Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.64 KB, 87 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi ;
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và xuất phát từ
tình hình thực tế tại địa bàn nghiên cứu
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thanh Vân

1

1


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đối với Hội
đồng khoa học chuyên ngành “Công tác xã hội” trường Đại học Lao động –
Xã hội, cùng Quý thầy, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu viết khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Ths. Nguyễn Hồng Linh - Người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu để
hoàn thành bản khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Võng Xuyên,
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Phúc Thọ, tổ vay vốn xã Võng Xuyên và
các hộ gia đình nghèo tại địa phương đã tạo điều kiện cung cấp những thông
tin, những số liệu quý báu giúp em trong quá trình nghiên cứu và trong quá
trình hoàn thành bài khóa luận.
Em xin cám ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ em trong suốt
thời gian qua.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song những
thiếu sót trong khóa luận là không tránh khỏi. Kính mong nhận được sự đóng
góp và sự chỉ dẫn góp ý và giúp đỡ thêm của quý thầy giáo, cô giáo và các
bạn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thanh Vân

2

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7

3

Từ viết tắt
CSXH
HSSV
MTTQ
NHCSXH
NS&VSMT
TK&VV
UBND


Từ đầy đủ
Chính sách xã hội
Học sinh sinh viên
Mặt trận tổ quốc
Ngân hàng chính sách xã hội
Nước sạch và vệ sinh môi trường
Tiết kiệm và vay vốn
Ủy ban nhân dân

3


MỤC LỤC

4

4


DANH MỤC BẢNG BIỂU
ST
T
1
2
3
4
5
6

5


Tên bảng

Số trang

Mức vay hộ gia đình được vay từ Ngân hàng Chính sách
xã hội theo chương trình hỗ trợ vay vốn
Thống kê mục đích sử dụng nguồn vốn xã Võng Xuyên
năm 2011
Tổng số vốn tín dụng ưu đãi tại xã đến ngày 31/3/2017
dư nợ
Kết quả ủy thác cho vay qua các hội đoàn thể
Sự quan tâm của các cấp chính quyền tới công tác hỗ trợ
vay vốn sản xuất cho hộ nghèo tại Võng Xuyên
Thống kê số lần làm việc với cán bộ trong quá trình làm
thủ tục vay vốn của các hộ nghèo năm 2016

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
Tên biểu đồ
Nguồn vay vốn của gia đình
1
Biểu đồ thu nhập bình quân hàng tháng qua các năm của
2
các hộ nghèo được vay vốn
Mức độ chia tiêu một tháng qua 2 năm ( 2015-2016)
3

Đánh giá của hộ nghèo về vay vốn tại xã Võng Xuyên
4
Sự đánh giá về chính sách hỗ trợ vay vốn sản xuất nông
5
nghiệp của các hộ nghèo xã Võng Xuyên
Trình độ văn hóa của các hộ gia đình nghèo đang sử
6
dụng hiệu quả nguồn vốn vay 3 tháng đầu năm 2017
Tỷ lệ các yếu tố tác động đến thực hiện vay vốn của hộ
7
gia đình nghèo 3 tháng đầu năm 2017

6

Số trang

6


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển
con người, cộng đồng cũng như mỗi quốc gia. Người nghèo thường không có
điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội như việc làm, giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, thông tin, v.v…và những điều đó khiến cho họ càng ít có cơ hội thoát
nghèo. Do vậy, mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực cho người
nghèo là phương thức tốt nhất để giảm nghèo bền vững. Điều này không chỉ
đem lại động lực cho các hộ gia đình vươn lên thoát nghèo mà còn đảm bảo
sự công bằng và độ bao phủ rộng lớn, toàn diện với tất cả các hộ gia đình
nghèo ở khắp mọi nơi.

Hiện nay, tại Việt Nam người nghèo đang là đối tượng được Đảng, Nhà
nước, xã hội quan tâm. Nhìn nhận được tình hình thực tế của đất nước, những
rào cản của người nghèo và những khó khăn không chỉ họ gặp phải mà còn là
khó khăn chung trên toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng nỗ
lực có các biện pháp hỗ trợ trên nhiều phương diện để “chắp cánh bay cao”
cho người nghèo. Một trong những hình thức để hỗ trợ và giúp đỡ cho họ là
cung cấp nguồn vốn để họ thoát nghèo qua việc cho vay vốn theo các chương
trình và kế hoạch chung trên toàn quốc.
Xã Võng Xuyên là xã điểm của huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội thực hiện
thành công chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Đảng
bộ và nhân dân xã Võng Xuyên đã và đang chủ động từng bước khắc phục
khó khăn, tích cực khai thác tiềm năng thế mạnh, thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên ngoài các thành tựu đáng ghi nhận về
kinh tế thì những con số về tỷ lệ hộ nghèo vẫn đang là một bài toán đặt ra đòi
hỏi phải có sự giải quyết kịp thời để hỗ trợ cho đời sống các hộ gia đình
nghèo được nâng cao hơn, bắt kịp với đời sống chung của nhân dân trong xã
cũng như bắt kịp với xu thế của toàn xã hội. Theo thống kê, thực hiện quy
7


định mới về nghèo đa chiều của Đảng và Nhà nước, số hộ nghèo đã được vay
vốn là 102 hộ, số hộ cận nghèo đã được vay vốn là 63 hộ, số hộ thoát nghèo
đã được vay vốn là 64 hộ. Trên thực tế, tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ ,
thành phố Hà Nội các chương trình hỗ trợ vốn cho hộ gia đình nghèo vẫn
đang được triển khai thực hiện theo quy định. Tuy nhiên bên cạnh các hộ gia
đình đã nỗ lực vươn lên từ sự hỗ trợ của chính quyền và cộng đồng thì vẫn có
một bộ phận các hộ gia đình nghèo vẫn chưa có khả năng thoát nghèo được.
Thách thức đặt ra chính là việc cần phải hỗ trợ như thế nào dựa trên những
nguồn vốn đó để các hộ nghèo này thực sự có thể vươn lên thoát nghèo được
dựa trên những nỗ lực của cộng đồng và địa phương.

Xuất phát từ những lý do trên, sinh viên đã lựa chọn đề tài “Công tác
thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng
Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” nhằm đánh giá được kết quả
của công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn phát triển nông nghiệp cho
hộ nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu
Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo là vấn đề của toàn thế giới, quốc gia
và dân tộc. Đó là vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho mỗi quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển, các nước chậm phát triển và các nước nghèo. Tùy theo
tình hình kinh tế và thực trạng nghèo đói của mỗi nước mà quốc gia có những
hoạch định, giải pháp và những chương trình hành động để xóa đói giảm
nghèo tương ứng cho quốc gia mình.
Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
nghèo đói. Mỗi công trình nghiên cứu đều đề cập đến tình hình thực tế, từ đó
có các giải pháp giải quyết triệt để một vấn đề cụ thể trong phát triển sản xuất
nông nghiệp. Các giải pháp này đều huy động các nguồn lực, sử dụng đất đai,
tài nguyên, khí hậu, nguồn nhân lực nhằm giải quyết tình trạng nghèo đói.
Qua nghiên cứu cho thấy, trong các vấn đề về nghèo đói, một trong những vấn
đề nổi bật, cần được quan tâm ưu tiên giải quyết. Đây cũng là mối quan tâm
8


chung của các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà nghiên cứu trong
quá trình nghiên cứu chính sách và hoạch định chính sách để hỗ trợ cho nhóm
đối tượng yếu thế này.
Trong cuốn “Xóa đói giảm nghèo của Việt Nam” do UNDP nghiên cứu
đề cập đến vấn đề về nguồn vốn tín dụng cho người nghèo, nêu lên những vấn
đề bất cập trong việc cho vay vốn và chuyển giao vốn cho người nghèo trong
quá trình thực hiện thực tế.
Trong cuốn “Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam” do Nhà xuất bản chính trị

quốc gia ấn hành, các tác giả cuốn sách đó đã đề cập đến một khía cạnh nhỏ
trong các hoạt động của thị trường đối với người nghèo. Đồng thời đưa ra giải
pháp cho các hoạt động này. Tuy nhiên các giải pháp này vẫn còn nhiều hạn
chế, chỉ dừng lại ở mức độ chung chung chứ chưa đi vào cụ thể.
Trong cuốn “Việt Nam tiếng nói của người nghèo”, báo cáp tổng hợp
do ngân hàng thế giới World Banks và bộ phận phát triển quốc tế của sứ quán
Anh phối hợp với Action Aid Việt Nam và Oxfram, quỹ hỗ trợ nhi đồng Anh
và chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thụy Điển tiến
hành nhằm tăng cường sự hiểu biết về các khía cạnh nghèo đói, giải thích mối
quan hệ nhân quả và quá trình làm cho người ta rơi vào cảnh nghèo đói cũng
như thoát khỏi nghèo đói.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa đi sâu tìm hiểu những tác động của
điều kiện tự nhiên, cơ chế thị trường và đặc biệt là phong tục tập quán, văn
hóa truyền thống có tác động đến việc vay vốn và sử dụng vay vốn của người
nghèo.
Năm 1996 tác giả Nguyễn Văn Chung đã có nghiên cứu về “Thực trạng
hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam”. Ông cho rằng hệ thống tín dụng
chính thức tham gia vào thị trường nông thôn đã lâu, tuy nhiên chưa rõ rệt nên
không có nhiều hoạt động thực sự mạnh mẽ và gây ấn tượng. Ngược lại, hệ
thống tín dụng phi chính thức lại hoạt động rất đa dạng và phong phú, có đến
70% dân số nông thôn lựa chọn hệ thống tín dụng này. Tiêu biểu như “Thị
9


trường vốn tín dụng nông thôn và sử dụng vốn tín dụng của hộ nông dân
huyện Gia Lâm – Hà Nội” của tác giả Kim Thị Dung (1999) trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội.
Năm 2000, Phạm Vũ Lửa Hạ đã đưa ra một số hướng phát triển hệ
thống tín dụng nông thôn ở Việt Nam trong nghiên cứu “Phát triển hệ thống
tín dụng nông thôn ở Việt Nam” bao gồm: Xác định đúng đắn hình thức của

chính phủ, chính phủ cần có sự can thiệp trực tiếp trong những trường hợp
đặc biệt như khắc phục hậu quả thiên tai hay ưu tiên hỗ trợ vùng sâu vùng xa.
Tuy nhiên chính phủ không nhất thiết phải cung cấp tín dụng với số lượng
nhiều và giá rẻ. Tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và không chính thức ở
những địa phương có trình độ dân trí thấp. Các tổ chức tín dụng chính thức
ngoài việc cho vay cần hỗ trợ hướng dẫn người dân sử dụng vốn vay hợp lý,
có hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm nhiều hơn đến các hộ có phụ nữ
nghèo. Cấp tín dụng trực tiếp cho phụ nữ để tăng cơ hội giúp cho họ tham gia
hoạt động kinh tế, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc, nâng cao lòng tự trọng và sự
tự chủ trong gia đình. Đẩy mạnh phong trào huy động vốn tiết kiệm của hộ
nông dân nghèo. Xóa bỏ sự ngộ nhận là người nghèo không thể tiết kiệm.
Điều này khuyến khích các hộ nghèo không chỉ trả nợ đúng hạn mà sử dụng
vốn vay một cách hiệu quả.
Năm 2001, thạc sỹ Nguyễn Ngọc Anh đã tiến hành nghiên cứu về định
chế tín dụng nông thôn Việt Nam. Trong nghiên cứu này tác giả cho rằng hoạt
động của hệ thống tín dụng chính thức đang phát triển trở lại ở nông thôn với
sự tham gia không ngừng của Chính phủ (thông qua ngân hàng nhà nước, quỹ
tín dụng nhân dân), mà còn có sự viện trợ từ NGO qua các chương trình viện
trợ quốc tế có mục tiêu ( hoạt động thông qua hệ thống Ngân hàng mà sử
dụng các tổ chức quần chúng nhân dân, các đoàn thể hiệp hội), các quỹ tín
dụng nhân dân và các ngân hàng cổ phần thương mại trong nước. Trong đó,
đặc biệt hoạt động của Ngân hàng có cải tiến hơn so với những chương trình

10


có cải cách như: chương trình tín dụng cho tầng lớp người dân nghèo, Ngân
hàng di động, cho vay theo nhóm hộ,….
Đối với các hoạt động phi chính thức, tác giả Lâm Chí Dũng (2005) đã
có công trình nghiên cứu về hoạt động tín dụng phi chính thức ở nông thôn

miền Trung. Qua cuộc khảo sát này, ông đã đưa ra được khái niệm tín dụng
phi chính thức. Đó là thuật ngữ dùng để chỉ những quan hệ tín dụng ngầm
hoặc nửa công khai, ở đó có một số hoặc tất cả các yếu tố vượt ra ngoài khuôn
khổ của thể chế pháp lý hiện hành. Tuy nhiên trong thực tế nó cũng có thể bao
gồm cả những quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các cự dân nông thôn mà yếu tố
lãi suất hoàn toàn bình thường, thậm chí thấp hơn lãi suất thị trường chính
thức và những quan hệ này phát sinh trên cơ sở quan hệ tình cảm (bạn bè,
làng xóm,..) hoặc nhiều thứ quan hệ đa dạng khác.
Trong đề tài “ Thực trạng vay vốn và kết quả sử dụng vốn vay của hộ
nông dân xã Thanh Chương, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”, tác giả
Nguyễn Thị Bảo Thoa (2006). Đề tài phân tích được thực trạng vay vốn của
hộ nông dân xã Thanh Chương đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay kém hiệu
quả của một số hộ điều tra.
Với đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay từ Ngân hàng chính
sách xã hội cho phụ nữ nghèo tại xã Văn Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ
An” của tác giả Trần Thị Hạnh (2009). Đề tài đã nêu rõ được tình hình vay
vốn và sử dụng vốn của phụ nữ nghèo xã Văn Sơn. Tuy nhiên đề tài chưa đưa
ra được các giải pháp cụ thể, nhất là các chính sách của xã Văn Sơn nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay cho phụ nữ nghèo.
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thảo (2008) với đề tài
“thực trạng hoạt động tín dụng của hội phụ nữ thành phố Đồng Hới, tính
Quảng Bình”, tác giả đã chỉ ra rằng phụ nữ là đối tác quan trọng trong các tổ
chức chương trình tài chính tín dụng là phương pháp hiệu quả trong các
chương trình tín dụng nông thôn. Đồng thời một lần nữa tác giả khẳng định

11


vai trò của người phụ nữ trong công cuộc “xóa đói giảm nghèo” đặc biệt trong
các chương trình tín dụng nông thông

Đề tài “thực trạng hoạt động tín dụng tại xã Tượng Sơn, huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh”, tác giả Dương Thị Thùy Dung (2009) đã đánh giá đúng
thực trạng hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng chính thức chính thức
trên địa bàn nghiên cứu. Đi sâu vào phân tích tình hình vay vốn và sử dụng
vốn vay của hộ nông dân và cho thấy được hiệu quả sử dụng vốn vay của hộ
nông dân xã Tượng Sơn. Đồng thời đưa ra một số giải pháp gắn liền với tình
hình thực tế tại địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ
chức trên địa bàn địa phương. Tuy nhiên khóa luận chưa phản ánh được đầy
đủ về tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn xã. Đặc biệt là
hình thức phường hội, vay nặng lãi… Ngoài ra còn chưa đề cập rõ tình hình
huy động vốn của các tổ chức tín dụng cũng như khả năng tiết kiệm của người
dân.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều viết và nghiên cứu dưới
góc độ kinh tế học. Giải quyết vấn đề này, các tác giả đã bám sát những vấn
đề đặc biệt là vấn đề vốn, bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn vốn của các
tầng lớp khác nhau trong xã hội nông thôn. Riêng việc sử dụng vốn là vấn đề
được quan tâm nhất. Hầu hết các nghiên cứu đều đi từ địa bàn rộng đến các
địa bàn cụ thể ở từng địa phương. Nhưng ngoài các thành tựu đã đạt được thì
các vấn đề nghiên cứu này hầu như chỉ nhấn mạnh đén việc cho vay vốn và sử
dụng vốn vay, và đặc biệt quan tâm đến hiệu quả kinh tế chứ không đề cập
nhiều đến hiệu quả xã hội do việc vay vốn đem lại.
Việt Nam là một trong những quốc gia được xếp hạng trong top các
quốc gia đang phát triển. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua
nhiều khó khăn và hứng chịu hậu quả từ chiến tranh kéo dài, tài nguyên thiên
nhiên giàu có tuy nhiên điều kiện tự nhiên phức tạp dẫn đến một bộ phận
không nhỏ người dân còn nghèo, đặc biệt đối với các đối tượng sinh sống tại
miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa, biên giới,…còn gặp nhiều khó khăn
12



trong đời sống, mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình. Dựa trên tình
hình hình, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho
người nghèo cũng như các đối tượng trong hộ nghèo để nâng cao đời sống
cho hộ, đồng thời đảm bảo nâng cao mức sống trung bình chung cho toàn xã
hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tiến tới xóa bỏ nghèo đói. Chính vì lý do này, luôn
đặt ra câu hỏi cho các nhà nghiên cứu cũng như nhà nước nhằm đưa ra các
giải pháp thực hiện phù hợp. Sự tham gia của các nhà nghiên cứu, nhà hoạch
định chính sách không chỉ hỗ trợ đưa ra các nghiên cứu, đóng góp các thông
tin, chỉ số định tính cũng như định lượng làm cơ sở cho việc tổng kết và
nghiên cứu, rút ra kinh nghiệm cho các hoạt động giải quyết vấn đề hiện tại
mà còn hướng tới phát triển kinh tế xã hội.
Qua những nghiên cứu trên, mục tiêu của khóa luận này ngoài việc đề
cập đến tình hình thực hiện chính sách vay vốn cho hộ gia đình nghèo, tác giả
đi sâu phân tích về quy trình vay vốn, số tiền được vay và mục đích sử dụng
nguồn vốn đã được vay của các hộ nghèo trên địa bàn nghiên cứu. Từ đó đưa
ra những thuận lợi và khó khăn nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp cho quá
trình thực hiện chính sách hỗ trợ vay cốn đạt hiệu quả, tạo điều kiện cho các
hộ nghèo có tiền đề phát triển một cách bền vững.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ gia đình
nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập thông tin về việc thực hiện chính sách hỗ trợ vốn với đời
sống của hộ gia đình nghèo theo quy định của địa phương và nhà nước.
- Đưa ra một số yếu tố tác động đến quá trình thực hiện chính sách hỗ
trợ vốn cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội.

13



- Đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn
công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ gia đình nghèo tại xã
Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Công tác vay vốn cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện
Phúc Thọ, thành Phố Hà Nội được thực hiện như thế nào?
- Những yếu tố tác động tới việc thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho hộ
nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, Thành Phố Hà Nội ?
- Có những giải pháp gì để công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vốn
cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, Thành Phố Hà
Nội đạt được hiệu quả cao hơn.
6. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
6.1 Đối tượng nghiên cứu
Công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vay cho hộ gia đình nghèo tại xã
Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, Thành Phố Hà Nội.
6.2 Khách thể nghiên cứu
- Các hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành
Phố Hà Nội.
- Cán bộ phòng lao động thương binh xã hội tại xã Võng Xuyên.
- Cụm trưởng cụm dân cư trên địa bàn xã Võng Xuyên.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1 Phạm vi không gian
Nghiên cứu trên địa bàn xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội.
7.2 Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu trong thời gian năm 2016

14



7.3 Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ
gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp định tính
8.1.1 Phương pháp phỏng vấn sâu
Đây là một phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở quá trình
giao tiếp bằng lời nói có tính đến mục đích đặt ra. Trong cuộc phỏng vấn,
người phỏng vấn nêu những câu hỏi theo một chương trình được định sẵn dựa
trên những cơ sở luật số lớn của toán học.
Xây dựng mẫu phiếu phỏng vấn và thực hiện phỏng vấn đối với các
khách thể cần nghiên cứu
8.1.2 Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng
nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố có liên
quan đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục đích nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp quan sát kết hợp cùng với phương pháp điều tra
bảng hỏi và phỏng vấn sâu nhằm đưa ra đánh giá, kiểm chứng về tình hình
thực tế, tìm hiểu quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ của chính quyền địa
phương cho các hộ gia đình nghèo, tìm hiểu sự thay đổi trên thực tế sau khi
được hỗ trợ vốn của những hộ gia đình nghèo.
8.2 Phương pháp định lượng
8.2.1 Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Bảng hỏi là hệ thống các câu hỏi được sắp xếp trên cơ sở các nguyên
tắc: Tâm lý, logic và theo nội dung nhất định nhằm tạo điều kiện cho người
được hỏi thể hiện được quan điểm của mình đối với những vấn đề thuộc về
đối tượng nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận được cá thông tin cá biệt
đầu tiên đáp ứng các yêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu


15


Xây dựng bảng hỏi với các nội dung phù hợp và tiến hành điều tra trên
thực tế đối với các khách thể cần nghiên cứu. Muc đích sử dụng bảng hỏi để
diễn tả, chỉ dẫn đối tượng nghiên cứu bằng cách điền trực tiếp, từ đó thống kê
số liệu thực tế.
8.2.2 Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập hoặc rút
ra từ những nguồn tài liệu các thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu
Sinh viên nghiên cứu các tài liệu, công trình đã được thực hiện trước
đây về vấn đề có liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu các nghị định, văn bản pháp luật và quy định hiện hành về
hỗ trợ vốn cho hộ gia đình nghèo làm cơ sở vững chắc xuyên suốt quá trình
nghiên cứu, kết hợp với tìm hiểu các tài liệu có nội dung tương tự tại địa
phương, dựa vào đó để tìm ra hướng giải quyết chính xác, khoa học, phù hợp
với địa bàn.
Tiến hành thu thập các văn bản tài liệu cần thiết từ các ban ngành và
các nguồn tin cậy phù hợp với nội dung nghiên cứu.
Ngoài ra, sinh viên tiến hành xem xét các thông tin có sẵn trong tài liệu
để có cái nhìn tổng quan về vấn đề, phục vụ cho mục đích tổng hợp thông tin
và đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài một cách tốt nhất.
8.2.3 Phương pháp thống kê toán học
Trên cơ sở kết quả của việc điều tra bằng bảng hỏi, người nghiên cứu
thực hiện các kỹ năng như làm sạch phiếu hỏi, tổng hợp, mã hóa và xử lý số
liệu.
9. Mẫu nghiên cứu
Cơ cấu mẫu bao gồm :
+15 phiếu phỏng vấn sâu, trong đó:
- 5 phiếu phỏng vấn sâu với đối tượng là chính quyền địa phương, bao

gồm: Phó Chủ Tịch UBND, tổ trưởng tổ vay vốn, trưởng ban trợ giúp người
nghèo, hội trưởng hội phụ nữ xã, bí thư đoàn thanh niên.
16


- 10 phiếu phỏng vấn sâu hộ nghèo được hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
Nội dung của các cuộc phỏng vấn sâu chủ yếu xoay quanh các vấn đề
về các thông tin về quy trình vay vốn, số nguồn vốn hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp, kết quả của việc sử dụng nguồn vốn sau khi được hỗ trợ cho vay và
những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện hoạt động hỗ trợ sản xuất…
+ Thu thập thông tin bằng bảng hỏi với 70 hộ gia đình nghèo trên địa
bàn xã Võng Xuyên.
10. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận.
CHƯƠNG 2: Thực trạng về công tác thực hiện chính sách hỗ trợ vốn
cho hộ gia đình nghèo tại xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội.
CHƯƠNG 3: Kết luận, Giải pháp Khuyến nghị.
Danh mục tài liệu tham khảo

17


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm chính sách
Cụm từ “chính sách” đã được dùng khá phổ biến trong các lĩnh vực kinh
tế và xã hội. Nhưng chưa có một định nghĩa đầy đủ và tổng quát về cụm từ này
Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa “Chính sách

là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính
phủ.Nó bao gồm các mục tiêu kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường mà chính
phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó”
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1988 “Chính sách là những sách lược và
kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị
và tình hình thực tế mà đề ra” hay “Chính sách là các chủ trương và các biện
pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội”
Theo Franc Ellis cho rằng “trên tầm vĩ mô, chính sách được xem như
đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với quản lý nhà nước về một
lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và môi trường” (Nguồn: Franc Ellish
“Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển”, NXB Nông nghiệp
1995, trang 23)
Samuelson cho rằng: “Ngay cả khi Chính phủ không đưa ra một chính
sách trong bối cảnh bất đắc dĩ nào đó để thực hiện mục đích nào đó, thì đó cũng
là một kiểu chính sách” (Nguồn: Paul Samuelson, “Kinh tế học”, Viện kinh tế
học, Bộ Ngoại giao, tập I trang 117)
Theo Jones (1984) thì chính sách luôn gồm các yếu tố bao gồm:
Dự định: Là mong muốn của người làm (hoạch định) chính sách
Mục tiêu: Cụ thể hóa dự định thành tích cần đạt tới
Đề xuất giải pháp: Cách thức tác động để nhằm đạt được mục tiêu
Quyết định lực chọn giải pháp để triển khai thực hiện

18


Theo Ngô Đức Cát và Vũ Đình Thắng cho rằng, chưa có định nghĩa
thống nhất về “chính sách” và đưa ra cách hiểu về “chính sách” là “phương pháp
can thiệp” của Nhà nước nhằm mục tiêu nào đó và trong thời hạn nhất định
Từ những định nghĩa trên, Giáo trình Xây dựng và phân tích chính sách
nông nghiệp, nông thôn của TS.Chu Tiến Quang đã định nghĩa lại một cách

khái quát và cụ thể nhất.Tác giả của giáo trình này cho rằng: “Chính sách là
tập hợp các chủ trương, quan điểm, giải pháp, công cụ nhằm đạt những mục
tiêu nhất định.Quá trình hình thành chính sách có sự tác động của nhiều yếu
tố.Trước hết là sự nảy sinh một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó cần giải
quyết.Trên cơ sở thực tế vấn đề và mong muốn, Chính phủ sẽ lựa chọn mục
tiêu cần đạt, đưa ra giải pháp và công cụ trên cơ sở cân nhắc các điều kiện
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý nhân dân … để hiện thực hóa được
chủ trương đã định” (Nguồn:Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp,
nông thôn, NXB Giáo dục và đào tạo, năm 2010)
Ở tầm vi mô, khái niệm chính sách cũng cũng được sử dụng để phản
ánh chiến lược hay sách lược hành động của một chủ thể nào đó như doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cộng đồng, hộ gia đình nhằm đạt tới
mục tiêu nào đó do các chủ thể đó định ra cho họ.Chẳng hạn một Doanh
nghiệp có chính sách riêng đối với sử dụng lao động, đối với mở rộng hoặc
thu hẹp thị trường chính sách của hộ gia đình trong quản lý chi tiêu …
Như vậy có thể thấy rằng: “Chính sách là một phạm trù của khoa học
quản lý, nó đề cập các giải pháp tác động của Chủ thể đến khách thể, có
phạm vi rộng từ cấp vĩ mô (quốc gia, chính phủ) tới các cấp địa phương như
tỉnh, huyện, xã và tới từng đơn vị kinh tế - xã hội trong một hệ thống kinh tế xã hội xác định”
Điểm chung nhất trong khái niệm về chính sách, dù ở cấp độ nào cũng
là một trong các công cụ của quản lý. Phải có 3 nhóm yếu tố, đó là: Chủ thể,
khách thể và mục tiêu của chính sách

19


Mỗi chính sách đều phục vụ cho một hoặc một vài mục tiêu nhất định,
do một chủ thể nào đó đưa ra và tác động (ảnh hưởng) đến một hoặc một số
khách thể (đối tượng hưởng lợi) nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định
Vì vậy, mỗi chính sách phải có: Chủ thể, khách thể và mục tiêu của

nó.Chính sách sẽ là vô nghĩa hay không khả thi khi nó không xác định được 3
nhóm nhân tố nói trên hay nói cách khác là chính sách bắt nguồn từ ý chí của
chủ thể, không định được khách thể (đối tượng hưởng lợi) và không đưa ra
được mục tiêu cần đạt tới.


Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà
nước thành một hệ thống, quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để
giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên
quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội
(Nguồn: PGS.PTS Trần Đình Hoan, Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế
quản lý trong việc, NXB Chính trị quốc gia, 1996)
1.1.2 Khái niệm nguồn vốn
Nguồn vốn dưới nhiều góc độ khác nhau sẽ được định nghĩa và được
hiểu theo các hướng khác nhau
Vốn là tiền bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh sinh lời là
tổng thể nói chung những gì sẵn có hay tích lũy được trong một lĩnh vực hoạt
động nào đó (Hoàng Phê, trang 918, từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Đà
Nẵng, 2009)
Vốn trong kinh tế là khái niện để chỉ những vật thể có giá trị có khả
năng đo lường được sự giàu có của những người sở hữu chúng (David
Ricardo, từ điển kinh tế học cổ điển, 2013)
Như vậy, cốn là tài sản được sử dụng nhằm mục đích kinh doanh đầu
tư, với mục đích thu lại lợi nhuận lớn hơn từ số tài sản bỏ ra ban đầu. Nói
cách khác, vốn (nguồn vốn) là tài sản gốc được đưa ra đầu tư nhằm thu lại lợi
nhuận.
20



Có nhiều loại nguồn gốc khác nhau:
Xét về hình thức, bao gồm: Tiền mặt, tài sản cố định, phát minh sáng
chế khoa học, công cụ sản xuất
Xét về góc độ sở hữu có 3 loại nguồn cốn
Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn được hình thành do chính bản thân
người nắm vốn, có các văn bản, giấy tờ, bằng chứng về chủ sở hữu tài sản
Vốn huy động: là nguồn vốn được kinh doanh do sự hợp tác đóng góp
từ nhiều thành phần chủ sở hữu khác nhau
Vốn đi vay: là nguồn vốn được hình thành do sự vay mượn từ các
nguồn vốn khác: vay tư nhân, vay ngân hàng,…
1.1.3 Khái niệm vay vốn
Vay vốn là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng và các
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp, các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.4 Khái niệm nghèo
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo
đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp
cận khác nhau:
Theo Tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu
để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có
đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất
đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không
được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có
quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro,
không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh”
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái
21



niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng
cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ
yếu là trong lĩnh vực kinh tế.
Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
một vùng.
Các quốc gia đã thống nhất cao cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một
bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội
phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa
nhận”
Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự
nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau:
+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con
người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và
được nuôi dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng
chi tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả
năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.


22


+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí
lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở
nước này hoặc nước khác.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen ở
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một số định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói
như sau:
“Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 USD
mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua sản phẩm thiết yếu
để tồn tại”
Tại Việt Nam, khái niệm nghèo được hiểu “là tình trạng một bộ phận
dân cư không có những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc ở, vệ sinh, y tế,
giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng”
Nghèo đói thường phản ánh ở ba khía cạnh:
+ Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người
+ Có mức sống thấp dưới mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư
trú
+ Không được hưởng cơ hội lựa chọn, quyết định và tham gia vào quá
trình phát triển cộng đồng
(Nguồn: Trợ giúp xã hội, NXB Lao động Xã hội, 2008, Trang 131,
132)
 Qua những khái niệm trên ta có thể thấy được: “Nghèo là sự thiếu thốn cả về
vật chất và phi vật chất, có cuộc sống thấp, nhà ở tạm bợ, thiếu tiện nghi sinh
hoạt trong gia đình, không có vốn để sản xuất, thiếu ăn vài tháng trong năm,
con em không được đến trường, trong số ít có học thì không có điều kiện để
học lên cao, bệnh không được đến bác sỹ, không tiếp cận tiếp cận với thông

tin, không có thời gian và điều kiện để vui chơi giải trí vì chủ yếu là dành thời
gian để đi làm thêm kiếm tiền, ít hoặc không được hưởng quyền lợi, thiếu
tham gia vào phong trào địa phương”.
1.1.5 Khái niệm hộ gia đình nghèo
23


Theo định nghĩa của World Bank, nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở
nhiều phương diện: Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu
tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương
trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn
tới những người có khả năng giải quyết.
Thứ nhất, hộ nghèo “chủ yếu là các hộ nông dân”, chiếm trên 80% số
nguời nghèo.Hộ nông dân nghèo với trình độ học vấn thấp, trình độ tay nghề
thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn, nguồn
vốn bị hạn chế, có ít đất canh tác hoặc không có đất nhưng có rất ít cơ hội có
thể tạo ra thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp.Những người
sống dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là
nông dân tự do.
Thứ hai, hộ nghèo “là những hộ không có thu nhập ổn định từ công ăn
việc làm, từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội”.Tại nhiều quốc
gia, nhiều vùng “chi tiêu có một công việc tốt” hay có “lương hưu” là những
tiêu chuẩn để xếp các hộ vào các nhóm sung túc hơn mặc dù thu nhập từ
những nguồn này thường không cao, song ý nghĩa chủ yếu của chúng là sự ổn
định và đảm bảo.
Thứ ba, Hộ nghèo “là những hộ có trình độ thấp”. Do vậy, bản thân các
hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khóa quan trọng để
thoát nghèo. Ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ cao
hơn mức phổ thông cơ sở thì mới có cơ hội kiếm được một công việc ổn
định.Ở nông thôn, các hộ thường gắn tầm quan trọng của học hành với khả

năng nhận biết những cơ hội mới và nắm bắt được các kỹ thuật mới, khả năng
biết đọc, biết viết, khả năng tính toán, ngôn ngữ, kỹ thuật là chỉ tiêu được
đánh giá cao.Việc tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người
ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông tin và các phương tiện thông tin đại
chúng đã trở thành những lĩnh vực ưu tiên quan trọng đối với các hộ nghèo.

24


Thứ tư, “các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường là các
hộ nghèo”.Các hộ này thường chỉ không có ít lao động hơn so với miệng ăn
trong gia đình mà còn phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như phải
chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh, gây mất ổn định cho kinh tế gia
đình.Những hộ bị mất lao động, trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình đi hoặc
tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào nhóm hộ nghèo nhất, đây
thường là hộ do phụ nữ làm chủ hộ.Theo thống kê, phụ nữ sống độc thân phần
lớn là nghèo hơn so với những hộ nam giới sống độc thân.Phụ nữ nông dân ở
vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những
người nghèo dễ bị tổn thương nhất.Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian
hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng
đồng do đó họ ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực và lợi ích do chính sách
mang lại.
Thứ năm, các hộ nghèo “thường là nạn nhận của tình trạng nợ nần”.
Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột
biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng đồng
là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc ít đất
đai và những hộ chỉ có khả năng trang trải được các chi tiêu của lương thực
và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh
với ngưỡng nghèo đói. Do vậy, khi có những lao động về thu nhập cũng có

thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo.Tính mùa vụ trong nông nghiệp cũng
tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Tại Việt Nam, theo dự thảo Quyết định về việc ban hành tiêu chí và
mức chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016 – 2020, hộ gia đình nghèo là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách
trở xuống (Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống tại thành thị và 800.000
đồng/người/ tháng trở xuống tại nông thôn)
25


×