Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.28 KB, 23 trang )

Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
họcvà công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao
trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của nó
trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự
phát triển trong trời đại ngày nay đang đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ
hơn nữa “ sức mạnh bản chất người ” của mình một cách hiện thực và sinh
động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ hơn với những cá
tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con người hiện đại.
Do vậy, trong thời đại ngày nay, khi nói con người là nguồn lực quan trọng
nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.Với tư cách ấy, con người đã được đặt ở vị trí cao nhất của sự
phát triển xã hội, tiến bộ lịch sử, thế giới tinh thần của con người được coi là
tinh hoa của lịch sử văn minh,văn hoá, là giá trị của mọi giá trị, là cội nguồn
của mọi sự phát triển.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục tiêu quan
trọng nhất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân
lực chính là chìa khóa của sự thành công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên
tiến sẽ chính là nhân tố đấy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Với môt nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện
nay không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài, nâng cao
chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vự tốt
nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã
1


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam


hội. Đó cũng chính là là lí do nhóm đưa ra đề tài: “phát huy nguồn nhân lực
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”
Lý luận chung về nguồn nhân lực, công nghiệp hóa và hiện đại hóa

I.

1. Quan niệm về nguồn lực

Nguồn lực, theo định nghĩa chung nhất, là một hệ thống các nhân tố đó
có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một
sự vật, hiện tượng nào đó
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam: nguồn lực con người là
tống thể những yếu tố về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri
thức, địa vị xã hội… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng có thế
sử dụng để phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và
trong các hoạt động khác.
Nguồn lực không phải là bất biến. Nó thay đổi theo không gian và thời
gian. Con người có thể làm thay đổi nguồn lực theo hướng có lợi cho mình.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia nguồn lực thành hai loại:
a)

Nguồn lực trong nước
Nguồn lực trong nước (còn gọi là nội lực) bao gồm các nguồn lực tự

nhiên, nhân văn, hệ thống tài sản quốc gia, đường lối chính sách đang được
khai thác
Nguồn lực trong nước đóng vai trò quan trọng, có tính chất quyết định
trong việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
2



Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
b)

Nguồn lực nước ngoài
Nguồn lực nước ngoài (còn gọi là ngoại lực) bao gồm khoa học - kỹ

thuật và công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất
và kinh doanh... từ nước ngoài.
Nguồn lực nước ngoài có vai trò quan trọng, thậm chí đặc biệt quan
trọng đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Mặc dù có vai trò khác nhau, nhưng giữa nguồn lực trong nước và nguồn
lực nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ hỗ trợ,
hợp tác, bổ sung cho nhau trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng
độc lập chủ quyền của nhau. Xu thế chung là các quốc gia cố gắng kết hợp
nguồn lực trong nước (nội lực) với nguồn lực nước ngoài (ngoại lực) thành
sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
2. Khái niệm về công nghiệp hóa hiện đại hóa

“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao”

Thực trạng nguồn nhân lực ở VN hiện nay
1. Thực trạng chung

II.


a)

Việt Nam là một nước đông dân, có nhiều thành phần dân tộc
3


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 - 1999, dân số nước ta là
76.327.900 người. Về dân số, nước ta đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông
Nam Á và hàng thứ 13 trong tổng số hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế
giới.
Dân số là một nguồn lực quan trọng để phát triển nền kinh tế. Với số dân
đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn. Song
trong điều kiện nước ta hiện nay, dân số đông là một trở ngại lớn cho việc
phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân.
Nước ta có 54 thành phần dân tộc, đoàn kết trong quá trình dựng nước và
giữ nước. Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các thành phần
dân tộc ở nước ta vẫn còn có sự chênh lệch. Vì vậy, phải chú trọng hơn nữa
đển việc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc ít người.
b)

Dân số nước ta tăng nhanh
Dân số tăng quá nhanh dẫn đến sự bùng nổ dân số. Điều đó xảy ra ở nước

ta từ cuối những năm 50 của thế kú XX. Tuy nhiên, ở từng vùng lãnh thổ,
từng thành phần dân tộc, mức bùng nổ dân số có sự khác nhau. Trên phạm vi
toàn quốc, dân số nước ta đã tăng gấp đôi từ 30 lên 60 triệu người trong vòng
25 năm (1960 - 1985).

Nhịp độ gia tăng dân số cũng biến đổi qua các thời kì.
Trong thời kì 1931 - 1960, tốc độ gia tăng trung bình năm là 1,85%. Dân
số tăng nhanh vào những năm 1965 - 1975 với mức tăng trung bình năm trên
3%. Giữa hai đợt tổng điều tra dân số lần thứ nhất và lần thứ hai (1979 và
4


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

1989), mức tăng trung bình năm giảm xuống còn 2,1% và giữa hai cuộc tổng
điều tra dân số gần đây nhất (1989 và 1999) là 1,7%.
Hiện nay, do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình, nhịp độ tăng dân số ở nước ta đang có xu hướng giảm xuống,
tuy còn chậm. Mặc dù tỉ lệ sinh có giảm, song số dân nước ta trong thời kì
1979 - 1989 vẫn tăng thêm 11,7 triệu người, tương đương với số dân của một
nước trung bình trên thế giới.
Trong thời kì 1989 - 1999, số dân tăng thêm 11,9 triệu người, tỉ lệ gia
tăng dân số trung bình năm tuy có giảm (1,7%) nhưng vẫn cao hơn một chút
so với mức gia tăng tự nhiên của toàn thế giới.
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
thành viên trong xã hội.
c)

Dân số nước ta thuộc loại trẻ
Cơ cấu các nhóm tuổi trong tổng số dân (1 - 4 - 1999) của nước ta là:
+ Dưới độ tuổi lao động: 33,1%
+ Trong độ tuổi lao động: 59,3%
+ Ngoài độ tuổi lao động: 7,6%
Do dân số trẻ nên lực lượng lao động của nước ta chiếm khoảng 50%

tổng số dân. Hàng năm xã hội có thêm khoảng 1,1 triệu lao động mới. Điều
5


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

đó gây nên những khó khăn về sắp xếp việc làm cho số lao động gia tăng.
Tuy nhiên lực lượng lao động của Việt Nam có khả năng tiếp thu nhanh các
kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lí, họ sẽ trở
thành nguồn lực quyết định để xây dựng đất nước.

d)

Dân cư và nguồn lao động nước ta phân bố không đều
Điều đó phụ thuộc vào lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh tế -xã hội,
mức độ màu mỡ của đất đai, sự phong phú của nguồn nước v.v... Tính chất
không đồng đều này thể hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong nội bộ từng
vùng lãnh thổ.
Khoảng 80% số dân tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển với mật độ
dân số rất cao (đồng bằng sông Hồng 1180 người/km2 - 1999). Ở trung du và
miền núi, dân cư thưa thớt hơn nhiều (Tây Nguyên là 67 người/km2, Tây Bắc
là 62 người/km2).
Sự phân bố dân cư không đều còn thể hiện giữa thành thị và nông thôn.
76,5% số dân sinh sống ở nông thôn, còn ở thành thị chiếm 23,5% (số liệu
năm 1999)
Tình hình phân bố dân cư như vậy gây ra những khó khăn cho việc sử
dụng hợp lí nguồn lao động và việc khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi
vùng.

6



Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Để giảm bớt gánh nặng dân số, cần phải có chiến lược phát triển dân số
hợp lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của nước ta
Trước mắt, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm giảm nhanh tỉ lệ sinh,
đồng thời từng bước phân bố lại dân cư, lao động giữa các vùng và giữa các
ngành kinh tế trong phạm vi cả nước.

7


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Thực trạng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nói riêng
Như chúng ta đã biết có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, mỗi
loại hình doanh nghiệp có cách thức tổ chức sử dụng nguồn nhân lực khác
nhau.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân: Tốc độ tăng trưởng số lao động sử
dụng của doanh nghiệp tư nhân hàng năm là 22,67%, cao nhất trong các
thành phần kinh tế .Đây là con số được công bố tại kết quả Tổng điều tra
doanh nghiệp các năm từ 2001 đến 2009 do Tổng cục Thống kê thực hiện.
Theo đó, năm 2000, hơn 31 nghìn doanh nghiệp tư nhân tạo ra được hơn 850
nghìn việc làm, chiếm 24,28% tổng số việc làm tạo ra trong khu vực doanh
nghiệp chính thức và chỉ bằng 65% số lượng việc làm mà riêng các doanh
nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra. Nhưng tính đến cuối năm 2008, các
doanh nghiệp tư nhân chính thức đã tạo ra được 4,3 triệu việc làm, chiếm hơn
54% tổng số việc làm của các doanh nghiệp chính thức tạo ra và gấp gần 4
lần tổng số việc làm mà các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra. Con

số này đã góp phần đáng kể cho quá trình tạo việc làm cho hơn 1,2 triệu
người tham gia thị trường lao động mỗi năm và duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp
ở Việt Nam trong thập kỷ qua (ở mức 4-5% trong giai đoạn 2000-2009).
Mức thu nhập cho người lao động khu vực này cũng được cải thiện đáng
kể. Tính trung bình, mức thu nhập bình quân hàng năm của người lao động
trong năm 2000 chỉ là 8,2 triệu đồng (gấp khoảng 1,4 lần GDP bình quân đầu
người của năm 2000, tính theo giá năm 2000). Con số này đã tăng lên 32
8


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

triệu đồng/người/năm, gần gấp đôi mức thu nhập bình quân đầu người vào
năm 2008
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo kết quả điều
tra, có khoảng 74% lao động có việc làm ổn định, 22% lao động không có
việc làm ổn định, 4% thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 50% lao động có đào tạo
được làm đúng nghề, 10% lao động làm việc trái với chuyên môn đào
tạo.Mặc dù phải làm việc với cường độ cao, thời gian lao động kéo dài,song
thu nhập bình quân của NLĐ trong các doanh nghiệp FDI thấp, không cao
hơn so với mặt bằng thu nhập của lao động trong các loại hình doanh nghiệp
khác. Phần lớn lao động có mức thu nhập thấp từ 800.000 - 1.000.000 đồng/
tháng
Ở các doanh nghiệp sản xuất giày da, dệt may, 80% người lao động có
thu nhập xấp xỉ 1 triệu đồng, trong đó lương cơ bản chỉ khoảng 800.000 đồng
và các khoản khác như phụ cấp chuyên cần, ăn ca... khoảng 200.000 đồng.
Thu nhập thấp nhất thuộc nhóm lao động phổ thông; thu nhập cao nhất
thuộc nhóm lao động kỹ thuật và nhân viên quản lý doanh nghiệp. Mức thu
nhập có thể chênh lệch đến 5-10 lần, khu vực phía Nam chênh lệch lớn hơn
khu vực phía Bắc .



Chất lượng

Số lượng người lao động tuy tăng và dư thừa, nhưng lại yếu về sức
khỏe, trình độ tay nghề hạn chế lao động khu vực thành thị ở Hà Nội thừa
khoảng 7,5% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 6,5% (đó là chưa kể hàng chục
van lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước). Tại khu vực
9


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

nông thôn còn dư thừa 26% quỹ thời gian lao động, tương đương khoảng 9
triệu người, nhưng 95,5% lao động không có tay nghề, nhưng theo dự báo
trong 10 năm tới, số lượng này sẽ tăng lên mức cao nhất là 1,8 triệu người, do
đó việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện tại
cũng như cho số thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động sẽ thách thức vô
cùng lớn.
Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua còn rất bất hợp
lý. Tại các nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình
quân một thầy chỉ có 0,95 thợ. .. Đây chính là tình trạng "thầy nhiều hơn
thợ". Trong khi số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật
giảm dần. Đến năm 2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao động kỹ thuật,
nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng 12.000 người/năm. Hiện nay
nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu như không được đáp ứng đầy đủ, trong
khi lao động phổ thông lại dư thừa quá nhiều.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều giữa các
ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ thuật tập trung ở các
cơ quan trung ương. Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, các thành phần

kinh tế tập thể , tư nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật. Ở khu vực
nông thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp (chỉ khoảng 4%).
Đặc biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật và trí thức trầm
trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở thành phố ngày càng nhiều.
Không những vậy, có những lao động sau khi được đào tạo đã không làm
đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao động giản đơn.

10


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

11


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

3.

Nguyên nhân nguồn nhân lực nước ta còn yếu

Cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Tính
đến hết năm 2007, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn
cao (29,6%), số lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn
còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa
số. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những nguyên nhân cơ bản
đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành
kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong
khi đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành

nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực
hiện đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán,
công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo...
Thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm
qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể
trong việc xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát
triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là đến năm
2020. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành,
vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu các
mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến hiện nay là vừa
“thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương.
Sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp dạy và học của chúng ta hiện nay
thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về
kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất
12


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

cập. Người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn
làm việc được thì người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại”
không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian đối với người
học...
Có thể thấy, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có các đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức;
chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng scấp; chưa được đào tạo
đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất.

- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất
nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực
này lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng
đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt
Nam.
Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại
học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào
tạo mới chỉ có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy
tính, công nghệ thông tin kém….

13


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

III.

Giải pháp phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở VN hiên nay
Trước hết, cần khẳng định rằng, để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, Việt Nam không có cách nào khác, ngoài việc khai thác hợp lý
và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực con người. Điều đó không chỉ
phù hợp với xu hướng chung của thế giới, mà còn hoàn toàn phù hợp với một
đất nước có nguồn nhân lực dồi dào như Việt Nam. Chỉ có như vậy, Việt Nam
mới khắc phục được sự khan hiếm ngày càng trầm trọng của nguồn lực tự
nhiên và sự thiếu hụt nguồn vốn.
1. Chính sách về kinh tế


Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
Tổng bí thư nhấn mạnh, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một
trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới.
Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động
theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
“Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”,
báo cáo nêu rõ.
Để thực hiện định hướng trên, một số nội dung được nhấn mạnh là phát
triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
14


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

nghiệp. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Trong
đó, phát triển vững chắc thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, vận hành
an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả, phát triển và kiểm soát có hiệu quả
thị trường chứng khoán. Đồng thời, phát triển lành mạnh thị trường bất động
sản, tập trung vào đổi mới, hoàn thiện các thể chế về quyền sử dụng đất…
Nội dung tiếp theo được nhấn mạnh tại báo cáo chính trị tại Đại hội là
đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững.

Theo định hướng đó, một số ưu tiên đã được xác định là phát triển các
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao,
công nghiệp cơ khí, chế biến, công nghiệp năng lượng, luyện kim, hoá chất,
công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông. Phát triển mạnh công
nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Trong phát triển nông nghiệp toàn diện, khuyến khích tập trung ruộng
đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Ưu tiên tiếp theo là phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch
vụ có giá trị gia tăng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như các dịch vụ
tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, viễn thông, vận tải, y tế, giáo dục,
khoa học, công nghệ. Hình thành một số trung tâm dịch vụ lớn ở các vùng,
trong đó có trung tâm có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng và phát triển hài
hoà giữa các vùng đô thị và nông thôn... cũng là những nội dung được nhấn
mạnh để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế
2. Chính sách về xã hội

- Xây dựng và hoàn thiện chính sách và công cụ khuyến khích thúc đẩy
phát triển nguồn nhân lực. Cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng đối
với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, Đảng và nhà nước cần xây
15


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

dựng và tổ chức thực hiện một số chính sách như chính sách việc làm, bảo
hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách huy động các nguồn lực trong xã hội cho
phát triển nguồn nhân lực; chính sách thu hút và đã ngộ nhân tài theo hướng
dựa trên năng lực thực sự và hiệu lực, hiệu quả công tác; chính sách phát

triển thị trường lao động và hệ thống công cụ, thông tin thị trường lao động.
- Đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập, góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ nhiệm vụ đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt
coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội.
- Quan tâm hơn việc phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt
chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào dân tộc
thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công
tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
- Hệ thống chính sách xã hội đã được thể chế hoá về mặt nhà nước tạo
hành lang pháp lý cho việc thực hiện cac mục tiêu phát triển xã hội trên
nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội. Việc thự hiện các chính sách xã hội
không dừng lại ở khâu xây dựng các văn bản pháp luật và pháp quy như:
Luật Lao động, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn, Luật Giáo dục... mà quan
trọng hơn là đưa các chính sách xã hội vào cuộc sống, nhất là thông qua việc
triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia và mở rộng xã hội hóa, hiện đại
hoá, xây dựng và phát triển hệ thống giá trị xã hội mới, trong đó kết hợp hài
hoà giữa yếu tố thời đại và phát huy bản sắc dân tộc Việt nam trong thực hiện
chính sách xã hội.
16


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

- Hoàn thiện hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, phát triển mạng lưới an sinh
xã hội nhằm đảm bảo cho mọi người dân đều được tham gia và được hưởng

thụ thành quả của công cuộc đổi mới.
- Đảng và Nhà nước hoạch định những chính sách xã hội phù hợp, đáp
ứng được đông đảo quần chúng nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo sự đồng thuận
trong xã hội. Hằng năm, nước ta đã giải quyết việc làm mới cho hơn một
triệu lao động. Trình độ lao động của người lao động từng bước được nâng
cao, đời sống của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
3. Chính sách về giáo dục – đào tạo

∗ Thứ 1: Đổi mới quản lý giáo dục

- Xây dựng và triển khai đề án đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục
nhằm đảm bảo mọi người đều được học hành, huy động ngày càng nhiều hơn
và sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực của nhà nước và xã hội để tăng quy mô
và nâng cao chất lượng giáo dục
∗ Thứ 2: Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

- Tiến tới thực hiện chế độ hợp đồng thay cho biên chế trong quá trình
tuyển dụng và sử dụng các giáo viên, giảng viên và các viên chức khác để tạo
sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ nhà giáo, năm
2009 bắt đầu thí điểm ở một số trường phổ thông và trường đại học, tới năm
2010 có 100% số giáo viên, giảng viên mới được tuyển dụng làm việc theo
chế độ hợp đồng thay cho biên chế.
- Có chính sách khuyến khích thực sự đối với đội ngũ nhà giáo thông qua
chế độ đãi ngộ xứng đáng. Năm 2009 bắt đầu thí điểm để tiến tới thực hiện
việc hiệu trưởng quyết định mức lương cho từng giáo viên, giảng viên dựa
trên kết quả công tác của cá nhân ở các cơ sở giáo dục.
- Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực
lượng cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành; xây dựng
17



Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới
giáo dục; có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ quản lý.
Khuyến khích các cơ sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà giáo, nhà khoa học
có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước quản lý và điều hành cơ sở
giáo dục.
∗ Thứ 3: Xã hội hóa giáo dục

- Khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập
để đảm bảo tỷ lệ sinhviên đại học và cao đẳng ngoài công lập là 40% năm
2020; nâng tỷ lệ học sinh học nghề (ngắn hạn và dài hạn) ngoài công lập lên
khoảng 60% vào năm 2020. Triển khai các chính sách cụ thể của Chính phủ
đã ban hành để hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục ngoài công lập cả ở đại học, dạy
nghề và phổ thông, trước hết về đất đai, thuế và vốn vay. Xác định rõ ràng, cụ
thể các tiêu chí thành lập cơ sở giáo dục, bảo đảm chất lượng, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân và các tổ chức kinh tế-xã hội tham gia vào công tác
thành lập trường theo quy hoạch phát triển của Nhà nước.
∗ Thứ 4: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục

- Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật
cho tất cả các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ
bản thực hiện việc đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn
hóa phòng học, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và trang thiết bị dạy
học ở các cấp học, đặc biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.
- Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện

tích đất cho các trường học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục,
trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung.
- Đẩy mạnh Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ
cho giáo viên, ưu tiên cho giáo dục vùng sâu, vùng cao, vùng khó khăn, bảo
đảm đủ phòng học cho mẫu giáo 5 tuổi, cho giáo dục tiểu học và trung học cơ
18


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

sở học 2 buổi ngày. Đến năm 2020 không còn phòng học tạm ở tất cả các cấp
học, 100% trường phổ thông được nối mạng Internet và có thư viện.
- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các
trường đại học trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số
phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.
- Xây dựng các khu ký túc xá cho sinh viên và nhà nội trú cho các trường
phổ thông có nội trú ở vùng dân tộc và nhà công vụ cho giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục.
∗ Thứ 5: Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu

tiên
- Hoàn thiện và thực hiện cơ chế học bổng, học phí, tín dụng cho học
sinh, sinh viên vùng miền núi và thuộc diện chính sách xã hội; cấp học bổng
cho các học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu.
Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở đào tạo và
nghiên cứu
- Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn. Đến
năm 2020, xây dựng 10 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong hệ thống
trường đại học trọng điểm.
∗ Thứ 6: Xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến


- Xây dựng một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp có chất lượng cao để đào
tạo nhân lực đạt chuẩn quốc tế cho một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất
nước.
Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế – xã hội nhằm tạo thêm cơ
hội có việc làm cho người lao động, để khai thác và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người cần sử dụng cơ hội việc làm như một công cụ quản lý,
một động lực quan trọng để phát huy tính tích cực của người lao động. Trước
hết, cần khẳng định rằng, bản thân việc làm nếu được đặt trong một cơ chế
19


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

tuyển dụng nhất định có thể trở thành một động lực quan trọng để thúc đẩy
tính tích cực hoạt động của con người. Cần có một số giải pháp nhằm khai
thác, phát huy tính tích cực của người lao động.
Trong mấy năm gần đây, nhiều đề tài, nhiều công trình nghiên cứu đã tập
trung làm sáng tỏ những động lực của sự phát triển xã hội, tức là những cái
mà nếu tác động vào đó có thể phát huy được tính tích cực của con người
nhằm tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ, tiến bộ trong đời sống kinh tế - xã
hội. Các động lực thường được tập trung nghiên cứu là: lợi ích, nhu cầu, dân
chủ, khoa học, môi trường tâm lý - xã hội, v.v…

Kết luận

4.

Sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia được dựa trên các nguồn
lực: nhân lực, vật lực và tài lực. Song chỉ có nguồn nhân lực mới là chủ thể

tạo nên sự phát triển, những nguồn lực khác chỉ có thể phát huy tác dụng
thông qua sự tác động của nguồn nhân lực. Do vậy trong bất cứ xã hội nào,
đất nước nào vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng đóng vai trò hết sức quan
trọng. Mặt khác, trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực
lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ
công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Do vậy nguồn nhân lực
20


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng đòi hỏi phải có đủ số lượng, cân đối
về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ
mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để chiến lược phát triển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi đến thắng lợi, chung ta phải lấy nguồn lực
con người Việt Nam - nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, nguồn
lực nội sinh – làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chung ta cần phải tạo ra
mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội, đảm
bảo công vụ và quyền lợi công dân, cải thiện và nâng cao vật chất lẫn tinh
thần; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích lâu dài với lợi ích trước mắt,
lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân; không ngừng nâng
cao trình độ học vấn, văn hóa cho họ trên cơ sở xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


21


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tài liệu tham khảo
Triết học Mác-LêNin - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Địa lý kinh tế Việt Nam
Kinh tế chính trị
Tạp trí những vấn đề kinh tế thế giới, số 1/1999
Tạp chí cộng sản, số 21,15
Triết học số 3(115)
Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Báo điện tử:
- />
22


Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Mục lục
trang
Lời mở đầu
I. Lý luận chung về nguồn nhân lực, công nghiệp hóa và hiện đại

1
2

hóa

1. Quan niệm về nguồn lực

2

2. Khái niệm về công nghiệp hóa hiện đại hóa

3

II. Thực trạng nguồn nhân lực ở VN hiện nay

1. Thực trạng chung
2. Thực trạng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nói riêng
3.

Nguyên nhân nguồn nhân lực nước ta còn yếu

III. Giải pháp phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công

3
3
7
10
12

nghiệp hóa hiện đại hóa ở VN hiên nay
1. Chính sách về kinh tế

12

2. Chính sách về xã hội


13

3. Chính sách về giáo dục – đào tạo

15

IV. Kết luận

18

Tài liệu tham khảo

20

23



×