Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

đáp án bài tập nhóm hình sự 2 vũ k (37 tuổi) và trần kim h (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông n (giám đốc một doanh nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.04 KB, 15 trang )

BÀI TẬP NHÓM HÌNH SỰ 2: VŨ K (37 TUỔI) VÀ TRẦN KIM H (41 TUỔI) ĐÃ
BÀN BẠC TRƯỚC RẤT KỸ CÀNG VỀ VIỆC CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CỦA
GIA ĐÌNH ÔNG N (GIÁM ĐỐC MỘT DOANH NGHIỆP). CHIỀU 07/02/2010,
LỢI DỤNG GIA ĐÌNH ÔNG N ĐI SẮM TẾT, K VÀ H MANG THEO MỘT TÚI
QUÀ ĐẾN GÕ CỬA NHÀ ÔNG N VÀ NÓI VỚI BÀ P (57 TUỔI, LÀ NGƯỜI
GIÚP VIỆC) LÀ ĐẾN ĐỂ CHÚC TẾT GIA ĐÌNH. KHÔNG NGHI NGỜ GÌ, BÀ
P ĐÃ MỞ CỬA CHO K VÀ H VÀO NHÀ. SAU KHI VÀO NHÀ, CHÚNG VỜ
XIN NƯỚC UỐNG RỒI XÔNG VÀO ĐE DOẠ VÀ ĐỊNH TRÓI BÀ P. BÀ P
SỢ HÃI VAN XIN K, H VÀ NÓI: “CÁC ANH LẤY GÌ THÌ CỨ LẤY, TÔI CHỈ
LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC THÔI” K VÀ H PHÁ KÉT SẮT CỦA GIA ĐÌNH, LẤY
ĐI 70 TRIỆU ĐỒNG, 47 CHỈ VÀNG CÙNG MỘT SỐ NGOẠI TỆ .TỔNG GIÁ
TRỊ TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT LÀ 460 TRIỆU ĐỒNG. SAU KHI K, H LẤY
ĐƯỢC TÀI SẢN VÀ BỎ ĐI THÌ BÀ P MỚI CHẠY RA ĐƯỜNG HÔ HOÁN.
K, H BỊ BẮT GIỮ NGAY SAU ĐÓ.

Đề bài:
Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm
đoạt tài sản của gia đình ông N (giám đốc một doanh nghiệp). Chiều 07/02/2010, lợi
dụng gia đình ông N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và
nói với bà P (57 tuổi, là người giúp việc) là đến để chúc tết gia đình. Không nghi ngờ gì,
bà P đã mở cửa cho K và H vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống rồi xông
vào đe doạ và định trói bà P. Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy,
tôi chỉ là người giúp việc thôi”
K và H phá két sắt của gia đình, lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ
.Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng. Sau khi K, H lấy được tài sản và bỏ
đi thì bà P mới chạy ra đường hô hoán. K, H bị bắt giữ ngay sau đó.
Có 3 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a. K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian dối đánh
lừa người giúp việc.



b. K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình ông N đi
vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc, không phải là chủ sở
hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì
bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản.
c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài sản trước
mắt người giúp việc.
Hỏi:
1. K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh.
2. Hãy phản bác các ý kiến mà anh (chị) cho là sai.

Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã và đang nảy sinh những mặt
trái của nó. Đó là sự tha hóa trong lối sống, đạo đức của một bộ phận những người có lối
sống tiêu cực, muốn hưởng thụ về vật chất nhưng lại lười lao động nên đã dấn thân vào
con đường phạm tội, trong đó cướp tài sản là loại tội diễn ra tương đối phổ biến. Để đi
sâu tìm hiểu làm rõ những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp tài sản so với các tội
xâm phạm sở hữu khác, em xin chọn đề bài số 02 để đi sâu phân tích làm rõ một tình
huống cụ thể, qua đó làm sáng rõ về hình thức tội phạm này.
1.

K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh.
K và H phạm tội cướp tài sản.
Tội cướp tài sản được quy định tại điều 133 BLHS như sau: “1.Người nào dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài
sản..”[1]


Như vậy, ta có thể thấy: Tội cướp tài sản xâm phạm tới khách thể là quyền sở hữu đối
với tài sản, ngoài ra còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân.
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được. Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục
đích vụ lợi, do chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
[2]
Áp dụng phận tích vào bài ra, ta có:
K và H không những xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu của gia đình ông N đối
với số tài sản bị H và K lấy mất mà còn xâm phạm đến sức khỏe tính mạng của bà P
(người giúp việc nhà ông N).
Về mặt khách quan: K và H đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
“xông vào đe doạ và định trói bà P” tác động trực tiếp vào bà P – người quản lý tài sản
(Trong đề bài đưa ra, bà P tuy không phải là chủ sở hữu chính thức đối với tài sản bị cướp
vì chủ sở hữu là ông N, nhưng bà P được ông N giao cho quản lý tài sản, do bà P là người
giúp việc trong gia đình). K và H xác định và cho rằng bà P (người quản lý tài sản) có thể
là người sẽ cản trở việc thực hiện hành chiếm đoạt tài sản gia đình ông N của chúng, nên
chúng đã đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc với bà P. Xét về cách thức đe dọa, chúng đã
chọn thời điểm gia đình ông N đi vắng chỉ còn bà P ở nhà, địa điểm: chúng đã vào được
tận trong nhà. Bà P là một người phụ nữ, tuổi cũng đã cao lại (57 tuổi) vào hoàn cảnh một
mình ở trong nhà, trong khi đó K(37 tuổi) và H(41 tuổi) là 2 người đàn ông còn khá trẻ,
họ có sức khỏe. So sánh tương quan cả về số lượng, tình trạng sức khỏe hiện tại thì ta dễ
dàng nhận thấy sự chênh lệch rõ rệt và khi bị dùng vũ lực thật sự thì bà P là rất khó có thể


chống cự được. Do đó, khi K và H vào được trong nhà, thấy K và H có hành vi “xông
vào đe dọa” ‘định trói” thì bà P hiểu rằng, nếu không để K và H lấy tài sản thì lập tức bà
sẽ bị chúng sử dụng vũ lực ngay tức khắc. Do đó bà có biểu hiện “sợ hãi van xin” qua
biểu hiện này ta thấy, những hành vi của K và H đã làm cho bà P nhận thức được tính
mạng, sức khỏe của bà đang bị đe dọa. Dẫn tới việc ý chí phản kháng của bà P bị tê liệt,
sức chống cự của bà P đối với hành vi của chúng không còn, do đó bà không thể biểu
hiện được hành vi ngăn cản việc thực hiện tội phạm của chúng, và đã nói “Các anh lấy gì
thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc thôi”. Sau khi K và H lấy được tài sản và bỏ đi, bà P

mới có điều kiện để “chạy ra đường hô hoán”, lúc này bà không còn bị tê liệt về ý chí
nữa, bà đã biểu hiện sự phản kháng thông qua việc thông báo cho mọi người biết về hành
vi phạm tội của K và H.
Sau khi thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với bà P, K và H thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, chúng “phá két sắt của gia đình, lấy đi 70 triệu đồng, 47
chỉ vàng cùng một số ngoại tệ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng”. Đây
là một số lượng tài sản lớn, phản ánh mức độ xâm hại quan hệ sở hữu cao.
Về mặt chủ quan: K và H thực hiện tội cướp tài sản với hình thức lỗi cố ý trực
tiếp. Giữa K và H đã có sự “bàn bạc trước rất kỹ càng” chúng đã có sự tính toán về việc
chiếm đoạt tài sản gia đình ông N. Đối tượng chúng định cướp là gia đình ông N – chủ
doanh nghiệp- như vậy chúng xác định, trong nhà ông N chắc chắn sẽ có nhiều tài sản có
giá trị. Chúng còn xác định thời gian gia đình ông N đi vắng lúc nào, tìm hiểu rõ trong
nhà chỉ còn mình bà P là người giúp việc. K và H đã chủ động đưa ra thông tin sai lệch để
được vào trong nhà ông N (nói là đến chúc tết). Chúng tạo cho mình những điều kiện
thuận lợi để thực hiện việc cướp tài sản của gia đình ông N được nhanh chóng và dễ dàng


nhất. Về lý trí, khi thực hiện hành vi cướp tài sản K và H nhận thức được hành vi đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật. K và H cũng đều nhận thức và biết rõ về
hậu quả chung mà cả 2 phải gánh chịu khi tham gia thực hiện. Về ý chí K và H có ý thức
mong muốn đạt được mục đích chiếm đoạt được tài sản (K và H cướp được tài sản, tổng
giá trị tài sản lớn). Mục đích của chúng là cướp được tài sản của nhà ông N. Tổng số tiền
chúng cướp được là 460 triệu đồng, điều này biểu thị tính chất mức độ nguy hiểm do
hành vi K và H gây ra mang tính nguy hiểm cao.
Về mặt chủ thể: K và H đều đạt độ tuổi theo luật định Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim
H (41 tuổi) họ hoàn toàn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. K và H
ở một tuổi đã chín chắn trong nhận thức và điều khiển hành vi. Với sức khỏe của mình,
họ hoàn toàn có thể kiếm những đồng tiền lương thiện nhưng họ đã chọn cách thực hiện
tội phạm để chiếm đoạt tài sản.
Từ những phân tích nêu trên, ta xác định K và H phạm tội Cướp tài sản quy định tại

điều 133 BLHS với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b,
khoản 3 điều 133 BLHS “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dưới năm trăm triệu đồng”.
Ngoài ra, theo đề bài, ta nhận định K và H là đồng phạm về tội Cướp tài sản theo điều
133 BLHS với vai trò của cả 2 đều là người thực hành. Vì: việc thực hiện tội phạm giữa
K và H đã thỏa mãn dấu hiệu về số lượng; các hành vi của K và H có sự liên kết với nhau
(họ cùng xông vào định trói bà P, cùng phá két sắt, cùng lấy tiền…); họ cùng cố ý thực
hiện tội phạm, họ đã có sự bàn bạc trước với nhau về thời gian gây án, mong muốn có sự
tham gia thực hiện của người kia, họ cùng mục đích chiếm đoạt tài sản của nhà ông
N(xác định từ trước mục tiêu là tài sản của ông N), cùng nhận thức được hành vi trái


pháp luật của mình gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới các quan hệ xã hội mà pháp
luật bảo vệ nhưng vẫn thực hiện…
2. Hãy phản bác những ý kiến mà anh (chị) cho là sai.
2.1. Về quan điểm cho rằng “K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã
có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc.”
Trước tiên, ta khẳng định: đây là quan điểm sai.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu đối với tài sản.
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hai hành vi: hành vi lừa dối (hành vi đưa ra
thông tin không đúng sự thật) và hành vi chiếm đoạt, trong đó, hành vi lừa dối là biểu
hiện cụ thể của thủ đoạn gian dối–dấu hiệu đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin sai sự thật nhưng mong muốn người
khác tin đó là sự thật. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể có NLTNHS và đạt độ tuổi
theo luật định.[3]
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phân biệt với tội cướp tài sản đặc
trưng nhất bởi cách thức có được tài sản của tội phạm. Ở tội cướp tài sản, người phạm
tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm người bị tấn
công rơi vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, do được miêu
tả trong điều luật bằng các hành vi phạm tội nên tội cướp tài sản có CTTP hình thức. Còn

ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội thông qua hành vi lừa dối (đưa ra thông
tin không đúng sự thật) làm cho chủ tài sản tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản, đây
là tội có CTTP vật chất.
Vận dụng vào bài ra, ta có: Lúc đầu, K và H đã thực hiện thủ đoạn gian dối. : K và H
đã đưa ra thông tin không đúng sự thật về việc đến để chúc tết. Chúng “lợi dụng việc gia


đình ông N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà
P là đến để chúc tết”, như vậy, K và H đã giả danh người quen biết của gia đình ông N để
tạo lòng tin của bà P (người được giao quản lý tài sản) bà P tin K và H đến chúc tết thật
và cho phép K và H vào trong nhà một cách dễ dàng. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi
gian dối của chúng chỉ dừng lại ở việc tiếp cận được tài sản, giữa chúng và bà P không có
diễn ra một hợp đồng nào khiến bà P tự nguyện giao tài sản cho K và H. Mặt khác, tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản chỉ được coi là hoàn thành khi người phạm tội nhận được tài sản
trên cơ sở người quản lý tài sản do nhầm lẫn, tin người phạm tội mà tự nguyện giao tài
sản, nhưng trong theo bài ra ta có: việc chúng có được tài sản là do chúng đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc đối với bà P và tự chúng thực hiện hành vi chiếm đoạt “phá két sắt lấy
tiền…”Trong trường hợp này, không có hợp đồng nào được xác lập, cũng chưa có hành
vi tự nguyện giao tài sản của người được giao quản lý tài sản (bà P). Khi đưa ra thông tin
gian dối để vào được trong nhà thì K và H lại có những hành vi đặc trưng của tội cướp tài
sản, chúng “xông vào đe dọa” “ định trói” bà P, làm tê liệt ý chí phản kháng của bà P và
sau đó chúng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy hành vi gian dối của K và H
không có quan hệ chặt chẽ với hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối mà K và H
thực hiện chỉ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho K và H tiếp cận được tài sản và thực hiện
các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của tội cướp tài sản. Tài sản mà chúng chiếm đoạt
được là do chúng tự thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không có sự “tự nguyện” đưa cho
của chủ tài sản.
Như vậy, ta kết luận quan điểm “K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng
đã có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc.” là sai.



2.2. Về quan điểm “K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc
gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc,
không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để
lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản.”
Thứ nhất, về quan điểm “K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi
dụng lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp
việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó”. Đây là quan điểm sai.
Tội trộm cắp tài sản xâm hại đến quyền sở hữu đối với tài sản. Trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút, bí mật, trốn tránh sự phát hiện của người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài
sản. Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt với đặc trưng thể
hiện ở dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ (đang có người quản lý). Tội phạm
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do người có NLTNHS và đạt độ tuổi theo quy định
thực hiện.[4]
Tội cướp tài sản phân biệt với tội trộm cắp tài sản đặc trưng nhất qua
tính chất hành vi chiếm đoạt. Ở tội cướp tài sản, tính chất hành vi là dùng vũ lực đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản, ở đây, mức độ đe dọa được thể hiện
cao độ, tình chất nguy hiểm của tội phạm được biểu hiện rõ, thông qua việc tác động vào
ý chí của chủ sở hữu tài sản, người phạm tội mới chiếm đoạt được tài sản. Còn ở tội trộm
cắp tài sản, người phạm tội không tác động vào chủ tài sản, mà lén lút, tránh sự phát hiện
của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản, chủ tài sản không gặp thiệt hại hoặc đe dọa bị gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, ở đây, mức độ nguy hiểm của tội phạm thấp hơn tội
cướp tài sản.


Phân tích tình huống, ta có: Xét về dấu hiệu tài sản đang có chủ. Tuy gia đình ông N
(chủ sở hữu đích thực của tài sản) đi vắng, nhưng bà P là người giúp việc, bà P đương
nhiên là người có trách nhiệm, nghĩa vụ trông coi quản lý tài sản. Tức là, tài sản của gia
đình ông N – đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt của K và H vẫn đang có người

quản lý (bà P đang trông coi bảo vệ, tài sản thuộc sự chiếm hữu của bà P), như vậy, khi K
và H có hành vi lấy tài sản trước mặt bà P không thể được coi là việc lén lút. Mặt
kháckhác, việc K và H “mang theo một túi quà” và “nói với bà P là đến chúc tết gia đình”
đây không phải là việc bằng cách này hay cách khác trốn tranh sự phát hiện của người
quản lý tài sản, cũng không phải là hành vi lén lút, bí mật. Việc K và H đến bà P biết,
thậm chí bà còn “mở cửa cho K và H vào nhà”, việc làm của K và H biểu hiện rõ ràng
việc không trốn tránh sự phát hiện của bà P – người được giao quản lý tài sản, mà chúng
còn được công khai tiếp cận tài sản. Việc K và H hành vi chiếm đoạt tài sản là do chúng
đã tác động vào bà P “xông vào đe dọa” “định trói” bà P mà đạt được. Như vậy, xét về
dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là “tính lén lút, trốn tránh sự phát hiện của
người quản lý tài sản” trong quá trình thực hiện tội phạm của K và H không có, không
thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm này, do đó, nói “K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì
chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản, tuy bà P ở nhà nhưng
bà chỉ là người giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó” là sai.
Thứ hai, về quan điểm “giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì
bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản” đây là quan điểm sai. Trong trường hợp
này, bà P phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm hại đến quyền sở hữu đối với tài sản.
Mặt khách quan biểu hiện qua hành vi chiếm đoạt tài sản mà người chủ tài sản đã tín


nhiệm giao cho một cách ngay thẳng hợp pháp. Việc được giao tài sản không phải do
người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối mà do do có lòng tin từ trước. Mục địch chiếm
đoạt xuất hiện sau khi được giao tài sản.[5]
Ta phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội trộm
cắp tài sản qua dấu hiệu thời điểm người phạm tội nảy sinh ý thức phạm tội và
cách thức có được tài sản. Tội trộm cắp tài sản phát sinh khi người phạm tội chưa có
được tài sản, người phạm tội phải thực hiện hành vi lén lút, trốn tránh sự phát hiện của
chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản. Còn ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tài sản
có được là do người chủ tài sản tin tưởng giao cho và ý thức phạm tội xuất hiện sau khi

người phạm tội đã có được tài sản.[6]
Theo bài ra, ta có: Việc chuyển giao tài sản giữa ông N và bà P là hoàn toàn ngay
thẳng. Do có sự tin tưởng từ trước đối với bà P (bà P là người giúp việc trong nhà) nên
khi cả gia đình đi sắm tết, ông N đã không nghi ngờ và để toàn bộ tài sản trong nhà cho
bà P quản lý. Ở đây, việc bà P có được tài sản không phải do bà dùng thủ đoạn gian dối
do có lòng tin của ông N từ trước (việc người giúp việc trong nhà quản lý tài sản khi chủ
nhà đi vắng là chuyện đương nhiên), trách nhiệm của bà P là phải trông coi tài sản. Theo
đề bài ra, thì bà P đang nắm giữ quản lý số tài sản của ông N. Nhưng khi K và H có hành
vi chiếm đoạt tài sản dẫn đến thiệt hại về tài sản mà bà P lại dụng hoàn cảnh đó để lấy tài
sản của chủ thì tức là bà đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Bà lợi dụng
việc K và H có lấy tài sản, và bà cũng lấy tài sản. Như vậy, mọi người đều sẽ tin rằng tất
cả số thiệt hại về tài sản đều do K và H chiếm doạt, bà P sẽ không bị phát hiện về số tài
sản bà lấy sau này. Trước khi có hành vi chiếm đoạt tài sản của K và H, bà P không hề có
ý định chiếm đoạt mà bà đang là người quản lý tài sản. Tuy nhiên, bà lợi dụng sự việc có


thật là K, H chiếm đoạt tài sản trong nhà, P liền nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Thủ
đoạn gian dối của bà P biểu hiện qua việc lợi dụng vụ cướp tài sản của K và H để chiếm
đoạt tài sản mà bà đang đang quản lý. Như vậy, giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy
tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản là sai. Bà P phạm tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
2.3. Về quan điểm “K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công
khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc”
Đây là quan điểm sai.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản. Công nhiên
chiếm đoạt tài sản là lợi dụng người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản để công
khai chiếm đoạt tài sản của họ. Mặt khách quan biểu hiện qua hành vi công nhiên chiếm
đoạt tài sản. Tội phạm do chủ thể có NLTNHS và đạt độ tuổi thực hiện với lỗi cố ý trực
tiếp.[7]
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản phân biệt rõ nhât với tội cướp tài

sản qua thủ đoạn chiếm đoạt. Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, người quản lý tuy
biết việc chiếm đoạt đang xảy ra nhưng do điều kiện khách quan và chủ quan (không do
người phạm tội mang lại) nên không có khả năng quản lý bảo vệ tài sản, mà người phạm
tội đã lợi dụng tình trạng này của người quản lý tài sản ngang nhiên lấy tài sản trước mắt
người quản lý tài sản. Ở tội cướp tài sản, người phạm tội bị đẩy vào tình trạng tê liệt về ý
chí, không có khả năng quản lý và bảo vệ tài sản, khiến cho những hành vi cản trở tội
phạm không được thực hiện.
Đối chiếu vào bài, ta thấy: Đối với bà P, K và H đã dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận
được vào trong nhà, nơi có tài sản, khi chiếm đoạt, chúng có tính chất công khai trắng


trợn, tuy nhiên, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, chúng đã phải dùng đến thủ đoạn đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc “xông vào đe dọa và định trói” bà P. Người được giao
quản lý tài sản (tức bà P) không bảo vệ được tài sản tuy biết việc chiếm đoạt đang xảy ra
nhưng do điều kiện khách quan K và H đưa đến (chúng xông vào đe dọa và định trói bà
P) nên bà P không có khả năng quản lý, bảo vệ tài sản. Chúng không lợi dụng sơ hở của
bà P khi đi rót nước mà chúng vô hiệu hóa sự phản kháng của bà P bằng cách đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản bà P đang được phép trông coi quản lý.
Sau đó, dù chúng có công khai, trắng trợn lấy tài sản trước mặt bà P đi chăng nữa thì
cũng không phải là biểu hiện của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, quan điểm “K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công
khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc” là sai.
Từ những nhận định trên đây, em hi vọng đã mang lại một cách giải quyết yêu cầu đề
bài đưa ra một cách xác đáng, và có sự phân biệt giữa các tội phạm một cách đơn giản và
dễ hiểu nhất. Em hi vọng, thông qua bài tập này, sẽ là một hồi chuông cảnh tỉnh, góp
phần đẩy lùi các tội phạm xâm phạm sở hữu trong đời sống xã hội hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.


Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009.

2.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập 1, Nxb
Công an nhân dân, năm 2010.


3.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập 2, Nxb
Công an nhân dân, năm 2010.

4.

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia, năm 2007.

5.

TS. Lê Đăng Doanh, Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu (Bộ
luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009), Nxb Tư pháp, Hà Nội,
năm 2013.

6.

Ths. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm
tập II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002.


7.

Ts. Trần Minh Hưởng, Học viện cảnh sát nhân dân, Hệ thống pháp luật hình sự
Việt Nam tập 1, Bình luận khoa học bộ luật hình sự đã được sửa đổi bỏ
sung năm 2009 thực hiện ngày 1/1/2010, Nxb Lao động, năm 2009

8.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2006.

9.

TS. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động
xã hội, Hà Nội, năm 2007.

10.

Ths. Đinh Văn Báu, Tội cướp tài sản theo luật Hình sự Việt
Nam, Tạp chí Luật học số 10/2010, tr3-9.

11.

Mai Thị Thanh Nhung, Một số vấn đề về định tội danh nhóm tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo quy định Bộ Luật Hình sự
Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, năm 2012


[1] Điều 133, Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 sửa đổi

bỏ sung năm 2009.
[2] TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam tập I Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội, Năm
2009, trang 276,277,278
[3] TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam tập I Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội, Năm
2009
[4] TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam tập I Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội, Năm
2009
[5] TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam tập I Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội, Năm
2009, tr
[6] TS. Lê Đăng Doanh, Định tội đối với các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, năm 2013, tr27
[7] TS. Trần Minh Hưởng, Hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam tập I Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao động, Hà Nội, Năm
2009, tr




×