đầu còn bỡ ngỡ với công tác nghiên cứu khoa học nên bản khóa
luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của Quý thầy cô và
các bạn để bản khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 12 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Duy Tùng


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.2. Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung .............................................. 18
Bảng 4.1. Lịch sát trùng trại lợn nái................................................................ 28
Bảng 4.4. Lịch phòng bệnh bằng vaccine cho đàn lợn ................................... 31
Bảng 4.5. Lịch phòng bệnh bằng thuốc cho đàn lợn....................................... 32
Bảng 4.6. quả công tác phục vụ sản xuất ........................................................ 36
Bảng 4.7. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung qua các tháng theo dõi .................... 37
Bảng 4.8. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái theo giống .............. 38
Bảng 4.9. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung qua các lứa đẻ ................................. 39
Bảng 4.10. Triệu chứng lâm sàng của lợn bị viêm tử cung ............................ 40
Bảng 4.11. Hiệu quả thử nghiệm điều trị viêm tử cung của 2 phác đồ .......... 41


iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

CP

:

Charoen Pokphand

Cs

:

Cộng sự

E. coli


:

Escherichia coli

FSH

:

Folliculo Stimulin hormone

LH

:

Lutein hormone

MMA

:

Mastitis Metritis Agalactia
(Hội chứng viêm vú, viêm tử cung và mất sữa)

Nxb

:

Nhà xuất bản

PGF2α


:

Prostaglandin F2α

S. choleraesuis :

Shalmonella enteria choleraesuis

S. typhysuis

Salmonella typhysuis

:


iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT................................................ iii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iv
Phần 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục đích của đề tài .................................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
2.1. Điều kiện cở sở nơi thực tập ...................................................................... 3
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập .................................. 3
2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở ................................................ 4

2.2. Những kết quả nghiên cứu trong ngoài nướccó liên quan đến đề tài ........... 18
2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh viêm tử cung ở ngoài nước ............................ 18
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ............................................................. 21
Phần 3: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP TIẾN HÀNH23
3.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu .......................................... 23
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 23
3.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ............................................................... 23
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 23
3.2.1. Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi
tại trại lợn Nguyễn Thanh Lịch - xã Ba Trại – huyện Ba Vì – TP Hà Nội ......... 23
3.2.2. Thử nghiệm biện pháp phòng và trị bệnh viêm tử cung cho lợn ............... 23
3.3. Nội dung tiến hành ................................................................................... 23
3.4.1. Phương pháp xác định tỷ lệ viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại ............ 23


v
3.4.2. Quy định một số yếu tố dịch tễ .................................................................... 24
3.4.3. Phương pháp xác định triệu chứng lâm sàng của lợn bị viêm tử cung . 24
3.4.4. Phương pháp xác định hiệu quả của 2 phác đồ. .................................... 24
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu..................................................................... 25
3.4.6. Một số công thức tính toán các chỉ tiêu....................................................... 25
3.4.7. Một số công thức tính thống kê ................................................................... 26
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 27
4.1. Công tác phục vụ sản xuất ....................................................................... 27
4.1.1. Công tác vệ sinh, chăm sóc, phòng bệnh cho đàn lợn................................ 27
4.1.2. Kết quả công tác chẩn đoán và điều trị bệnh .............................................. 32
4.1.3. Công tác khác................................................................................................ 35
4.2. Kết quả của đề tài ..................................................................................... 37
4.2.1. Thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái sinh sản ...................... 37
4.2.2. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung theo các tháng ............................................ 37

4.2.3. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái theo giống ......................... 38
4.2.4. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ....................... 39
4.2.5. Triệu chứng lâm sàng của lợn bị viêm tử cung .......................................... 40
4.2.6. Kết quả thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái sinh sản...... 41
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 43
5.1. Kết luận .................................................................................................... 43
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay, ở Việt Nam thịt lợn luôn chiếm tỷ lệ hàng đầu 70,4 - 76,8%
khối lượng thịt bán trên thị trường, thịt gia cầm chiếm 14,3 - 15,1%, còn thịt trâu
bò chỉ chiếm 8,2 - 12,1%. Vì vậy, chăn nuôi lợn cần được ưu tiên phát triển hơn
nữa để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ thịt lợn của người tiêu dùng. Chăn nuôi
lợn không những chỉ đáp ứng yêu cầu cung cấp thịt trong nước mà còn phải
tham gia xuất khẩu. Ngoài ra, chăn nuôi lợn còn tận dụng được sức lao động
nhàn rỗi, tận dụng phế phụ phẩm dư thừa của nông nghiệp, góp phần làm tăng
thêm thu nhập cho người chăn nuôi.
Chăn nuôi lợn ngoại đang được đẩy mạnh trong chăn nuôi nông hộ
cũng như ở các gia trại, trang trại quy mô công nghiệp hiện nay. Bởi vì, chăn
nuôi lợn ngoại có năng xuất cao, tăng trọng nhanh, phẩm chất thịt tốt (tỷ lệ
nạc cao, độ dày mỡ lưng thấp) đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng
đang đòi hỏi, nhất là ở khu vực thành phố và các khu công nghiệp. Cho đến
nay, lợn Landrace và Yorkshire là hai giống lợn đóng vai trò chủ yếu trong
khâu sản xuất lợn giống và lợn lai nuôi thịt, hai giống lợn này đã và đang

góp phần quan trọng vào các chương trình “nạc hóa” đàn lợn ở nước ta.
Để đáp ứng nhu cầu trên, trại lợn nái ông Nguyễn Thanh Lịch được đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất để nuôi lợn gia công cho Công ty cổ phần chăn
nuôi CP Việt Nam với quy mô trên 1.200 lợn nái sinh sản, trong đó dòng
CP90 chiếm tỷ lệ chính, chiếm trên 30% tổng đàn. Đàn lợn nái ngoại này
đang phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng đàn con tốt. Tuy nhiên, để thu
được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn nái sinh sản ngoài phụ thuộc
vào sức sản xuất của lợn nái, còn phụ thuộc vào tình hình dịch bệnh có ảnh


2

hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế, đặc biệt là chất lượng sản phẩm. Bệnh
viêm tử cung ở lợn nái là một trong những tổn thương đường sinh dục của lợn
nái sau khi sinh, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản, làm mất sữa lợn
mẹ, lợn con không có sữa sẽ còi cọc, suy dinh dưỡng, lợn con chậm phát
triển. Lợn nái chậm động dục trở lại, không thụ thai, có thể dẫn đến vô sinh,
mất khả năng sinh sản. Không những thế lợn nái bị bệnh viêm tử cung là một
trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng. Xuất
phát từ thực tiễn nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Khảo sát tình hình
mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại trại Nguyễn Thanh
Lịch - Huyện Ba Vì – TP Hà Nội và thử nghiệm một số phác đồ điều trị ”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi theo
mô hình trang trại tại trại Nguyễn Thanh Lịch – xã Ba Trại – huyện Ba Vì – TP
Hà Nội.
- Đưa ra một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về bệnh viêm tử cung ở
lợn. Là cơ sở khoa học cho công tác phòng và điều trị bệnh, góp phần nâng

cao năng suất chăn nuôi lợn nói chung.


3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Điều kiện cở sở nơi thực tập
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập
Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Thanh Lịch nằm trên một quả
đồi, các xa khu dân cư, thuộc huyện Ba Vì, tp Hà Nội. Đây là một trong
những trang trại có quy mô lớn. Trang trại có tổng diện tích khoảng hơn 2 ha
là khu chăn nuôi tập trung cùng các công trình phụ.
Được thành lập và đi vào sản xuất từ năm 2009 với số vốn đầu tư lên
tới gần 30 tỷ đồng, trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản do Công ty Cổ phần
thức ăn chăn nuôi Việt Nam (một chi nhánh của Tập đoàn CP Thái Lan) cung
cấp 3 giống lợn LANDRACE - YORKSHIRE và DUROC. Khu sản xuất gồm
3 chuồng đẻ, 1 chuồng bầu, 3 chuồng cách ly nuôi 1.200 lợn nái, 20 lợn đực,
120 lợn hậu bị cùng 2500 lợn con đã tách mẹ. Lợn sau khi sinh 19 đến 23
ngày thì được xuất chuồng. Mỗi năm trang trại cho xuất ra thị trường khoảng
25.000 - 30.000 con lợn giống.
Trang trại áp dụng quy trình nuôi lợn theo kỹ thuật cao từ khâu chọn
giống đến kỹ thuật chăn nuôi. Khu sản xuất được phân ra nhiều phân khu
chuồng trại liên hoàn nhau để nuôi lợn theo từng giai đoạn riêng và áp dụng
chế độ dinh dưỡng phù hợp cho từng loại lợn và thời gian mang thai. Thức ăn
cho mỗi loại lợn cũng có chế độ dinh dưỡng khác nhau. Lợn được nuôi trong
chuồng kín có hệ thống quạt thông gió, hệ thống giàn mát và sưởi ấm đủ yêu
cầu về nhiệt độ.
Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và nhân viên của trại gồm 2 kỹ sư chính, 2 tổ
trưởng và 24 công nhân phụ trách, trang trại đã góp phần giải quyết việc làm

cho người lao động trong vùng còn nhiều khó khăn này.


4

Với việc chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp, các biện pháp phòng
chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi của trại được thực hiện chủ động và tích
cực. Kỹ sư của trại đã chủ động tổ chức tiêm phòng đầy đủ cho đàn lợn. Mỗi
con lợn đều có một hồ sơ riêng cho việc phối tinh, đẻ, xuất chuồng, nhập
chuồng… chính xác tới từng ngày. Để phòng tránh dịch bệnh, khu chuồng
nuôi được quản lý nghiêm ngặt. Mọi nhân viên trong trại cho đến khách,
muốn vào chuồng lợn đều phải đi qua hệ thống sát trùng, tắm rửa sạch sẽ,
thay quần áo và đi ủng chuyên dụng. Trong các chuồng lợn, ngày vài lần,
công nhân làm vệ sinh cũng như phun thuốc sát trùng xuống nền chuồng .
Xung quanh trạng trại được trồng cây xanh để tạo môi trường tự nhiên thông
thoáng cho lợn sinh trưởng và phát triển tốt nhất. Hàng ngày, toàn bộ lượng
phân mà đàn lợn thải ra đều được đóng bao, chuyển ra khu tập trung cách
xa khu sản xuất và bán lại cho nhân dân trồng rau màu xung quanh vùng.
Nguồn nước thải rửa chuồng được thu gom và xử lý tại các khu dành riêng
cho chất thải.
2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở
2.1.2.1. Đối tượng sản xuất
Trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản gồm 3 giống bố mẹ chính 3 giống
lợn là LANDRACE - YORKSHIRE và DUROC, lợn con sinh ra thuộc giống
CP 31. Lợn sau khi sinh 19 - 23 ngày thì được xuất chuồng.
2.1.2.2. Kết quả sản xuất của cơ sở trong những năm gần đây
Trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Thanh Lịch là một trong những
trang trại có quy mô lớn . Với số vốn đầu tư lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật
vào trong sản xuất, trại luôn đạt kết quả sản xuất cao. Dưới đây là một số chỉ
tiêu mà trại đã đạt được trong 3 năm gần đây:



5

Bảng 2.1. Chỉ tiêu đạt đƣợc của trại trong 3 năm gần đây:
Số lợn qua các năm
Chỉ tiêu

Năm

Năm

Năm 2016

2014

2015

(6 tháng đầu năm)

Nái hậu bị (con)

340

360

209

Nái được phối (con)


3201

3253

1638

Tỷ lệ đậu thai (%)

89,32% 91,32%

91,25%

Tổng số lợn con sinh ra (con)

32.823

34.103

17.159

Tổng số lợn con sinh sống (con)

30.764

31.964

16.083

Số lợn con chết, loại sau sinh (con)


1.544

1.604

807

Số lợn con cai sữa/nái/năm (con)

29.220

30.360

15.276

Qua bảng trên ta có thể thấy, kết quả sản xuất của trại tăng lên theo
từng năm: số heo nái hậu bị từ năm 2014 là 340 nái, tới năm 2015 tăng lên
360 nái, tăng 106%. Tỷ lệ phối đậu thai từ 89,32% (năm 2014) tăng lên
91,25% (năm 2016). Số heo con sinh ra, sống tới lúc cai sữa tăng lên, từ năm
2014 là 29.220 con tới năm 2015 là 30.360 con.
Để đạt được những kết quả như trên, ngoài việc áp dụng khoa học kỹ
thuật, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên có tay nghề
cao…, trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về vệ sinh thú y, với
phương châm “phòng dịch hơn dập dịch”. Trang trại chăn nuôi của ông
Nguyễn Thanh Lịch là một trong những trang trại gia công có kết quả chăn
nuôi khá tốt trong hệ thống chăn nuôi heo gia công của công ty CP Việt Nam.


6

2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong ngoài nƣớc có

liên quan đến nội dung của đề tài.
2.2.1.Tổng quan tài liệu.
2.2.1.1 Cấu tạo giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục cái
Theo Đặng Quang Nam (2002) [7], cơ quan sinh dục cái có các bộ
phận sau:
- Buồng trứng (Ovarium): Gồm một đôi (dài 1,5 - 2,5cm, khối lượng 3 5 gam) nằm trước cửa xoang chậu, ứng với vùng đốt sống hông 3 - 4. Bề mặt
buồng trứng có nhiều u nổi lên.
Buồng trứng được bọc ở ngoài bởi màng liên kết sợi chắc, bên trong
chia làm 2 phần, cả 2 phần đều phát triển một thứ mô liên kết sợi xốp tạo nên
một loạt chất đệm. Dưới lớp màng liên kết của buồng trứng có nhiều tế bào
trứng non phát triển dần thành nang trứng nguyên thủy, sau đó phát triển
thành nang trứng sơ cấp và cuối cùng phát triển thành bao noãn chín. Dưới tác
dụng của kích tố đặc biệt là kích tố sinh dục tuyến yên, trứng chín sẽ rụng.
Như vậy, buồng trứng có 2 chức năng là sản sinh ra tế bào trứng và tiết
ra hormone sinh dục có ảnh hưởng tới tính biệt, tới chức năng tử cung (đặc
tính thứ cấp của con cái).
- Ống dẫn trứng (Oviductus): Ống dẫn trứng dài 15-20cm, uốn khúc
nằm ở cạnh trước dây chằng rộng. Ống dẫn trứng bắt đầu ở bên cạnh buồng
trứng đến đầu tử cung và được chia làm 2 phần: Phần trước tự do có hình
phễu loe ra gọi là loa vòi (loa kèn) có tác dụng hứng tế bào trứng chín rụng,
phần sau thon nhỏ có đường kính dài 0,2-0,3cm nối với sừng tử cung.
Cấu tạo ống dẫn trứng xếp từ ngoài vào trong gồm có: Màng tương
mạc đến từ dây chằng rộng, lớp cơ (2 lớp: Cơ vòng ở trong, cơ dọc ở ngoài),
lớp niêm mạc trong cùng có nhiều gấp nếp chạy dọc và không có tuyến.
- Tử cung (Uterus): Tử cung là nơi cung cấp dinh dưỡng và phát triển
của thai. Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bóng đái.


7


Tử cung gồm 3 phần: Sừng, thân, cổ tử cung. Sừng tử cung dài ngoằn
ngoèo như ruột non, dài 30-50cm, có dây chằng rộng rất dài nên khi thiến có
thể kéo sừng tử cung ra ngoài được. Thân tử cung ngắn, niêm mạc thân và
sừng tử cung là những gấp nếp nhăn nheo theo chiều dọc. Thai làm tổ ở sừng
tử cung. Cổ tử cung không có gấp nếp hoa nở mà là những cột thịt xen kẽ cài
răng lược với nhau.
Cấu tạo tử cung xếp từ ngoài vào trong có: Tương mạc được nối với
dây chằng rộng, lớp cơ rất phát triển (dày, khỏe, có cấu tạo phức tạp phù hợp
với chức năng chứa thai phát triển và đẩy thai khi đẻ. Cơ dọc ở ngoài, cơ vòng
ở trong và phát triển mạnh ở cổ tử cung tạo thành cơ thắt), lớp niêm mạc
trong cùng màu hồng nhạt có nhiều gấp nếp với nhiều tuyến tiết chất nhờn.
- Âm đạo (Vagina): Âm đạo là đoạn nối tiếp sau cổ tử cung, trước âm
hộ. Đây là nơi tiếp nhận dương vật khi giao phối, phía trên là trực tràng, phía
dưới là bóng đái, nó được ngăn cách với âm hộ bởi màng trinh.
Cấu tạo: Lớp ngoài là tương mạc phủ phần trước âm đạo. Lớp giữa là
lớp cơ trơn xếp theo các chiều khác nhau dính lẫn lộn với tổ chức liên kết
bọc ngoài. Lớp niêm mạc có nhiều gấp nếp nhăn nheo theo chiều dọc, trong
đó có nhiều chất nhờn. Âm đạo có khả năng co giãn rất lớn và là đường đi
ra của thai.
- Âm hộ (Vulva): Đây là đoạn sau cùng của bộ máy sinh dục cái, sau
âm đạo và ngăn cách âm đạo bởi màng trinh. Âm hộ nằm dưới hậu môn và
được thông ra ngoài bởi một khe thẳng đứng gọi là âm môn. Trong âm hộ còn
có lỗ thông với bóng đái, tuyến tiền đình (Bartholin) và khí quan cương cứng
gọi là âm vật (Clitoris).
Âm môn là một khe thẳng đứng dưới hậu môn, có 2 môi nối với nhau
bởi 2 mép. Môi lớn ở ngoài dày trùm lấy môi nhỏ ở trong. Mép trên hơi nhọn,
mép dưới rộng bao quanh âm vật. Mép trên và dưới được bao bởi lớp da
mỏng mịn, phía dưới mép dưới có lông.
Bộ phận phía trong âm hộ và âm môn:



8

+ Màng trinh (Hymen): Ngăn cách giữa âm đạo và âm hộ.
+ Lỗ đái là đường thông ra của niệu đạo con cái. Lỗ đái nằm ở thành
dưới âm môn ngay sau dưới màng trinh hình một cái khe có van trùm lên,
cánh van hướng về sau. Bên cạnh lỗ đái còn có lỗ đổ ra của ống tuyến tiền
đình. Đôi tuyến này tiết ra dịch nhờn làm ẩm ướt cửa vào âm đạo phía trong
âm hộ và có thành phần sát khuẩn.
+ Âm vật (Clitoris): Là tổ chức cương cứng, có nhiều dây thần kinh
nên tính cảm giác tập trung ở đây cao.
Cấu tạo âm hộ từ ngoài vào có các lớp sau: Lớp da mỏng mịn có nhiều
sắc tố, lớp cơ gồm cơ thắt và dây treo âm hộ, lớp niêm mạc trong cùng có
nhiều tuyến tiết dịch nhờn.
- Tuyến vú (Mamma): Lợn là động vật đa thai có từ 6 - 8 đôi vú xếp 2
hàng từ vùng ngực đến vùn bụng bẹn. Tuyến này chỉ phát triển khi con cái
đến tuổi thành thục về tính và phát triển to nhất ở thời kỳ chửa, đẻ. Thời kỳ
con vật đẻ, tuyến vú tiết ra sữa cung cấp dinh dưỡng cho con sơ sinh và lúc
còn non. Vú gồm có bầu vú và núm vú.
+ Bầu vú: Bầu to đó là nơi sản sinh và chứa sữa. Ngoài cùng có lớp da
mỏng mịn tùy theo vị trí mà lớp da này do da ngực, nách hay da bụng, bẹn
kéo đến, tiếp đến là lớp cơ. Trong cùng có 2 phần cơ bản là bao tuyến và ống
dẫn xen kẽ giữa phần cơ bản ở trong như tổ chức mỡ, tổ chức liên kết, hệ
thống mạch quản thần kinh bao vây và chia vú làm nhiều thùy nhỏ trong đó
có nhiều sợi đàn hồi.
Bao tuyến là nơi sản sinh ra sữa giống như một cái túi, từ túi đó sữa
theo 3 loại ống dẫn: Nhỏ, trung bình, lớn rồi đổ vào xoang sữa ở đáy tuyến và
thông ra ở đỉnh đầu vú.



9

Để hình thành một lít sữa phải có 540 lần lít máu đi qua tuyến vú, vì
vậy sự cung cấp máu cho tuyến vú rất phong phú, mao mạch bao quanh bao
tuyến dày đặc.
+ Núm vú: Một bầu vú có một núm vú cấu tạo bởi da - tổ chức liên kết
- cơ - ống dẫn sữa. Ống dẫn sữa gồm 2 - 3 ống thông nối từ xoang sữa (Bể
sữa) ra đầu núm vú. Ở đầu núm vú, sợi cơ trơn xếp thành vòng tạo thành cơ
vòng đầu vú giữ cho đầu vú ở trạng thái khép kín khi không thải sữa.
+Quá trình mang thai và đẻ:
Nguyễn Xuân Tịnh (1996) [15] cho biết, thụ thai là sự kết hợp giữa tinh
trùng và trứng tạo thành hợp tử, hay nói cụ thể hơn là quá trình đồng hóa giữa
tinh trùng và trứng. Đó là kết quả của sự tái tổ hợp các gen từ 2 nguồn gen
khác nhau. Thời gian mang thai của lợn trung bình 114 ngày. Khi mang thai
thể vàng tồn tại và tiết ra kích tố progesterone ức chế sự phát triển của bao
noãn. Do đó, con vật chửa sẽ không động dục và không thải trứng.
Thời gian chửa của lợn cái được chia ra làm hai thời kỳ:
+ Chửa kỳ 1: Là thời gian lợn chửa 84 ngày đầu tiên.
+ Chửa kỳ 2: Là thời gian lợn chửa từ ngày chửa thứ 85 đến khi đẻ.
- Theo Trương Lăng (2003) [4], trong thời kỳ lợn chửa có thể xuất hiện
hai tai biến:
+ Toàn bộ các thai chết gây sảy thai.
+ Một phần thai chết, các thai khác tiếp tục phát triển xen kẽ không bị
đẩy ra ngoài.
2.2.1.2. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái
2.2.1.3. Nguyên nhân của bệnh
Theo Nguyễn Xuân Bình (2005) [1], bệnh thường xảy ra vào thời gian
1 - 10 ngày sau khi đẻ.



10

Theo Đặng Thanh Tùng (2006) [16] viêm tử cung ở lợn nái là một
trong những tổn thương cơ quan sinh dục của lợn nái sau khi sinh, ảnh hưởng
rất lớn đến khả năng sinh sản, làm mất sữa, lợn con không có sữa sẽ còi cọc,
suy dinh dưỡng, chậm phát triển. Lợn nái chậm động dục trở lại, không thụ
thai, có thể dẫn đến vô sinh, mất khả năng sinh sản của lợn nái.
Lợn là loài có khả năng sinh sản cao, đẻ nhiều con trên lứa, nhiều lứa
trên năm, thời gian mang thai ngắn…Đây là điều kiện thuân lợi cho vi trùng
xâm nhập gây bệnh cho đường sinh dục.
Nguyễn Hữu Phước (1982) [10] cho biết: Lợn nái sinh sản đều mang vi
khuẩn trong âm đạo nhưng không gây bệnh chỉ khi đẻ cổ tử cung mở, chất dịch
tiết đọng lại, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập, phát triển và gây bệnh.
Mặt khác theo Nguyễn Hùng Nguyệt (2004) [9], cơ quan sinh dục lợn
nái phát triển không bình thường gây khó đẻ, hoặc lợn nái đẻ khó do nhiều
trường hợp khác nhau: Thai to quá, thai ra ngược, thai không bình thường,…
nái tơ phối giống sớm khi khối lượng cơ thể chưa đạt 70% khối lượng trưởng
thành, nái già đẻ nhiều lứa, khi đẻ tử cung co bóp yếu hoặc viêm tử cung từ
lần trước làm niêm mạc tử cung bị rách, bị biến dạng nên nhau thai không
tróc hoàn toàn gây sót nhau, vi khuẩn xâm nhập và phát triển mạnh gây thối.
Lợn nái ngoại nhập nội cũng dễ mắc bệnh do chưa thích nghi với điều
kiện khí hậu Việt Nam.
Lê Văn Năm và cs. (1997) [8] cho rằng, có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại
cảnh gây bệnh như: Do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng
cụ hay sử dụng thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến Muxin của chất nhầy các cơ
quan sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất
hợp lý, thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong
điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về kích thước bình thường và khối lượng
ban đầu khoảng 3 tuần sau khi đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào



11

tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây
nên trong thời gian động đực (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo
(TTNT) sai kỹ thuật (dụng cụ dẫn tinh làm tổn thương niêm mạc tử cung).
Phạm Sỹ Lăng (2006) và cs. [3] đưa ra nhận định rằng do tinh dịch bị
nhiễm khuẩn và dụng cụ dẫn tinh không vô trùng đã đưa các vi khuẩn viêm
nhiễm vào bộ phận sinh dục của lợn nái. Do lợn đực nhảy trực tiếp, mà niệu
quản và dương vật bị viêm sẽ truyền bệnh sang lợn nái. Chuồng trại và môi
trường sống của lợn nái bị ô nhiễm, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và
sau khi lợn đẻ không tốt.
Bệnh còn xảy ra do sự thiếu xót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần
thiếu hay thừa protein trước, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm
đường sinh dục. Lợn nái sử dụng quá nhiều tinh bột, gây khó đẻ, gây viêm
đường sinh dục do xây xát. Thiếu dinh dưỡng lợn nái ốm yếu sức đề kháng
giảm không chống lại được vi khuẩn xâm nhập gây viêm tử cung. Khoáng
chất, vitamin ảnh hưởng đến viêm đường sinh dục. Thiếu Vitamin A sẽ gây
sừng niêm mạc, sót nhau (Lê Hồng Mận, 2006) [6].
Theo Lê Văn Năm và cs. (1997) [8], viêm tử cung còn có thể là biến
chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian
động dục (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo
đường máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung.
Theo Madec F., Neva C. (1995) [23], bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường
tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong
âm đạo và việc gây viêm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra…
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một
cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa
phối đã bị viêm tử cung.



12

2.2.1.4. Hậu quả của bệnh viêm tử cung
Tử cung là bộ phận quan trọng của cơ quan sinh dục, nơi thai làm tổ và
được đảm bảo mọi điều kiện để thai phát triển. Mọi quá trình bệnh lý ở tử cung
đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản. Hậu quả của viêm tử cung làm
cổ tử cung bị tắc, khi gia súc động dục niêm dịch không thoát ra được. Theo
Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [2], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn đến một
số hậu quả sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai: lớp cơ trơn ở thành tử
cung có đặc tính co thắt. Khi gia súc cái mang thai, sự co thắt của cơ tử cung
giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chặt
vào tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc
tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân hủy thể vàng ở
buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây
co mạch hoặc thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi
đến thể vàng. Thể vàng bị phá hủy không tiết Progesterone nữa, hàm lượng
Progesterone trong máu giảm làm cho tính trương lực cơ của cơ tử cung tăng
lên, do đó gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết
lưu. Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để
giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesteron
giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào
thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển
kém hoặc thai chết lưu.
- Sau khi sinh lợn con giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của
lợn con theo mẹ: khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục
thường có mặt của vi khuẩn E. coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế
sự phân tiết kích thích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc



13

mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con của
những lợn mẹ bị viêm tử cung thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ ảnh hưởng đến khả năng động dục
trở lại: nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF 2αgiảm, do đó thể
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thùy
trước tuyến yên tiết LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng
trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
Theo Madec F., Neva C. (1995) [23], ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng
mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn bị viêm tử cung lúc sinh đẻ
là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh
đẻ ảnh hưởng rất lớn tới năng xuất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối
giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh. Hiện tượng
viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm
giảm độ mắn đẻ. Ngoài ra, viêm tử cung là một trong những nguyên nhân dẫn
đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con cai sữa thấp. Đặc biệt, nếu
viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của
buồng trứng.
Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh
giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra
biện pháp để phòng và điều trị hiệu quả.
2.2.1.4. Các thể viêm tử cung
Các tác giả Bane A. (1986) [18]; Đặng Đình Tín (1985) [13], đều cho
rằng: các quá trình bệnh xảy ra ở cơ quan sinh dục là các nguyên nhân chính
dẫn đến hiện tượng rối loạn sinh sản và giảm năng suất của gia súc cái.
Theo Đặng Đình Tín (1986) [14], bệnh viêm tử cung thường được chia
làm 3 thể: viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.

* Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)


14

Theo Black (1983), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp niêm mạc tử
cung. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm khả năng
sinh sản của gia súc cái. Viêm nội mạc tử cung phổ biến và chiếm tỷ lệ cao
nhất trong các thể viên tử cung (trích Phùng Thị Vân, 2004 [17]).
Nguyên nhân: Khi gia súc sinh đẻ, nhất là trong những trường hợp đẻ
khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây sát, tổn
thương,vi khuẩn như: Streptococcus, Staphylococcus, E. coli, Salmonella,
Brucella, roi trùng xâm nhập và phát triển gây viêm nội mạc tử cung. Mặt
khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó thương hàn,
bệnh lao… thường gây ra viêm nội mạc tử cung. Căn cứ vào tính chất, trạng
thái của quá trình bệnh lý, viêm nội mạc tử cung có thể chia ra làm hai loại:
- Viêm nội mạc tử cung cata cấp tính có mủ (Endomestritis puerperalis
Catarhalis purulenta acuta)
Bệnh này xuất hiện trên tất cả các loài gia súc, gặp nhiều ở bò, trâu và
lợn. Sau khi sinh đẻ, niêm mạc cổ tử cung và âm đạo bị tổn thương, xây sát,
nhiễm khuẩn, nhất là khi gia súc bị sát nhau, đẻ khó phải can thiệp.
Khi bị bệnh, gia súc có biểu hiện một số triệu chứng chủ yếu: thân nhiệt
hơi cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi
khi cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn
dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết…
Khi con vật nằm, dịch viêm thải ra ngoài càng nhiều hơn. Xung quanh
âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại hình
thành từng đám vẩy, màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch
viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm
mạc âm đạo bình thường.

Kiểm tra qua trực tràng có thể phát hiện được một hay cả hai sừng tử
cung sưng to, hai sừng tử cung không cân xứng nhau. Thành tử cung dày và


15

mềm hơn bình thường. Khi kích thích nhẹ lên sừng tử cung thì mức độ phản
ứng co nhỏ lại của chúng yếu ớt. Trường hợp trong tử cung tích lại nhiều dịch
viêm, nhiều mủ thì có thể phát hiện được trạng thái chuyển động sóng.
- Viêm nội mạc tử cung màng giả
Thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết thương
đã ăn sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử.
Trường hợp này, con vật xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt
lên cao, ăn uống và lượng sữa giảm, có khi hoàn toàn mất sữa. Con vật biểu
hiện trạng thái đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục
luôn thải ra ngoài hỗn dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức
hoại tử, niêm dịch…
* Viêm cơ tử cung (Myomestritis Puerperalis)
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [2], viêm cơ tử cung thường kế phát
từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm
xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tử cung làm niêm mạc bị phân
giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản. Từ đó làm cho
các lớp cơ và một ít lớp niêm mạc tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng mà can
thiệp chậm có thể dẫn tới hiện tượng nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm
trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi vì lớp cơ và lớp tương mạc tử cung bị
phân giải, bị hoại tử mà tử cung bị thủng hay hoại tử từng đám to.
Ở thể viêm này, lợn nái bị bệnh biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân
nhiệt lên cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hay mất hẳn. Con
vật kế phát chướng bụng đầy hơi, viêm vú, có khi viêm phúc mạc. Gia súc
biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra

ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên
có mùi hôi tanh, thối. Kiểm tra qua âm đạo bằng mỏ vịt thấy cổ tử cung mở,
hỗn dịch càng chảy ra ngoài nhiều hơn, phản xạ đau của con vật càng rõ hơn.


16

Khám qua trực tràng thì tử cung to hơn bình thường, hai sừng tử cung to nhỏ
không đều nhau, thành tử cung dày và cứng, kích thích lên tử cung, con vật
rất mẫn cảm, đau nên càng rặn mạnh hơn, hỗn dịch bẩn trong tử cung càng
thải ra nhiều. Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ
lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
* Viêm tương mạc tử cung (Perimestritis Puerperali)
Theo Athur (1964), viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ thể
viêm cơ tử cung. Bệnh này thường ở thể cấp tính, cục bộ, toàn thân xuất hiện
những triệu chứng điển hình và nặng (trích Đặng Đình Tín , 1985 [13].
Lúc đầu, lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển sang màu đỏ
sẫm, mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị phân hủy và bong ra, dịch thẩm
xuất rỉ ra làm cho lớp tương mạc bị xù xì. Trường hợp viêm nặng, nhất là thể
viêm có mủ, lớp tương mạc ở một số vùng có thể dính với các tổ chức xung
quanh dẫn đến viêm phúc mạc, thân nhiệt tăng cao, mạch nhanh. Con vật ủ rũ,
uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Con vật luôn luôn
biểu hiện trạng thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm
hộ thải ra ngoài rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có mùi thối
khắm. Kiểm tra qua trực tràng thấy thành tử cung dầy cứng, hai sừng tử cung
mất cân đối, khi kích thích con vật biểu hiện đau đớn càng rõ và càng rặn
mạnh hơn. Trường hợp một số vùng của tương mạc đã dính với các bộ phận
xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thay đổi về vị trí và hình dáng
của tử cung, có khi không tìm thấy một hoặc cả hai buồng trứng.
Thể viêm này thường dẫn đến kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết,

huyết nhiễm mủ.
2.2.1.5. Chẩn đoán viêm tử cung ở lợn nái
Theo Madec F, Neva C. (1995) [23], xuất phát từ quan điểm lâm sàng
thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì


17

đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng
mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng
khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc
như kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất
hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kì cho
sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có
những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết
tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn
nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.
Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ
chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động dục thì
có thể bị nhầm lẫn.
Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương
đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm
tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh
dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để
chẩn đoán cho chính xác.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ
ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu
hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ
đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất,

thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
Để chẩn đoán người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục bộ cơ
quan sinh dục và triệu chứng toàn thân. Có thể dựa vào các chỉ tiêu ở bảng sau.


18

Bảng 2.2. Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung
ST

Các chỉ tiêu để

T

phân biệt

1

Dịch viêm

Viêm

Viêm nội mạc

Viêm cơ

Màu

Trắng xám, trắng sữa


Hồng, nâu đỏ

Nâu rỉ sắt

Mùi

Tanh

Tanh thối

Thối khắm

Đau nhẹ

Đau rõ

Đau rất rõ

Bỏ ăn một phần hoặc

Bỏ ăn hoàn

hoàn toàn

toàn

2

Phản ứng đau


3

Bỏ ăn

tƣơng mạc

Bỏ ăn
hoàn toàn

2.2. Những kết quả nghiên cứu trong ngoài nƣớccó liên quan đến đề tài
2.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh viêm tử cung ở ngoài nước
Chăn nuôi lợn là một nghề chiếm tỷ lệ khá cao trong ngành chăn nuôi ở
nhiều nước trên thế giới. Để khai thác hiệu quả hơn giá trị dinh dưỡng và sinh
khối của loài, các nước phát triển trên thế giới không ngừng đầu tư cải tạo đàn
giống lợn và áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản của
chúng. Trong lĩnh vực thú y đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về bệnh sinh sản.
Theo Trekaxova A.V. (1983) [25], trong số các nguyên nhân dẫn đến ít
sinh đẻ và vô sinh của lợn thì các bệnh ở cơ quan sinh dục chiếm từ 5-15%.
Theo Madec (1991) [22], qua kiểm tra vi thể xứ Brơ-ta-nhơ của miền
tây bắc nước Pháp, cho thấy 26% lợn nái có bệnh viêm tử cung. Ngoài ra, 2%
số lợn nái có bệnh tích thoái hóa mô nội mạc tử cung với đặc điểm thành tử
cung có cấu tạo sợi fibrine.
Trong chăn nuôi lợn sinh sản, năng suất chăn nuôi phụ thuộc phần lớn
vào năng suất sinh sản; trong đó có hai yếu tố chính là độ sai con và độ mắn
đẻ. Do vậy, ưu tiên hàng đầu và liên tục của chăn nuôi lợn sinh sản là tạo ra
được nhiều lợn con sinh ra và sống sót cho tới lúc cai sữa, đồng thời giảm
thời gian phi sản xuất của lợn nái nhất là do không thụ thai. Mục tiêu trên đòi
hỏi sự làm việc cường độ cao ở lợn nái và nhất là cơ quan sinh sản. Do vậy,



×