Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

HỖ TRỢ của NHÀ nước NHẰM tạo VIỆC làm CHO NÔNG dân bị THU hồi đất ở TỈNH HƢNG yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 183 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THANH THỦY

HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƢỚC NHẰM TẠO VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THANH THỦY

HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƢỚC NHẰM TẠO VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT Ở TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 62 34 04 10

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Nguyễn Quốc Thái
2. PGS, TS Trịnh Thị Ái Hoa

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.

Tác giả

Trần Thị Thanh Thủy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL

: Ban quản lý

CNH
DNNVV

Công nghiệp hóa
: Doanh nghiệp nhỏ và vừa

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

HĐH

: Hiện đại hóa

KCHT


: Kết cấu hạ tầng

KCN

: Khu công nghiệp

KKT

: Khu kinh tế

KT – XH

: Kinh tế - xã hội

NH

: Ngân hàng

PCI

: Chỉ số nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TĐC

: Tái định cư


TW

: Trung ương

UBND

: Uỷ ban nhân dân

WB

: Ngân hàng thế giới

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động

XTĐT

: Xúc tiến đầu tư


MỤC LỤC
Trang
1
Mở đầu
9
Chƣơng 1 Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án
1.1 Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước

9
1.2 Các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước
16
1.3 Những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
23
Chƣơng 2 Cơ sở lý luận và thực tiễn về hỗ trợ của Nhà nƣớc nhằm 26
tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
2.1 Khái quát về hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho 26
nông dân bị thu hồi đất
2.2 Nội dung hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông 39
dân bị thu hồi đất
2.3 Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới hỗ trợ của Nhà nước nhằm 50
tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
2.4 Kinh nghiệm hỗ trợ của một số địa phương nhằm tạo việc làm 56
cho nông dân bị thu hồi đất và bài học rút ra cho tỉnh Hưng Yên
Chƣơng 3 Thực trạng hỗ trợ của Nhà nƣớc nhằm tạo việc làm cho 66
nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hƣng Yên
3.1 Khái quát về thu hồi đất và nhu cầu hỗ trợ tạo việc làm cho nông 66
dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên
3.2 Thực trạng hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân 75
bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2010 – 2015
3.3 Đánh giá chung về hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho 98
nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên
Quan điểm, phương hướng và giải pháp hỗ trợ của Nhà 122
Chƣơng 4
nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh
Hưng Yên
4.1 Dự báo bối cảnh mới có ảnh hưởng đến hỗ trợ của Nhà nước 122
nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên
4.2 Quan điểm và phương hướng hỗ trợ tạo việc làm cho nông 125

dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên
4.3 Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở 129
tỉnh Hưng Yên
152
Kết luận và kiến nghị
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài
luận án
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

154
155
166


DANH MỤC BẢNG

Trang
Bảng 3.1.

Cho vay vốn xuất khẩu lao động của Ngân hàng Chính sách

84

xã hội giai đoạn 2011-2015
Bảng 3.2.

Cho vay của các tổ chức tín dụng nhà nước đối với phát triển

88


sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hưng Yên
Bảng 3.3.

Cho vay vốn giải quyết việc làm của Ngân hàng Chính sách

89

xã hội giai đoạn 2011-2015
Bảng 3.4.

Hỗ trợ cho các hộ bị thu hồi đất giai đoạn 2010-2015

99

Bảng 3.5.

Các hình thức hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở

108

tỉnh Hưng Yên
Bảng 3.6.

Bảng giá đất tính bồi thường đất nông nghiệp trên địa bàn

114

Hưng Yên
Bảng 4.1.


Tổng diện tích đất đai tự nhiên phân theo mục đích sử dụng

122

Bảng 4.2.

Dự báo dân số và lao động tỉnh đến năm 2020

125

Bảng 4.3.

Khảo sát ý kiến của người dân bị thu hồi đất và cán bộ quản

127

lý nhà nước về nhu cầu hỗ trợ tạo việc làm


DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 2.1.

Ảnh hưởng của hỗ trợ bằng tiền đến lợi ích của người nhận

36

hỗ trợ
Hình 2.2.


Ảnh hưởng của hỗ trợ bằng hiện vật đến lợi ích của người

37

nhận hỗ trợ
Hình 2.3.

Hình 3.1.
Hình 3.2.

Ảnh hưởng của hỗ trợ bằng hiện vật đến lợi ích của người
nhận hỗ trợ trong trường hợp người được nhận hỗ trợ ưa
thích hiện vật được hỗ trợ
Tỷ lệ việc làm trên dân số của dân số từ 15 tuổi trở lên ở nông
thôn tỉnh Hưng Yên và các tỉnh đồng bằng sông Hồng (%)
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động từ 15 tuổi trở lên ở nông
thôn tỉnh Hưng Yên và các tỉnh đồng bằng sông Hồng (%)

38

67
68

Hình 3.3.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15 tuổi trở lên ở nông thôn
tỉnh Hưng Yên và các tỉnh đồng bằng sông Hồng (%)

69


Hình 3.4.

Diện tích đất bị thu hồi ở tỉnh Hưng Yên

70

Hình 3.5.

Diện tích đất bị thu hồi theo địa giới hành chính

71

Hình 3.6.

Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi theo địa giới hành
chính

71

Hình 3.7.

81

Hình 3.8.

Tình hình học nghề của lao động bị thu hồi đất ở Hưng Yên
giai đoạn 2010 – 2014
Tỷ lệ lao động bị thu hồi đất tham gia học nghề


Hình 3.9.

Lao động xuất khẩu ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011 – 2015

84

Hình 3.10.

Kỳ hạn cho vay của các TCTD Nhà nước đối với nông
nghiệp, nông thôn
Giá trị của các khoản vay không cần tài sản bảo đảm phân
theo quy mô năm 2011 và 2012

111

Hình 3.11.

81

112


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa, đô thị hoá là xu thế phát triển tất yếu của mọi quốc gia. Quá
trình này thường gắn với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ sản xuất nông
nghiệp sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ và dẫn đến tình trạng người bị thu hồi đất
mất việc làm trong nông nghiệp. Số lao động bị mất việc làm này nếu không tìm

được việc làm mới để tạo thu nhập, đảm bảo đời sống sẽ dễ phát sinh nhiều nguy cơ
mất ổn định xã hội tại địa phương. Chính vì thế, hỗ trợ tạo việc làm cho người nông
dân bị thu hồi đất là vô cùng quan trọng, liên quan trực tiếp tới sự ổn định xã hội của
khu vực bị thu hồi đất.
Cùng chung xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất với các địa phương
khác trong cả nước, đất nông nghiệp ở Hưng Yên ngày càng bị thu hẹp dần và sẽ còn
bị thu hẹp hơn nữa bởi sự phát triển của các khu công nghiệp (KCN), khu đô thị
trong tương lai. Những năm qua, có tới 67% nông dân bị thu hồi đất ở Hưng Yên vẫn
giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp nhưng trên diện tích đất nhỏ hẹp hơn, 13%
chuyển sang nghề mới và khoảng 20% không có việc làm hoặc có việc làm nhưng
không ổn định. Thu nhập của 37% số hộ nông dân bị thu hồi đất bị sụt giảm so
với trước đây, và chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước [53]. Nguy cơ thất
nghiệp, nghèo đói đe dọa người nông dân bị thu hồi đất sản xuất, đồng thời kéo theo
nhiều hệ lụy khác như tệ nạn xã hội, mất ổn định trật tự ở nông thôn.
Quá trình thu hẹp số lượng lớn đất sản xuất nông nghiệp ở Hưng Yên đặt ra
thách thức lớn đối với Tỉnh trong việc hỗ trợ, tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất. Tuy vậy, những kết quả đạt được còn khá khiêm tốn. Điều đó thể hiện ở hiệu quả
của hoạt động hỗ trợ người nông dân bị thu hồi đất giải quyết việc làm thấp. Chính
sách việc làm của Tỉnh chỉ quan tâm hỗ trợ học nghề, chưa chú trọng đến giới thiệu
tìm việc làm cho lao động sau học nghề. Hưng Yên thiếu các chính sách hỗ trợ tạo
việc làm đặc thù cho đối tượng là nông dân bị thu hồi đất. Các chính sách, các
chương trình hỗ trợ tạo việc làm của Hưng Yên chủ yếu dựa vào các chính sách,


2

chương trình chung của Chính phủ; và triển khai, thực hiện các chương trình đó. Nói
cách khác, các ưu đãi của tỉnh trong vấn đề hỗ trợ tạo việc làm chỉ nằm trong khuôn
khổ của cả nước. Trong khi đó, với đặc thù là tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa (CNH),
đô thị hoá nhanh, lượng lao động nông nghiệp bị mất việc làm sau thu hồi đất lớn, do

đó, Hưng Yên cần có những chính sách hỗ trợ tạo việc làm riêng cho các đối tượng
này, với các biện pháp, giải pháp đặc thù mang tính hiệu quả hơn. Và điều đó đang là
một mảng trống lớn trong hoạch định chính sách ở Hưng Yên.
Hỗ trợ nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình CNH,
hiện đại hóa (HĐH) sẽ vẫn là vấn đề bức xúc của Hưng Yên trong thời gian tới. Vấn
đề này nếu không được giải quyết sẽ tạo ra những hệ lụy tiêu cực cho phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương, không chỉ tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội mà còn tạo
ra những vấn đề về an sinh xã hội ở nông thôn, tạo ra khoảng cách giàu nghèo, sự bất
bình đẳng giữa khu vực phát triển công nghiệp, dịch vụ với khu vực nông thôn nơi có
rất nhiều người thiếu hoặc không có việc làm.
Với những lý do trên, tác giả cho rằng vấn đề hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo
việc làm cho lao động bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên cần được nghiên cứu một cách
có hệ thống. Trên cơ sở đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cần nghiên cứu
ảnh hưởng của nó đối với người nông dân bị thu hồi đất; hiệu quả các biện pháp hỗ
trợ tạo việc làm đối với nông dân sau thu hồi đất hiện tại; quan điểm xây dựng các
biện pháp hỗ trợ tạo việc làm để từ đó có thể tìm ra những giải pháp hỗ trợ tạo việc
làm thiết thực, hiệu quả hơn nữa. Do đó, đề tài “Hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên” được tác giả chọn làm chủ đề
nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong giai đoạn
hiện nay, luận án đề xuất các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016 - 2020.


3

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài tập
trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
+ Làm rõ những vấn đề lí luận về hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất ở địa bàn cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất ở một số địa phương trong nước, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm cho tỉnh Hưng Yên.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2010 - 2015.
+ Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm
tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016 - 2020.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hỗ trợ tạo việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở tỉnh Hưng Yên từ phía chính quyền
địa phương cấp tỉnh trong khuôn khổ cơ chế, chính sách chung của Nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn khảo sát được giới hạn ở tỉnh Hưng Yên.
+ Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng được thực hiện cho giai đoạn 2010 2015. Các giải pháp được đề xuất cho giai đoạn 2016 - 2020.
Đối tượng hỗ trợ là người nông dân với nghề nghiệp chính là sản xuất nông
nghiệp. Loại đất bị thu hồi là đất nông nghiệp, thu hồi phục vụ mục đích phát triển
sản xuất, kinh doanh và mục đích công ích.
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận nghiên cứu:
Hỗ trợ của Nhà nước nhằm giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất là
một biện pháp bổ trợ cho quá trình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho các mục đích
phát triển kinh tế, xã hội khác. Do đó, hỗ trợ của Nhà nước có mối quan hệ nhất định
tới vấn đề giải phóng mặt bằng (GPMB), bồi thường, đền bù. Những vấn đề này cũng


4


vì thế có những ảnh hưởng, tác động nhất định tới hỗ trợ tạo việc làm. Tuy nhiên, luận
án này nghiên cứu vấn đề hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất như một nội dung độc lập. Mối quan hệ giữa nội dung hỗ trợ và GPMB, đền
bù, bồi thường chỉ được đề cập đến trong trường hợp thật sự cần thiết.
Hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất không chỉ
bao gồm các biện pháp hỗ trợ tác động trực tiếp đến nông dân bị thu hồi đất mà còn
bao gồm các biện pháp hỗ trợ tới các bên có liên quan trên thị trường lao động như
bên cầu lao động, các trung gian trên thị trường. Đồng thời, hỗ trợ của Nhà nước
dành trực tiếp cho nông dân bị thu hồi đất chỉ hiệu quả khi gắn kết với môi trường
phát triển kinh tế của địa phương. Chính vì thế, hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất trong luận án được tiếp cận rộng, bao gồm cả hỗ trợ
trực tiếp nông dân và các biện pháp khác có tác động đến cơ hội tìm việc làm của
nông dân bị thu hồi đất.
Khung phân tích: Hỗ trợ của Nhà nƣớc nhằm tạo việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất

Các nhân tố ảnh
hƣởng đến hỗ trợ
của Nhà nƣớc
- Chính sách kinh tế
của Trung ương
- Ý thức, năng lực
của người nông dân
bị thu hồi đất
- Tiềm lực kinh tế, vị
trí địa lý và lợi thế
của địa phương
- Năng lực, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ
quản lý nhà nước ở

địa phương
- Thị trường lao động
trong nước và quốc
tế

Nguyên tắc hỗ
trợ

Nội dung hỗ trợ
- Hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với nông dân bị
thu hồi đất
+ Hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân bị thu
hồi đất
+ Ưu tiên nông dân bị thu hồi đất tham gia
vào các chương trình xuất khẩu lao động
+ Hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh
- Hỗ trợ cho bên cầu trên thị trƣờng lao
động
+ Ưu đãi đối với các đơn vị kinh tế sử dụng
lao động là nông dân bị thu hồi đất
+ Ban hành quy định yêu cầu các đơn vị kinh
tế sử dụng đất thu hồi phải tuyển dụng lao
động là nông dân bị thu hồi đất
+ Tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa
bàn và thực hiện các hoạt động XTĐT
- Hỗ trợ cho trung gian trên thị trƣờng lao
động
Hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề
Hỗ trợ cho các tổ chức môi giới việc làm


Mục tiêu hỗ
trợ

Giải quyết việc
làm cho nông
dân bị thu hồi
đất

Điều kiện hỗ
trợ thành công


5

Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được sử dụng bao gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án phân tích và hệ thống hoá, khái
quát hóa những vấn đề chung nhất về hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất;
những căn cứ lý thuyết và thực tiễn để tạo ra những chính sách, những biện pháp có
khả năng hỗ trợ tạo việc làm hiệu quả cho nông dân bị thu hồi đất.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Luận án phân tích, so sánh, đối chiếu các số
liệu thống kê để đề xuất những phương hướng và giải pháp phù hợp nâng cao hiệu
quả hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên gia: Trong quá trình làm
luận án, tác giả đã xây dựng bộ câu hỏi và thiết kế phiếu điều tra để lấy ý kiến của
nông dân bị thu hồi đất về các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên và tham khảo ý kiến các chuyên gia trong
lĩnh vực nghiên cứu, các cán bộ tỉnh và huyện cũng như cán bộ quản lý một số ngành
có liên quan ở tỉnh Hưng Yên nhằm tìm ra những bất cập, nguyên nhân cũng như

những giải pháp phù hợp cho việc giải quyết vấn đề hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất. Luận án thiết kế 2 mẫu phiếu dành cho hai đối tượng là người nông
dân bị thu hồi đất và cán bộ ở các địa phương. Số người được lấy ý kiến là 246
người. Trong đó, 70 phiếu cho cán bộ ở 70 xã/161 xã, phường, thị trấn của tỉnh Hưng
Yên (mỗi huyện 5 xã, riêng huyện Khoái Châu 25 xã), trong đó có 10 phiếu xin ý
kiến của chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND), 10 phiếu xin ý kiến của phó chủ tịch
UBND, 30 phiếu xin ý kiến của cán bộ địa chính, 10 phiếu xin ý kiến của cán bộ tài
chính, 10 phiếu xin ý kiến của cán bộ lao động thương binh và xã hội. Phiếu cho cán
bộ gồm 13 câu hỏi.
176 phiếu được phát cho nông dân có đất bị thu hồi ở 70 xã của 10/10 huyện,
thành phố (mỗi huyện lấy ý kiến của 15 người, riêng huyện Yên Mỹ lấy ý kiến của
41 người). Phiếu hỏi gồm 9 câu hỏi.


6

Các xã lựa chọn để khảo sát là các xã thuộc địa bàn các huyện có diện tích đất
bị thu hồi lớn nhất. Các hộ nông dân được lựa chọn là các hộ mất trên 30% đất nông
nghiệp, nằm trong độ tuổi từ 18 đến 40 và từ 41 đến 60. Vì đối tượng khảo sát là hộ
nông dân nên số người được hỏi nằm trong độ tuổi từ 18 tuổi trở lên. Phương pháp
thu thập số liệu là phát phiếu điều tra. Nội dung điều tra được thể hiện ở mẫu phiếu
đính kèm trong Luận án. Luận án sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
+ Luận án phân tích hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị
thu hồi đất trên 3 khía cạnh cơ bản là hỗ trợ trực tiếp cho người nông dân bị thu hồi
đất; hỗ trợ cho bên cầu trên thị trường lao động để tăng khả năng tiếp nhận, hấp thụ
lượng lao động bị đẩy ra từ quá trình thu hồi đất; hỗ trợ cho các trung gian trên thị
trường lao động để các trung gian này làm cầu nối, xúc tác, thúc đẩy thị trường lao
động hoạt động một cách hiệu quả nhất, tạo được nhiều việc làm nhất.
+ Luận án phân tích và làm sáng tỏ các nguyên tắc hỗ trợ của Nhà nước nhằm

tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. Hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất phải phù hợp với khả năng, năng lực của người bị thu hồi
đất. Hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất cần phù hợp
với yêu cầu của thị trường lao động. Hỗ trợ của nhà nước nhằm tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất có tính chất bổ sung, do đó hỗ trợ chỉ có tính thời hạn. Hỗ trợ
của Nhà nước liên quan đến sử dụng nguồn lực của Nhà nước, ưu đãi của Nhà nước
cũng như việc tuân thủ các quy định của Nhà nước.
Các nguyên tắc này được thực hiện vừa đảm bảo hỗ trợ của Nhà nước có hiệu
quả trên nền tảng tôn trọng các yêu cầu, quy luật vận hành của thị trường lao động,
vừa đảm bảo hỗ trợ tốt nhất cho người lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất tìm
được việc làm bền vững.
+ Luận án phân tích các phương thức hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất là hỗ trợ tài chính trực tiếp và hỗ trợ phi tài chính. Luận
án khẳng định mỗi phương thức hỗ trợ có ưu điểm, nhược điểm riêng, có thể sử dụng


7

linh hoạt cho từng đối tượng hỗ trợ. Đối với đối tượng nông dân bị thu hồi đất ở
ngoài độ tuổi lao động, Nhà nước nên hỗ trợ bằng tiền. Đối với người trong độ tuổi
lao động bị thu hồi đất cần phân loại cụ thể. Người có khả năng chuyển đổi nghề
nghiệp, có khả năng chủ động trong tạo việc làm cho bản thân thì Nhà nước có thể
hỗ trợ bằng tiền. Những người không có trình độ, không có tay nghề Nhà nước cần
hỗ trợ thông qua các chương trình đào tạo, trực tiếp hỗ trợ kết nối họ với thị trường
lao động trong và ngoài nước.
- Từ việc phân tích, đánh giá một cách có hệ thống thực trạng hỗ trợ của Nhà
nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên, Luận án chỉ ra
rằng hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân bị thu hồi đất thực hiện chưa hiệu quả. Tỉnh
Hưng Yên chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này, các biện pháp hỗ trợ được thực thi
chưa phù hợp, chưa hiệu quả. Các cơ sở quan trọng để hỗ trợ như thống kê, phân loại

đối tượng nông dân bị thu hồi đất theo diện tích đất bị thu hồi, độ tuổi, giới tính, khả
năng tham gia thị trường lao động, khả năng tự tạo việc làm… chưa được thực hiện
bài bản, chính xác hơn là chưa được thực hiện. Người nông dân bị thu hồi đất phải
chủ động tìm việc làm cho bản thân. Hỗ trợ của Tỉnh chưa sát đối tượng, mức hỗ trợ
thấp nên tác động của các biện pháp hỗ trợ tới tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất còn rất hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hỗ trợ của Nhà nước
nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2016 –
2020 như xây dựng kế hoạch tạo việc làm cho nông dân trước khi thu hồi đất, chú
trọng công tác thống kê, phân loại đối tượng hỗ trợ, phối hợp, lồng ghép các chương
trình liên quan đến giải quyết việc làm để tạo nguồn lực đủ lớn, nâng cao hiệu quả hỗ
trợ, nâng cao nhận thức, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong hỗ trợ
tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. Để hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất, cần chú ý các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật hơn là hỗ trợ bằng tiền mặt. Đồng
thời, tăng cường các biện pháp giám sát để đảm bảo hỗ trợ đến được với người nông
dân bị thu hồi đất, đảm bảo đúng đối tượng.


8

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần bổ sung lý luận về các biện pháp hỗ
trợ của nhà nước nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở địa phương cấp tỉnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà lãnh đạo, quản lý, hoạch định và thực thi chính sách việc làm nói chung và
chính sách hỗ trợ tạo việc làm nói riêng cho nông dân bị thu hồi đất và hoạch định,
thực thi những chính sách có liên quan.
- Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần vào việc hoàn thiện chính sách hỗ

trợ của tỉnh Hưng Yên nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trên địa bàn.
- Luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu khoa học có
liên quan đến giải quyết việc làm cho lao động, giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.


9

Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC TÁC GIẢ TRONG NƢỚC

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất
Các công trình nghiên cứu về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất
khá đa dạng. Trong đó, các công trình chủ yếu nghiên cứu thực trạng cũng như biện
pháp giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất ở các địa phương, tập trung vào
các tỉnh, thành phố có tiến trình CNH, đô thị hóa diễn ra nhanh. Tiêu biểu cho hướng
nghiên cứu này là các công trình sau đây:
- Đề tài khoa học cấp Bộ của tác giả Trần Thị Minh Ngọc về Giải quyết việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội [39]. Công trình này đã tổng
hợp quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất cũng như tính tất yếu phải giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong
quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất ở một số nước trong khu vực và một số địa phương ở
Việt Nam, cùng với phân tích thực trạng thu hồi đất và giải quyết việc làm cho người

dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để giải
quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất. Các giải pháp tập trung phân tích là hỗ
trợ dạy nghề cho lao động bị thu hồi đất, xuất khẩu lao động (XKLĐ), thu hút lao
động vào các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp, hỗ trợ chuyển đổi nghề,
khuyến khích phát triển nghề truyền thống…
- Luận án tiến sĩ kinh tế của NCS Nguyễn Văn Nhường: "Chính sách an sinh
xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công nghiệp
(nghiên cứu tại Bắc Ninh)” [42]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đặt
chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất là một trọng tâm
nghiên cứu chính do đó đã đi sâu vào phân tích những nội dung lý luận về chính sách


10

an sinh xã hội đối với nông dân bị thu hồi đất. Thông qua đánh giá thực trạng đời
sống người dân bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các KCN tại Bắc Ninh và
thực trạng các chính sách an sinh xã hội đang có tác động tới đối tượng này, tác giả
chỉ ra rằng, các chính sách an sinh chưa tác động tích cực, hiệu quả tới cải thiện đời
sống, thu nhập, việc làm của người nông dân bị thu hồi đất. Do đó, tác giả đã đề xuất
các giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội theo hướng hỗ trợ tạo
việc làm, thu nhập, ổn định đời sống cho nông dân sau khi bị thu hồi đất cho mở
rộng, phát triển các KCN.
- Nguyễn Hữu Dũng, Phát triển KCN với vấn đề lao động việc làm [15]. Tác
giả cho rằng, việc phát triển các KCN là một kênh giải quyết việc làm một cách hữu
hiệu nhất đối với lao động nông thôn, đặc biệt là lao động ở các vùng chuyển đổi
mục đích sử dụng đất. Bài viết cũng cho rằng, để lao động nông thôn, trong đó có
lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất có thể tiếp cận hoặc làm việc
được ở các KCN cần phải có hàng loạt các chính sách tác động, nhất là tạo điều
kiện để phát triển thị trường lao động. Muốn vậy, vấn đề đào tạo nghề cho lao động
nông thôn cần được đặt lên hàng đầu. Nếu không chuyển đổi được nghề thì lao

động ở các vùng bị mất đất trong quá trình CNH, HĐH sẽ luôn đứng ngoài quá
trình ấy. Và do đó, đời sống và thu nhập của người lao động nông thôn sẽ không
thể cải thiện.
- Nguyễn Tiệp, Một số giải pháp tạo việc làm gắn với giải quyết các vấn đề xã
hội tại Hà Nội [66]. Theo tác giả của công trình nghiên cứu này, có khá nhiều khó
khăn trong giải quyết việc làm của người dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
do quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất sản xuất
công nghiệp đã đào thải một lượng lớn lao động đang hoạt động trong nông nghiệp
trong khi sản xuất công nghiệp không hấp thụ hết số lao động này một cách tương
ứng. Nguyên nhân chủ yếu là do việc thu hồi đất nông nghiệp chưa có sự gắn kết với
quy hoạch, kế hoạch, chính sách và biện pháp chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới,
tăng thu nhập cho người lao động; việc tổ chức triển khai còn thiếu công khai, dân
chủ, minh bạch, thiếu thông tin, tuyên truyền để người lao động chủ động học nghề,


11

chuyển nghề và tự tạo việc làm. Để khắc phục tình trạng này cần hình thành một hệ
thống các giải pháp đồng bộ, hỗ trợ tối đa người lạo động tìm việc làm, đảm bảo đời
sống ổn định.
- Nguyễn Tiệp, Xây dựng một số mô hình tạo việc làm đối với lao động bị mất
việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, Trường Đại học Lao động
Xã hội cũng là một báo cáo đưa ra nhiều vấn đề nổi cộm trong quá trình chuyển đổi
mục đích sử dụng đất ở nước ta hiện nay [67]. Cũng như các báo cáo khác, thông qua
quá trình thống kê, phân tích số liệu từ các cuộc điều tra, tác giả đã chỉ ra những khó
khăn trong quá trình giải quyết vấn đề việc làm cho lao động tại các hộ gia đình bị
thu hồi đất nông nghiệp như: chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do trình độ thấp,
ngoài độ tuổi tuyển dụng của doanh nghiệp, sự ỷ lại của người lao động vào chính
sách hỗ trợ của Nhà nước; các hỗ trợ của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả… Ngoài
việc phân tích những khó khăn của người dân tại các vùng chuyển đổi mục đích sử

dụng đất, tác giả cũng đưa ra và phân tích một số giải pháp tạo việc làm hiệu quả ở
một số địa phương hiện nay điển hình như đào tạo nghề, thu hút lao động làm việc tại
các KCN; triển khai các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), mở rộng
mạng lưới đào tạo nghề tại địa phương vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất gắn
với giải quyết việc làm cho người lao động.
- Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Đánh giá thực trạng lao
động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và hiệu quả của các chính
sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất, Hà Nội [27]. Báo cáo dựa trên dữ liệu phân tích
thông qua 3 địa bàn được lựa chọn nghiên cứu là Hải Dương, Nam Định và Nghệ
An. Báo cáo đi sâu phân tích các vấn đề về đời sống, việc làm cũng như hiệu quả của
các chính sách hỗ trợ dành cho nhóm nông dân bị thu hồi đất. Theo đó, báo cáo chỉ
ra những khó khăn của người nông dân bị thu hồi đất trong việc tìm kiếm, chuyển
đổi việc làm. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho nhóm nông dân bị thu hồi đất
chưa hiệu quả đã dẫn tới thực trạng là việc làm họ dịch chuyển sang các công việc
bấp bênh từ hoạt động làm thuê. Tỷ lệ người dân được hưởng lợi từ hoạt động sản
xuất của các doanh nghiệp hay các dịch vụ liền kề doanh nghiệp vì thế chỉ chiếm tỷ


12

lệ khá thấp.
Nghiên cứu của Lê Quang Tôn về “Phục hồi thu nhập cho người dân sau tai
định cư (TĐC) ở khu kinh tế (KKT) Dung Quất ” chỉ ra rằng cần triển khai nhanh
chương trình chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân ở khu vực này sau khi họ bị thu
hồi đất. Đặc biệt là tạo việc làm cho người ở trong độ tuổi lao động [79]. Theo tác
giả, trong chính sách phục hồi thu nhập, tạo việc làm là hoạt động trung tâm và có
thể được thực hiện theo ba hướng: Tạo các việc làm trong lĩnh vực nông, ngư nghiệp;
hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới trong các lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ; hỗ trợ cuộc sống của người dân trong thời gian họ chưa có việc làm.
Tuy vậy, chính sách hỗ trợ hậu TĐC KKT Dung Quất chưa được ban hành

cụ thể, mặc dù đây có thể nói là khâu quan trọng nhất trong công tác hỗ trợ, đền bù
và TĐC. Một số công việc chính trong công tác hậu TĐC bao gồm hỗ trợ người
dân tái phục hồi sản xuất ở khu vực TĐC mới, hỗ trợ và chuyển đổi nghề nghiệp
cho người dân bị mất đất, đặc biệt là những người trong độ tuổi lao động thực hiện
chưa thật sự hiệu quả [94]. Vì vậy, cần tiến hành các biện pháp tư vấn và hỗ trợ
TĐC trước GPMB từ sớm, đồng thời phải gia tăng sự tham gia của người dân để
biết nhu cầu thực sự của họ đối với việc chuyển đổi nghề nghiệp. Theo những khảo
sát quan sát của tác giả, và tư vấn của chuyên gia ở ban quản lý (BQL) KKT Dung
Quất, hiện nay, đối với đất được cấp cho TĐC của người dân (khoảng 250 – 500
m2), một phần được người dân xây dựng nhà để sống, một phần trồng rau ở một
diện tích nhỏ còn lại (100 – 300 m2) với năng suất rất thấp, chỉ đủ để gia đình
dùng. Vì vậy, có thể ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp giúp người dân (đối với
những người đã lớn, không có khả năng chuyên đổi nghề nghiệp hoặc không vào
làm việc ở các công ty, nhà máy trong KCN) có thể nâng cao năng suất trồng trọt
và tăng thêm thu nhập cho gia đình. Các sản phẩm có lợi thế là nấm mèo và nấm
rơm. Đồng thời có thể phát triển hệ thống trồng thủy canh và công nghệ trồng rau
sạch đối với nhiều loại rau vốn phù hợp với điều kiện khí hậu đã được trồng ở khu
vực này như rau muống, xà lách, dưa leo... Muốn triển khai thành công mô hình
này, cần có một doanh nghiệp đi đầu phát triển thị trường và vùng sản xuất ở các


13

tỉnh miền Trung, từ đó mới có cơ sở chuyển giao công nghệ và hỗ trợ đầu ra cho
các nông sản sạch cần phát triển. Đối với các khu TĐC nằm gần khu dân cư và trục
đường chính như khu TĐC Bình Trị Đông, Bình Thuận… có thể hỗ trợ người dân
chuyển đổi cơ cấu việc làm như chuyển sang hoạt động dịch vụ thương mại. Bên
cạnh đó, cần có cơ chế gia tăng sự tham gia và hỗ trợ của doanh nghiệp đối với việc
phục hồi thu nhập của người dân bị di dời thông qua hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp
và ưu tiên việc làm cho những người bị thu hồi đất nông nghiệp. Các doanh nghiệp

phải cam kết với người dân và chính quyền tạo được công ăn việc làm cho những
người dân bị di dời. Để tiện cho doanh nghiệp có thể tuyển dụng, phần kinh phí hỗ
trợ đối với chuyển đổi nghề nghiệp có thể được cung cấp cho doanh nghiệp hoặc tổ
chức đứng ra thực hiện hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề cho các đối tượng có nhu
cầu, Nhà nước sẽ kiểm soát chất lượng đào tạo đầu ra [79].
Như vậy, những công trình này đã phân tích ảnh hưởng của quá trình CNH, đô
thị hóa tới việc làm và thu nhập của người nông dân; bước đầu đề xuất một số giải
pháp cho vấn đề này. Những công trình nghiên cứu trên thể hiện quan điểm của các
nhà nghiên cứu, nhà khoa học và các cơ quan quản lý Nhà nước về biến động đất đai,
xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động, xu hướng phát triển đô thị, công nghiệp trong
thời gian qua. Các nghiên cứu đi sâu phân tích về tác động của quá trình CNH, đô thị
hóa tới mức sống, việc làm, thu nhập, lao động của nông dân ở một số vùng, địa
phương. Nhìn chung, các công trình trên đã phần nào phản ánh được tác động của
quá trình CNH, đô thị hóa tới việc làm của nông dân bị thu hồi đất, đề xuất các giải
pháp để tạo việc làm cho đối tượng này. Vai trò của Nhà nước trong tạo việc làm, hỗ
trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất cũng được đề cập, được nghiên cứu, tuy
nhiên đây không phải là nội dung trọng tâm.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải quyết việc làm cho lao
động bị thu hồi đất ở Hƣng Yên
Hưng Yên là tỉnh trung tâm của vùng Đồng bằng sông Hồng, là một trong các
địa phương có quá trình chuyển dịch mục đích sử dụng đất từ sản xuất nông nghiệp
sang các hoạt động sản xuất công nghiệp, phát triển đô thị khá mạnh mẽ. Chính vì


14

thế vấn đề việc làm, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở Hưng Yên
cũng đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
- Trần Văn Chử (chủ nhiệm đề tài), Vấn đề việc làm và đời sống nông dân bị
thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho phát triển các KCN ở tỉnh Hưng Yên [10].

Thông qua đánh giá thực trạng nông dân không có việc làm khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại Hưng Yên, tác giả đã đề xuất các giải pháp tạo việc làm và ổn định
đời sống lâu dài cho nông dân. Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh vào hai giải pháp.
Một là, tạo điều kiện cho nông dân bị thu hồi đất cho phát triển các KCN gắn bó lâu
dài với hoạt động, phát triển của doanh nghiệp thông qua quy hoạch các khu dịch vụ
xung quanh các KCN và hình thức bán cổ phiếu ưu đãi của doanh nghiệp cho nông
dân. Hai là, đẩy mạnh đào tạo nghề: thông qua xã hội hoá công tác đào tạo nghề, đặc
biệt là huy động nguồn lực của các doanh nghiệp, các Ban quản lý KCN vào công tác
đào tạo nghề cho địa phương.
Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà, Hồ Thị Lam Trà, Ảnh hưởng của
thu hồi đất đến đời sống, việc làm của nông dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
[22]. Nghiên cứu tập trung phân tích tình hình thu hồi đất để xây dựng các khu, cụm
công nghiệp và ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, việc làm và thu nhập của các hộ bị thu
hồi đất, những thách thức của việc thu hồi đất trong quá trình phát triển. Kết quả
nghiên cứu cho thấy từ năm 2000 - 2010, huyện Văn Lâm đã thu hồi đất nông nghiệp
của 14.260 lượt hộ; tổng diện tích đã thu hồi là 928,52 ha, trong đó đất nông nghiệp
là 736,50 ha. Việc mất đất sản xuất nông nghiệp đã làm một bộ phận nông dân thiếu
việc làm, nảy sinh một số tác động xã hội khác, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống
của họ. Cụ thể, nhóm hộ có tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp nhiều (>70%) có tỷ lệ
chuyển đổi nghề nghiệp cao (94,17%), do vậy thu nhập, đời sống văn hóa tinh thần
của họ cũng tăng lên so với trước kia. Kết quả điều tra thực tế vẫn còn một số hộ có
thu nhập không thay đổi, một số hộ có thu nhập bị giảm đi so với trước kia, chủ yếu
tập trung vào các hộ có tỷ lệ bị thu hồi đất ít (< 30%), nguyên nhân chính là do tâm


15

lý của người dân ngại thay đổi nghề nghiệp nên cố bám trụ trên diện tích đất nông
nghiệp còn lại.

Nghiên cứu “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp cho công nghiệp
hóa đến sinh kế của các hộ nông dân ở tỉnh Hưng Yên” do các tác giả Nguyễn Thị
Diễn, Vũ Đình Tôn, Philippe Lebailly thực hiện đã phân tích các tác động của việc
thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu, cụm công nghiệp đến sinh kế của các
hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên [13]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc thu
hồi đất đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm, an toàn lương thực của các hộ nông dân
cũng như của địa phương đồng thời đẩy nhanh quá trình phân tầng xã hội nông thôn.
Sau khi thu hồi đất cho CNH, chỉ có 16,4% lao động trong các hộ điều tra tìm được
việc làm trong các nhà máy. Thách thức lớn nhất của việc thu hồi đất nông nghiệp để
CNH là việc làm của nông dân sau khi chuyển giao đất cho các cơ sở sản xuất công
nghiệp do đất nông nghiệp của các hộ còn lại rất ít. Trong 3 thôn điều tra, diện tích
đất nông nghiệp giảm trên 60%. Tính trung bình một hộ chỉ còn dưới 800 m2 đất
nông nghiệp. Do đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các nhà máy, lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp của các hộ điều tra so với trước khi thu hồi đất có giảm đi.
Thông thường mỗi hộ chỉ còn từ 1 đến 2 lao động làm nghề nông, trồng cấy trên diện
tích đất còn lại hoặc chăn nuôi theo qui mô nhỏ. Một số hộ thuê đất của các hộ khác
trong thôn hoặc các thôn trong xã hoặc các xã lân cận để làm nông nghiệp. Một phần
lớn lao động ở các hộ phải tìm việc làm trong lĩnh vực khác mà chủ yếu là làm thuê
dưới nhiều hình thức như làm thuê trong nông nghiệp, làm việc gia đình, phụ hồ, làm
thuê trong các xưởng nhựa, bán hàng thuê… Các loại hình dịch vụ khác như buôn
bán nhỏ, bán hàng rong, làm nghề phụ như chế biến nông sản, nghề may, nghề mộc,
nghề nề, các dịch vụ cho công nhân các nhà máy công nghiệp cũng phát triển trong
các xã điều tra. Nhìn chung, những nông dân sau khi bị thu hồi đất làm bất cứ thứ
việc gì có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Làm việc trong các xí nghiệp công nghiệp
ở địa phương là mong muốn của rất nhiều hộ nông dân. Mặc dù các doanh nghiệp
đầu tư vào các địa phương đều cam kết tuyển dụng lao động địa phương, trong thực
tế số lượng lao động địa phương có việc làm trong các doanh nghiệp là rất thấp.


16


Trong số 135 hộ điều tra với số lượng lao động là 452 người thì chỉ có 74 lao động
(chiếm 16,2% tổng lao động) đang làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn.
Yêu cầu cao về trình độ, đặc biệt là học vấn, điều kiện và kỷ luật lao động chặt chẽ là
những nguyên nhân chủ yếu của việc rất ít lao động trong các hộ nông dân vùng
CNH tìm được việc làm trong các nhà máy. Một số lao động được nhận vào làm
trong các doanh nghiệp nhưng do sức khỏe kém, không chấp hành tốt kỷ luật lao
động hoặc do doanh nghiệp bị phá sản hay chấm dứt hợp đồng lao động phải quay
trở lại với nghề nông hoặc tìm việc làm thuê.
Như vậy, các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề việc làm, hỗ trợ tạo
việc làm, chính sách việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình CNH, đô
thị hóa đa dạng về số lượng, phong phú về nội dung. Mặc dù không thể thống kê hết
những chủ đề nghiên cứu liên quan nhưng có thể thấy, những hướng nghiên cứu
thường chủ yếu tiếp cận từ khía cạnh tác động của thu hồi đất tới người nông dân bị
thu hồi đất, thực trạng việc làm của nông dân sau khi bị thu hồi đất và khuyến nghị
chính sách phù hợp trong đó có hỗ trợ tạo việc làm và hỗ trợ tạo việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất. Nghĩa là hỗ trợ tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất chỉ được
tiếp cận một cách gián tiếp mà không được tiếp cận trực diện như một nội dung
nghiên cứu chính. Việc phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước các cấp nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất chưa được nghiên cứu
đầy đủ. Hơn nữa, những công trình khoa học nghiên cứu về hỗ trợ tạo việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất trong quá trình CNH, đô thị hóa ở Hưng Yên hầu như không
được bàn đến hoặc chỉ được nhắc đến thông qua việc nói đến những vấn đề chung của
cả vùng đồng bằng sông Hồng hay cả nước.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC TÁC GIẢ NGOÀI NƢỚC

Các công trình nghiên cứu của tác giả ngoài nước không đề cập trực diện đến
hỗ trợ của Nhà nước đối với người có đất bị thu hồi vì lý do đất đai ở hầu hết các
quốc gia thuộc sở hữu tư nhân, khi Nhà nước thu hồi, họ được đền bù theo giá thị
trường và trách nhiệm của Nhà nước là đảm bảo quyền lợi cho người có đất thu hồi

được hoàn lại thiệt hại bằng tài chính. Chính vì thế, những nghiên cứu về hỗ trợ của


17

Nhà nước đối với người dân thường không gắn với người có đất bị thu hồi, mà nằm
trong chính sách an sinh xã hội nói chung.
1.2.1. Nghiên cứu về tác động của mất đất tới đời sống ngƣời dân
Nghiên cứu về đất đai, thị trường đất đai, đặc biệt trong nông nghiệp ở các
quốc gia nông nghiệp, đang phát triển, các quốc gia chuyển đổi thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu của rất nhiều các nhà nghiên cứu nước ngoài trong những năm qua.
Tình trạng người dân, nhất là người nông dân bị mất đất vì những nguyên nhân khác
nhau và ảnh hưởng của việc mất đất tới sinh kế, việc làm, đời sống của người dân
cũng được tập trung nghiên cứu. Nghiên cứu của Aklam-Lodhi, chỉ ra rằng người
không có đất ở nông thôn đang tăng nhanh, những người này bị cách ly khỏi phương
tiện sản xuất, và sinh sống bằng cách bán sức lao động của mình và là những người
nghèo nhất trong xã hội nông thôn [97]. Tương tự Zhou (1998) cho rằng việc tư nhân
hóa quyền sử dụng đất ở Campuchia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Việt Nam
là có hại vì đã làm tăng tình trạng mất đất ở nông thôn và ổ chuột ở thành phố [125].
Dong cho rằng việc phân phối đất đai cho nông dân nhất thiết phải đồng đều để đáp
ứng nhu cầu đời sống cơ bản của nông dân và nâng cao khả năng kiếm được việc làm
của họ. Nếu không thì những người không có đất và gần như không có đất sẽ bị thiếu
ăn. Những người chỉ trích việc hình thành thị trường đất đai một cách tự do lo ngại
rằng những người nghèo nhất sẽ bị đẩy vào cảnh mất đất và do vậy phụ thuộc vào
công việc làm thuê bấp bênh, điều sẽ làm cho họ ngày càng khốn khó hơn. Vai trò
của chính quyền địa phương thường được chỉ ra như một nguyên nhân giải thích vì
sao tình trạng mất đất gia tăng lại làm tăng thêm đói nghèo. Mối quan hệ giữa thị
trường đất đai với quản lý của địa phương còn nhiều bất cập chưa được giải quyết.
Việc chính quyền địa phương trưng dụng đất nông nghiệp trong quá trình chuyển đổi
mục đích sử dụng đất thường luôn dẫn đến sự phản đối của những người nông dân có

đất bị trưng dụng, những người nông dân luôn cảm thấy rằng họ đã không được đền
bù một cách công bằng. Người nông dân phải chịu thiệt hại nhiều hơn, lợi ích bị ảnh
hưởng nhiều hơn trong quan hệ trên thị trường đất đai [108]. Yeh và Li và Gou cho
rằng nông dân nghèo ở Trung Quốc đã không được bồi thường thỏa đáng cho phần


18

đất bị trưng dụng [124], [111]. Dasgupta và Ray phân tích mối liên hệ giữa thị
trường đất đai và thị trường lao động [104]. Theo nghiên cứu này, tồn tại tổn thất về
phúc lợi khi có độ trễ hay khoảng cách trong sự điều chỉnh thị trường lao động và sự
méo mó trong thị trường đất đai, đặc biệt trong bối cảnh người dân chưa quen với cơ
chế thị trường. Nếu nhiều người bán quyền sử dụng đất, thì lượng cung lao động trên
thị trường lao động sẽ tăng lên, làm cho mức lương giảm xuống. Giả sử quyết định
bán đất được đưa ra trước khi đạt được điểm cân bằng mới trên thị trường lao động
mới – mà thường thì kết quả này không thể đoán trước được và chi phí giao dịch khá
lớn để người ta có thể mua lại đất (điều này chắc chắn xảy ra nếu giá trị đất đối với
chủ mới cao hơn giá mua trước đó, nhất là khi người ta mua các mảnh đất nhỏ để dồn
lại thành các thửa đất lớn). Khi mức lương bị giảm xuống do cải cách đất đai, người
nông dân bán đất sẽ rơi vào cảnh khó khăn hơn. Martin Ravallion và Dominique van
de Walle cho rằng, việc giữ đất nông nghiệp của Nhà nước (có thể vì mục đích công
cộng hoặc các dự án phát triển phi nông nghiệp) có thể làm tăng tỷ lệ nghèo đói.
Điều này có thể xảy ra khi thị trường đất đai tự do phát triển và việc tái phân bổ đất
đai dựa trên cơ sở thị trường [118].
Nghiên cứu trong tác phẩm DFID’s Sustainable Livelihoods Guidance Sheets
cho rằng một sinh kế bền vững khi nó có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác
động hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong
tương lai trong khi không làm xói mòn nền tảng nguồn lực tự nhiên [107]. Năm loại
vốn sinh kế này bao gồm: (1) Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng và các loại hàng
hóa mà người sản xuất cần để hậu thuẫn sinh kế; (2) Vốn tài chính ngụ ý về các

nguồn lực tài chính mà con người sử dụng để đạt được các mục tiêu sinh kế của
mình; (3) Vốn xã hội nghĩa là các nguồn lực xã hội mà con người sử dụng để theo
đuổi các mục tiêu sinh kế của mình, bao gồm quan hệ, mạng lưới, thành viên nhóm,
niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng an ninh phi chính
thống quan trọng; (4) Vốn con người đại diện cho các kỹ năng, tri thức, khả năng làm
việc và sức khỏe tốt, tất cả cộng lại tạo điều kiện giúp con người theo đuổi các chiến
lược sinh kế khác nhau và đạt được các mục tiêu sinh kế. Ở cấp độ hộ gia đình, vốn


×