Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.59 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một số biện pháp nâng cao tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi lớp ghép ....
Như chúng ta đã biết,Tăng cương tiếng việt cũng là một môn học hay là
một hoạt động học cũng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của nền
văn minh nhân loại,đó chính là những thách thức đối với nền giáo dục.Khi nói
tới đều này ,chúng ta lại nghĩ đến những chồi non mà không ai hết ,chính là
những đứa trẻ đặt nền móng cho tương lai,hơn nữa căn cứ vào nhiệm vụ năm
học đó là : đổi mới phương pháp sáng tạo và hình thức dạy và học nhằm nâng
cao chất lượng học tập .Vì thế mà tôi lúc nào cũng băn khoăn suy nghĩ và luôn
mong muốn rằng làm sao dể dạy dổ các cháu có thể vươn cao hơn nữa ,ham
thích ,của mình ,những năng khiếu vốn có vào trong các hoạt động ở lơp để cháu
trở thành một người tốt ,một có ích cho xã hội.
Qua một thời gian giảng dạy ,tôi nhận thấy rằng đối với trẻ mẫu giáo nhất là
trẻ em 5 tuổi tất cả các hoạt động đều rất quan trọng ,hoạt động nào cũng đưa
kiến thức và tính giáo dục cao đến với trẻ.Nhưng ở lớp tôi,đa số các cháu đã là
trẻ 5 tuổi rất cần nâng cao hoạt động tăng cường tiếng việt,chính vì vậy tôi thấy
hoạt động này rất quan trọng đối với trẻ trước khi lên lớp 1,bậc tiểu học.ở trường
mẫu giáo phải trang bị cho trẻ biết đọc biết nói tiếng việt một cách thuận thục và
chính xác từ đó giúp trẻ tiền biết đọc tiền biết viết đó là một kỷ năng cần thiết để
chuẩn bị cho việc học ở lớp 1 một cách tự trin hơn. Vì vậy bản thân tôi muốn
góp một phần nào đó với đề tài “Tăng cường tiếng việt mà tôi đã được rút ở
trường qua quá trình học tập nghiên cứu và giảng dạy.
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài
người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết và là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi
văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi
dân tộc. Các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc
mình trong sinh hoạt cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt
để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp
giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng


bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ làm phong phú thêm cho
nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế
và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt
anh em. Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là
một cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc và tiếng Việt của
người Kinh.

1


Việc quan trọng trong trường mầm non cần làm là giúp trẻ trước độ tuổi đi
học phát triển tốt ngôn ngữ, phù hợp với từng lứa tuổi và sự phát triển chung
của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Do
đó, ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày, không có
ngôn ngữ đứa trẻ không thể phát triển thành người một cách thực thụ. Muốn
nói được, muốn giao tiếp được với mọi người xung quanh thì đứa trẻ phải được
trải qua quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ trong môi trường nhất
định.
Thực tế cho thấy đối với những trẻ thành thạo tiếng phổ thông việc giao
tiếp và thu nhận tri thức và thực hiện những yêu cầu của giáo viên một cách rất
dễ dàng song đối với trẻ dân tộc thiểu số đây là cả một vấn đề khó khăn và đòi
hỏi nhà giáo dục cần phải có những biện pháp phù hợp.
Đặc biệt ở trường mầm non ... chúng tôi các cháu 100% là dân tộc Pa cô
nghe và nói tiếng Việt rất kém mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình đến mức
nào chăng nữa thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng, mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ,
nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một
phương tiện sử dụng thường xuyên đối với trẻ dân tộc thiểu số. Ở đây trẻ chỉ
dùng tiếng Việt giao tiếp với giáo viên khi cần thiết, còn ngoài ra trẻ vẫn thường
xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình. Chính vì vậy dẫn đến chất
lượng chăm sóc Giáo Dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn

Với nội dung chỉ chú trọng tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi để chuẩn bị
vào lớp 1 như hiện nay theo tôi là muộn và chưa đủ so với yêu cầu thực tế trong
công tác giáo dục của nhà trường. Bởi trong quá trình học ở trường mầm non
trẻ chưa thành thạo tiếng việt nên việc nắm bắt kiến thức còn hạn chế, trẻ chưa
hiểu hết những yêu cầu hay những cuộc trò chuyện của cô nên chưa phát huy hết
tính tích cực, chủ động của trẻ. Trẻ nói không rõ ràng về ngôn ngữ và kĩ năng
diễn đạt ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ còn khó khăn..
Việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ 5 tuổi dân tộc thiểu số vừa là mục tiêu, vừa
là yêu cầu cấp thiết đặt hàng đầu cho giáo dục nhà trường nhằm đảm bảo nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện sứng tầm với quy mô phát triển của tỉnh. Tôi nhận
thấy cần có những biện pháp bổ sung, tăng cường tiếng Việt cho trẻ độ tuổi 5 tuổi
là rất quan trọng và là một chia khóa để giúp trẻ thành thạo hơn với tiếng việt khi
bước vào lớp 1.
2.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Tôi quyết định lựa chọn đề tài này với mục đích tìm hiểu thêm của việc
phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ 5 tuổi và áp dụng các giải pháp để nâng
cao vốn tiếng Việt cho trẻ 5 tuổi dân tộc thiểu số tại nhà trường. Qua đó vận
dụng những kiến thức có sẵn và qua học hỏi để nghiên cứu và áp dụng các giải
pháp vào chăm sóc giáo dục phù hợp giúp trẻ phát triển một cách hài hoà và bắt
kịp với chất lượng giáo dục chung trong toàn tỉnh thành.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
2


Vận dụng những kiến thức kinh nghiệm đưa ra một số giải pháp giúp trẻ
được phát triển ngôn ngữ tiếng Việt một cách đầy đủ và mạch lạc nhất ngày khi
trẻ bước chân vào trường Mầm non và trẻ tự tin bày tỏ cảm súc, suy nghĩ của
mình với những người xunh quanh một cách tốt nhất. Tôi mong rằng trẻ thành
thạo tiếng Việt sớm hơn và từ đó trẻ tiếp nhận tri thức một cách dễ dàng và đầy

đủ nhất và đó sẽ là một lý do để nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục đây
cũng là một nền móng tốt cho trẻ phát triển một cách toàn diện.
3. đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu “ Trẻ 5 tuổi lớp ghép ...”
Phạm vi: Tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi lớp mẫu giáo lớn ... -Trường
Mầm non ...
4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm.
Tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi lớp mẫu giáo ghép ... -Trường Mầm
non ...
5. Phương pháp nghiên cứu
Bằng một số biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi dân tộc thiểu số
tại trường Mầm non ... như:
+ Cung cấp tiếng việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
+Trẻ học tiếng Việt đảm bảo theo một trình tự nhất định từ dễ đến khó.
+ Từ đơn giản đến phức tạp.
+ Có ứng dụng công nghệ thông tin vào các bài dạy, vào các hoạt động
ngoài giờ nhằm phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Hình thành sự tự tin cho
trẻ vì khi trẻ tự tin trẻ dễ dàng học hỏi, dễ dàng bày tỏ những suy nghĩ, chia sẻ
hiểu biết của mình bằng tiếng việt với cô và bạn bè.
+Lựa nội dung giáo dục phù hợp với đối tượng với điều kiện thực tế của trẻ
của nhà trường và lớp học.
+Nhằm nâng cao chất lượng ngôn ngữ trong giao tiếp, trong diễn đạt tiếng
việt của trẻ một cách tốt nhất.
Ngay từ buổi đầu vào nhận lớp và quan sát tình hình .Tôi nhận thấy chất
lượng của trẻ còn quá kém làm cho tôi phải trăn trở suy nghĩ ,mình phải làm gì
và làm như thế nào để góp phần vào công lao giảng dạy cho các cháu ngày một
tốt hơn.Nhất là với hoạt động tăng cường tiếng việt.Vì trẻ ở lứa tuổi này “Chơi
mà ,học mà chơi”.Từ đó tôi phải có kế hoạch cụ thể ,và đầu tư vào nhiều thời
gian tìm tòi và nghiên cứu tài liệu tập sẵn có liên quan đến nội dung nghiên
cứu,qua việc học bạn bè đồng nghiệp để trao đổi kinh nghiệm,qua việc tập huấn

về chuyên môn,bồi dưỡng về chuyên đề .
Được sự quan tâm của lãnh đạo cấp trên đã tạo điều kiện cho tôi được tham
gia lớp tập huấn tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số do sở tổ chức năm
2012 khi tôi còn là một giáo viên hợp đồng của trường từ đó tôi đã tiếp thu và
thu thập những phương pháp mới từ để giúp tôi được nắm vững hơn phương
pháp giảng dạy,giúp cho tôi nâng cao chuyên đề ,phát huy được những gì toi tiếp
cận ,và tôi đã lên kế kế hoạch cụ thể gồm 5 bước:
+Bước1: tiếp thu lý thuyết lắng nghe và ghi chép đầy đủ nội dung
+Bước 2: tiếp thu và học hỏi các tiết dạy mẫu
+Bước : tiếp thu lý thuyết để nhận xét và rút kinh nghiệm
3


+Bước 4: thực hiện trên trẻ đầy đủ những nội dung và cũng như phương
pháp hợp với đặc điểm của nội dung .
+Bước 5: theo dõi và đánh giá kết quả trên trẻ .
-Tư duy của trẻ mầm non là tư duy trực quan hành động.Muốn cho trẻ học
tốt hoạt động tăng cường tiếng việt cần phải chuẩn bị cơ sở vật chất như đồ dùng
dạy học thật đầy đủ.Vì vậy ngay từ đầu năm tôi tuyên truyền với phụ huynh mua
thêm đồ dùng học tập cho trẻ học chữ cái : thẻ chữ cái ,vở tập tô ,bút chì ,ngoài
ra tôi còn in tranh ảnh trên máy phát cho mổi trẻ một bộ để về nhà học thêm
.Bên cạnh đó tôi còn thường làm các loại đồ ,đồ chơi như :
+Làm các đồ dùng,các con vật,hoa ,lá,quả..chữ phía dưới để cho trẻ chơi
các trò chơi với tăng cường tiếng việt .
+Sưu tầm các bài thơ,câu chuyện,các bài hát ...có chứa các từ để tăng
cường, cần học cho trẻ luyện đọc,luyện phát âm.
+Vẽ các bức tranh có từ ở dưới tranh phù hợp với bài dạy ,với chủ điểm .
+Tạo ra các bức tranh có từ còn thiếu chữ cái vừa học và cho trẻ chơi dán
chữ cái còn thiếu ở trong từ để được hoàn chỉnh hơn để tăng cường tiếng việt.
+Cho trẻ chơi trò chơi nối chữ cái giống với chữ cái có trong từ để đúng với

bức tranh mà tăng cường.
+Tổ chức nhiều trò chơi với tăng cường tiếng việt như tôi đã tổ chức trò
chơi “Tìm hoa,quả đúng với bức tranh trong tăng cường”.
+Ở mổi góc cô treo một bức tranh hoặc quả có từ chứa để tăng cường cần
ôn và mở rộng thêm.
Ví dụ : học chủ đề “ Bản Thân” “ tìm hiểu về cơ thể bé” thì chiều chúng ta
có thể tăng cường những từ : đôi tay, đôi chân...
6.Phạm vi và kế hoạch nghi ên cứu
Trẻ 5 tuổi lớp ghép ...- Trường mầm non ...- Huyện đakrông - Tỉnh quảng
trị
- Nghiên cứu từ tháng 8/2016- tháng 3/2017
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo sự
tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Là phương tiện nhận thức thế giới xung
quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy.
Đối với trẻ em dân tộc ngôn ngữ thứ hai đóng một vai trò cũng đặc biệt
quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là
công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi… Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới
xung quanh thông qua ngôn ngữ, lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các sự
vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng... của
chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh trực quan đi vào nhận thức
của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung
quanh. Từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã được hình thành.
Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau, cùng nhau hành
động vì những mục đich chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã
hội. Không có ngôn ngữ con người không thể giao tiếp vì vậy ngôn ngữ chính là
một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội
4



loài người, là công cụ hữu hiệu để trẻ bày tỏ những nguyện vọng, suy nghĩ và
đánh giá của bản thân về những hiện tượng xung quanh….
Ngôn ngữ chính là hiện thực của tư duy và tư duy của con người có thể
hoạt động được cũng chính là nhờ có phương tiện ngôn ngữ. Tư duy và ngôn
ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư
duy của con người không diễn ra được. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui
chơi, những hoạt động chủ yếu ở trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng
mẹ đẻ, việc phát triển ngôn ngữ thứ hai cho trẻ ở trường mầm non là thực sự là
mục tiêu “kép” giữa phát triển tri thức tư duy tiếng Việt và ngôn ngữ tiếng Việt
cho trẻ. Trẻ biết sử dụng tiếng Việt đồng thời sử dụng nó như một công cụ để
giao tiếp, vui chơi và học tập. Thông qua các hoạt động học tập, vui chơi và trò
chuyện ở mọi lúc mọi nơi mà dần dần trẻ thành thạo và ngược lại mọi hoạt động
ở trường cũng tạo cơ hội cho ngôn ngữ thứ hai của trẻ phát triển.
Có thể khẳng định rằng: Học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần
thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất. Song với trẻ dân tộc
thiểu số tiếng mẹ đẻ không phải là ngôn ngữ chính để trẻ học tập, vui chơi và
giao tiếp với xã hội. Do đó bắt buộc trẻ phải học ngôn ngữ thứ hai khi bước vào
ngưỡng cửa trường mầm non với một hình thức giống với tiếng mẹ đẻ, nhưng
với một môi trường hẹp hơn là lớp học, là cô giáo và các bạn. Trẻ học ngôn ngữ
tiếng Việt song song với việc học tri thức và bước đầu trẻ phải tập làm chủ ngôn
ngữ thứ 2 để đảm bảo làm chủ tri thức, tư duy của mình…
Ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau
mà người nói có nhu cầu ( từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ… của người nói đến
người nghe; đến những nhu cầu về trao đổi kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên
hoặc truyền bá tri thức…. Mà trong đó ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của người dân tộc
thiểu số chỉ phục vụ được một phần nhỏ số người có nhu cầu trong cộng đồng.
Chỉ có ngôn ngữ tiếng Việt mới giúp họ hoà chung vào sự phát triển của xã hội.
Chương 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1 Thuận lợi

* Thuận lợi:
Bản thân là giáo viên người địa ban có trình độ chuyên môn trên chuẩn với
năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có khả năng tiếp
thu những kinh nghiệm và vận dụng vào giảng dạy một cách linh hoạt, có nhiều
ý tưởng, luôn mong muốn có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục trong nhà trường đó là một thuận lợi lớn trong việc thực hiện đề tài.
Lớp học rộng rãi, thoáng mát đảm bảo cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ,
lớp học có điện có máy tính nên soạn giảng cùng rất nhanh chóng, lớp được
trang bị các tài liệu, sách truyện để làm tài liệu dạy.
Bản thân đã bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện
của lớp và nhà trường, tỉ lệ chuyên cần của trẻ cao.
Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của trẻ
Trường lớp khang trang, sạch sẽ có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ
hoạt động trong lớp và ngoài trời.
5


- Lớp có tương đối đầy đủ các đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học phục vụ
cho công tác giáo.
Tôi là người địa phương nên về phần vận động trẻ thì tôi ít vận động hơn, bởi
đầu năm học tôi đã quán triệt và có quy định riềng của lớp học.
- Cô giáo l người địa phương nên việc phối kết hợp giữa cô và trẻ dễ dàng
hơn.
2.2 Khó khăn
Trường mầm non ... là một điểm trường đặc biệt khó khăn của huyện
Đakrông, Tỉnh quảng trị, trong đó dân tộc chiếm là chủ yếu .Tập quán sinh hoạt
còn tương đối lạc hậu. Nhân dân sinh sống chủ yếu là nghề nông nghiệp. Là xã
đặc biệt khó khăn của huyện nên thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp.
Hộ đói nghèo vẫn còn cao địa bàn cư trú nằm rải rác, đa số nhân dân trong xã

chưa thông thạo tiếng phổ thông , cơ sở hạ tầng tại các thôn bản tuy đã được
quan tâm đầu tư xong vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh hoạt của người dân.
Nhà trường có 9 điểm trường với 235 học sinh trong đó trẻ dân tộc thiểu số
là 235 trẻ
Tổng số cán bộ giáo viên: - Ban giám hiệu 3 đồng chí
-

Giáo viên: 16 đồng chí

-

Nhân viên: 2 đồng chí.

*.Đặc điểm tình hình lớp học
- Tổng số học sinh: 21 cháu trong đó 5 tuổi 6 cháu và 3-4 tuổi là 15 cháu
- 100% học sinh là người dân tộc Pa cô
- Trong đó Nam: 9 ; Nữ: 12
- Tổng số giáo viên: 2 cô
- Trình độ chuyên môn: Đại học 1; Cao đẳng 1
- Lớp thực hiện theo chương trình giáo dục mầm non.
- Lớp có tương đối đầy đủ các đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học phục vụ
cho công tác giáo dục
- 100% học sinh trong lớplà dân tộc pa cô nên việc giao tiếp giữa cô và trẻ
còn bất đồng về ngôn ngữ khi mỗi lần cô đứng giảng một tiết dạy
- Có 60% trẻ mới bắt đầu ra lớp và cũng là lúc trẻ bắt đầu làm quen với
ngôn ngữ tiếng Việt.
- Nhiều phụ huynh chưa thành thạo tiếng phổ thông và chưa chú trọng vào
việc dạy tiếng phổ thông cho trẻ tại gia đình.
- Đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ chưa
phong phú đa dạng, chưa có sự đầu tư và chưa có sự sáng tạo.

- Đối với trẻ 5 tuổi nhưng ngôn ngữ nói tiếng việt của trẻ còn hạn chế trẻ
chậm chạm, nhút nhát, chưa tự tin.
6


Với đặc thù trường có 100% trẻ học là dân tộc thiểu số.Vì Tiếng Việt
không phải tiếng mẹ đẻ nên việc học tập và trao đổi trò chuyện với cô và bạn bè
còn nhiều hạn chế.
- Các tài liệu giáo dục chưa thật sự phù hợp với đối tượng, chưa có tài liệu
dành riêng giáo viên dạy vùng Dân tộc thiểu số. Trong khi đó giáo viên lại chưa
được trang bị kiến thức về đối tượng học sinh.
Đa số phụ huynh chưa thành thạo tiếng Việt, việc trào đổi trò chuyện với
trẻ bằng tiếng phổ thông tại gia đình trẻ chưa có chú trọng.
Chương 3: Các giải pháp và kết quả thực hiện
3.1 Các giải pháp
Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã thực hiện như sau:
- Nắm vững những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi.
- Có các giải pháp hướng dẫn trẻ học tăng cường tiếng Việt một cách linh
hoạt, phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường, phù hợp với địa
phương và khả năng nhận thức của trẻ trong lớp.
- Thường xuyên tham khảo tài liệu, sưu tầm các thông tin trên mạng
intenet, dự giờ kiến tập đồng nghiệp, học hỏi kinh nghiệm.
- Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh cùng với giáo viên tích cực dạy
tiếng phổ thông cho trẻ.
Để giúp trẻ tăng khả năng nghe hiểu và thực hành tăng cường tiếng Việt
một cách tốt nhất tôi kiên trì, sáng tạo và gần gũi với trẻ. Bằng sự hiểu biết của
mình tôi lựa chọn những nội dung những bài học và những hình thức, những
hình ảnh đẹp hay những tình huống hẫp dẫn giúp trẻ học tiếng việt có hiệu quả
vì vậy tôi đưa ra các biện pháp sau:
3.1.1 Giải pháp thực hiện

*. Giải pháp1: Dạy trẻ học tiếng Việt theo trình tự nghe – hiểu – thực
hành.
+ Trẻ học hiểu nghĩa của từ và câu trước khi nói chính xác từ và câu đó.
Bước vào ngưỡng cửa trường mẫu giáo trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ
thứ hai và đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong quá trình trẻ học nói tiếng Việt, tiếp
thu kiến thức bằng tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cô đều
thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ 1, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển
khả năng nghe hiểu lời nói của cô.
Với mục đích trẻ trẻ hiểu ghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành tiếng Việt. Yêu
cầu đối với giáo viên không cấm trẻ nói tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà
không hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành
động với đồ vật, bằng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu
nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề.
Ví dụ: Trẻ làm quen với tên gọi các bạn: đây là bạn Mai chi, đây là bạn Mai
Trang… cô dắt trẻ lên và giới thiệu cho các bạn nghe, lần lượt các bạn trong lớp.
Cho trẻ làm quen với tên gọi và đồ dùng đồ chơi ở các góc trong lớp học: Đây là
viên gạch, đây là quả táo…Khi cô giới thiệu cho trẻ nghe cô hỏi lại để kiểm tra đối
với các trẻ. Cô giới thiệu và làm mẫu một số hành động cụ thể : đứng lên, ngồi
7


xuống, đi ra ngoài… kết hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích nghĩa của từ và câu,
nhất là những từ trừu tượng, khó hiểu. Tôi thường xuyên dùng những từ ngữ nhẹ
nhàng để khen ngợi trẻ, nêu những điểm nổi bật làm trẻ thích thú và chăm chú nghe
cô nói.
Sử dụng đồ dùng cho trẻ tiếp cận theo nhóm đối tượng giúp trẻ dễ sâu chuỗi
được vấn đề hơn:
Vi dụ: Cho trẻ quan sát tranh các con vật cô hỏi “ Con gì đây” và “đây là
con gì” đầu tiên trẻ chưa biết tôi hướng dẫn trả lời rồi cho trẻ bắt chước sau đó
trẻ tự trả lời, và cứ như vậy trẻ sẽ tự hiểu đó là những con vật. Vì vậy khi cho trẻ

tiếp súc đối tượng tôi thường đưa các đối tượng có cùng chủng loại: các loại
quả, các đồ chơi...
Tôi thường xuyên trao đổi với trẻ bằng cách chọn từ ngữ sao cho ngắn gọn,
dễ hiểu kết hợp hướng dẫn giúp trẻ hiểu những vấn đề, nhiệm vụ gần gũi đối với
trẻ: Ví dụ: Khi trẻ đến lớp cô nhắc “ Chào cô nào” và cô hướng dẫn cho trẻ thực
hiện nói “ Cháu chào cô” và các khái niệm, các từ chỉ tên người, đồ vật ví dụ:
Tên bạn, quần áo, bát đĩa, tên đồ dùng đồ chơi trong lớp, một số hoạt động hàng
ngày trẻ phải thực hiện ví dụ: con hát nào, con hãy đọc thơ, con thực hiện cùng
cô nào…
Tôi luôn chú ý phát rõ âm để trẻ dễ tiếp thu, dạy trẻ cần phải kèm tranh
minh họa, vật thật đôi khi cần có cả sự giải thích, khi sử dụng từ ngữ cô lựa chọn
cầu từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trẻ. Chú ý cung cấp từ mới cho trẻ phải
nhắc đi nhắc lại giúp trẻ nghe rõ và hiểu vấn đề một cách cụ thể.
Tạo cho trẻ năng lực bắt chước kết hợp âm thanh, trẻ thường xuyên học
nhắc lại những gì nghe được từ cô và các bạn, đây cũng là một trong những biện
pháp trẻ dễ học dễ hiểu nhất: Ví dụ: Trong giờ học tôi đưa một bức tranh và hỏi
trẻ cô có gì đây? Một số trẻ trả lời “ Tranh con vịt” cô khẳng định là đúng và cho
cả lớp và cá nhân bắt chước nói giống cô và các bạn cứ như vậy trẻ học rất
nhanh và hiệu quả cũng rất cao.
Nghe với những hình ảnh động: Các hình ảnh đính kèm những ngôn ngữ làm
cho trẻ ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung của vấn đề, mà không cần phải ‘dịch’ từng câu.
Ví dụ: Thường xuyên mở các bài hát, đoạn video về các con vật, các hiện
tượng tự nhiên hay các sự kiện… cho trẻ xem, trẻ chăm chú phán đoán và trẻ
cũng dần hiểu một số câu từ trong những đoạn video, clip đó.
Luyện nghe cho trẻ cũng rất quan trọng, luyện cho trẻ nghe được các âm vị
cấu trúc âm tiết khác nhau , nghe biểu cảm về phương diện âm thanh.
Mặc dù có thể hơi khó với trẻ nhưng đọc hay kể chuyện cho trẻ nghe ngay
từ những ngày đầu tới lớp của trẻ là một trong những cách tốt nhất giúp trẻ làm
quen với ngôn ngữ tiếng Việt. Thông qua việc dành thời gian đọc, kể cho trẻ
nghe từ đó giúp trẻ nhận biết những điều kỳ diệu mà ngôn ngữ đem lại và sự

thích thú của trẻ đối với những điều kỳ diệu đó sẽ biến trẻ thành người ham học.
Yêu cầu ở nội dung này cô cần phải kiên trì, thường xuyên trò chuyện giao
tiếp cùng trẻ có nhiều biện pháp giúp trẻ nghe hiểu một cách chính xác nội dung
cô cần truyền đạt. Do vậy tôi luôn chú ý đến lời nói phải chính xác, rõ ràng,
mạch lạc, tránh nói lắp, nói ngọng.
Lựa chọn nội dung giáo dục và hoạt động phù hợp với khả năng của trẻ.
8


Ví dụ: Lựa chọn những bài thơ, bài hát ngắn gọn dễ hiểu, tìm những bài thơ,
ca dao, đồng dao giúp trẻ dễ đọc dễ nhớ và cũng thuận lợi trong việc khai thác nội
dung.
Luôn chú ý hệ thống câu hỏi đàm thoại với trẻ để đảm bảo tình phù hợp,
chính xác và có tính mở chú trọng lấy trẻ làm trung tâm. Đặc biệt khi lựa chọn
đề tài này cần phải chú trọng hơn khi xây dựng nội dung giáo dục để đảm bảo
tính hiệu quả phù hợp với nội dung và đối tượng vùng miền.
+ Trẻ học tiếng Việt gắn với những tình huống thực tế.
Hình ảnh, trò chơi, nhạc họa, diễn kịch… nói chung là các hoạt động nhằm
giúp trẻ tham gia vào môi trường sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên, không
gượng ép. Các hoạt động đa dạng sẽ giúp trẻ từng bước hình thành phong cách
riêng trong học tập và sử dụng tiếng Việt. Phong cách riêng chính là nền tảng của
chất lượng và hiệu quả học tập tiếng Việt cho trẻ em. Nắm bắt được đặc điểm này
tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin
đại chúng để tạo các tình huống và đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng
chủ điểm.
Ví dụ: Tổ chức các trò chơi cho trẻ như:
-Trò chơi những chiếc thuyền: Cô đổ nước vào chậu hoặc bát to. Để 3 cái
hộp rỗng vào. Cần thổi chúng chuyển động từ bờ bên này sang bờ khác. Cô nói
với Trẻ: “Con tưởng tượng xem, đây là biển nhé. Để cho tàu ra khơi, cần có gió
đẩy thuyền đi. Con hít sâu vào rồi thổi mạnh đi!”. Điều quan trọng là theo dõi

việc thở ra và khuyến khích trẻ thực hiện theo yêu cầu của cô.Để kích thích khẩu
ngữ của bé, cô đặt những câu hỏi: “Thời tiết trên biển thế nào con nhỉ?”, “Con
thấy mặt nước trông như thế nào?”…cô cho trẻ chơi theo nhóm nhỏ các trẻ
khác quan sát và nhận xét về các con thuyền, nhận xét cách chơi của các bạn
cùng với những lời tán thưởng của cô trẻ rất thích thú cổ vũ cho những con
thuyền, đây cũng là một hình thức trẻ được chơi một cách thoải mái nhất nhưng
trẻ lại nhớ lâu những từ mới như “con thuyền”, “mặt nước”, “thổi mạnh”,
“thuyền đi nhanh, thuyền đi chậm”… bởi qua lúc chơi trẻ hò reo cổ vũ theo cô
và các bạn.
- Trò chơi dàn nhạc đặc biệt: Cần 6 cái hộp và 3 kiểu vật liệu hạt rời (ngũ
cốc, đường, bột, hạt cườm…). Điều quan trọng là đổ từng đôi hộp số lượng vật
liệu như nhau để âm thanh trùng nhau chính xác. Nhưng âm thanh của đôi hộp
này cần khác biệt với đôi khác. Một bộ đưa cho trẻ, còn bộ kia cô giữ. Cô lắc
“Hộp” bất kì, còn trẻ cần tìm trong bộ của mình cái thùng có âm thanh y như
thế. Cô tăng dần số lượng hộp. Cô nghĩ ra những tên gọi lí thú cho những dụng
cụ đó: Tiếng ồn, quả bom, lúc lắc, lạo sạo… trẻ được chơi cả lớp và yêu cô yêu
cầu cá nhân lên chọn “Hộp” cả lớp cùng nhắc giúp bạn với sự gợi ý của cô. Cô
nói các con chú ý xem chiếc “Hộp” này có tiếng kêu thế nào ? ai giỏi lên tìm
hộp có tiếng kêu giống hộp của cô nào. Trẻ sẽ phải lắc các hộp để tìm cùng với
sự chỉ dẫn của các bạn “ Hộp này, hộp kia, đúng rồi, sai rồi, tìm đi, lắc hộp đi…”
đó là những từ được nhắc nhiều trong trò chơi, trẻ cổ vũ, chỉ dẫn cho bạn, đây
cũng là cách trẻ được học những từ mới mà không cần cô chỉ dẫn song vẫn đạt
yêu cầu… trẻ em rất thích điều đó.
9


- Trò chơi cái bao bí ẩn: Cần một cái bao hoặc túi không trong suốt để
không nhìn thấy được những vật dụng bên trong túi. Cho vào đó những đồ vật
hình oval và hình tròn (trứng, quả bóng nhỏ, bóng lục lạc, cái hộp…). Trước khi
cô cho những vật trên vào bao, hãy cho trẻ sờ chúng trước và gọi tên những vật

đó. Sau đó, đề nghị trẻ tìm vật cần thiết qua cảm ứng: “Bàn tay con có đôi mắt
thần kì đó. Con hãy dùng tay lấy cho cô quả bóng xem nào!” (hoặc vật khác).
Cô hỏi trẻ về đồ vật trẻ lấy ra khỏi bao: “Đây là cái gì?”, “Có thể chơi bóng như
thế nào nhỉ?”.
- Các tình huống gắn liền với hoạt động trong ngày cũng là những cơ hội để
giáo viên giúp trẻ tăng cường tiếng Việt. Tôi giúp trẻ làm giàu thêm vốn từ vựng
của mình và giúp trẻ phát triển khả năng nghe, phản xạ bằng cách yêu cầu trẻ
nêu tên tất cả những đồ vật mà trẻ biết bắt đầu bằng những tên bạn trong lớp, tên
cô, tên các đồ dùng đồ chơi.
Ví dụ: Cô hướng trẻ với những sự vật hiện tượng sung quanh để trò chuyện và
mở rộng ngôn ngữ cho trẻ, gợi ý tạo sự tò mò của trẻ vào những thay đổi khác
thường chẳng hạn: Cây đào sân trường ra hoa, trời mưa rất to, bạn Lan có váy
mới…
*Giải pháp2: Ttrực quan hành động.
Phương pháp này rất hiệu quả đối với người bắt đầu học một ngôn ngữ mới
(ngoài tiếng mẹ đẻ), cho phép người học tiếp thu ngôn ngữ mới một cách dễ
dàng và tự nhiên mà không bắt buộc phải quá tập trung hay căng thẳng. Phương
pháp này được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở nhiều hình thức khác nhau. Với
phương pháp này, người học được sử dụng tích cực các giác quan và vận động
của cơ thể trong suốt quá trình tham gia vào hoạt động học tập và thực hành
ngôn ngữ mới. Các kỹ năng nghe - quan sát - phản hồi (bằng hành động của cơ
thể) được sử dụng hiệu quả trong quá trình học tập. Phương pháp này giúp giáo
viên và trẻ có thể áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các hoạt động dạy và học
để đạt được những giờ học thực sự tích cực. Sử dụng đồ dùng trực quan đẹp, bắt
mắt đó cũng là cách làm trẻ tò mò xem đó là gì, thích được tham gia vào hoạt
động với đồ dùng đó.
Ví dụ: Các giờ hoạt động khám phá môi trường, ngoài việc cung cấp kiến
thức cho trẻ cô cũng đồng thời tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách rất hiệu
quả. Thông qua những hình ảnh, mô hình, vật thật trẻ được sờ, được nếm, được
ngửi, được nghe cùng với những từ ngữ có chọn lọc cô cung cấp kiến thức và từ

mới cho trẻ : Với hoạt động làm quen các loại quả trẻ biết tên quả, quả có màu
gì, ăn có vị gì, con thích quả gì. Cô nhắc lại những đặc điểm rồi cho trẻ nhắc lại
cứ như vậy trẻ học từ mới một cách tự nhiên theo nhiều hướng khác nhau. Với
chương trình giáo dục mầm non thực hiện chủ đề nhánh theo tuần vậy nên trong
tuần trẻ được tiếp súc làm quen nhiều loại quả với nhiều hình thức khác nhau
như: xem tranh, xem hình ảnh trên video, quả thật và qua sự miêu tả của cô…. ở
các hoạt động vui chơi và hoạt động khác nữa. Trẻ dần khắc sâu ngôn ngữ tiếng
Việt cùng với tư duy của mình.
Giáo viên sử dụng các đồ vật/đồ chơi gần gũi, quen thuộc với trẻ để dạy
tiếng Việt cho trẻ. Với trẻ lớp bé, trẻ mới ra lớp nên lựa chọn các vật thật hoặc
các đồ dùng, đồ chơi sẵn có trong lớp và trẻ thường được chơi và sử dụng để
10


cho trẻ học. Tôi không chụp ảnh các đồ vật sẵn có trong lớp, những đồ vật tôi có
thể chuẩn bị được để đưa vào máy tính và trình chiếu cho trẻ quan sát mà sử
dụng các đồ vật/đồ chơi thật giúp trẻ vừa được học từ, học câu và vừa được thao
tác với đồ vật/đồ chơi có kết hợp sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ thứ hai sẽ trở nên
gần gũi hơn với đời sống hàng ngày của trẻ.
Đối với trẻ nhà trẻ và mẫu giáo 3 – 4 tuổi tôi tiến hành trò chuyện kết hợp
với trực quan, hướng chú ý của trẻ lên đối tượng, sau đó gợi cho trẻ nhớ lại bằng
những câu hỏi đơn giản...
Ví dụ: Khi trò chuyện về con mèo, cô giáo có thể cho trẻ xem tranh hoặc
quan sát con mèo thật, cô giáo yêu cầu trẻ quan sát thật kỹ về con mèo để biết
con mèo có đặc điểm gì, hoạt động như thế nào…, sau đó cô đặt câu hỏi cho trẻ
trả lời. Cần lưu ý đến khả năng ngôn ngữ của trẻ trong quá trình trò chuyện
nhằm phát triển, tăng cường ngôn ngữ dưới hình thức.
* Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
Những hình ảnh đẹp những hiệu ứng của hình ảnh có tình huống biến hóa,

những vi deo sôi động là cách lôi cuốn trẻ , trẻ có thể ngồi hàng giờ bên video,
tôi thường suy tầm những nội dung phù hợp với chủ đề cho trẻ khám phá:
Ví dụ: Những bài học luyện phát âm và hay từ mới cho trẻ, với chủ đề giáo
thông có những loại phương tiện giao thông hình ảnh kèm lời đọc loại phương
tiện đó , trẻ được chi giác và phát âm theo, hay chủ đề động vật cũng có rất
nhiều bài dạy trẻ phát âm tên và vận động động của các con vật.
*Giaỉ pháp 3: Hình thành sự tự tin cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Tôi lựa chọn phương pháp này mong rằng trẻ sẽ mạnh dạn hơn, tự tin hơn
trong việc sử dụng tiếng việt trong giao tiếp cũng như trẻ dám thể hiện bày tỏ
quan điểm của mình về những gì xung quanh, qua đó giữa cô và trẻ có sự trao
đổi thường xuên các thông tin và đây cũng là cách giúp trẻ thực hành tiếng Việt
một cách có hiệu quả nhất.
Chắc chắn là trẻ cũng rất thích khi được cô giáo và bạn bè động viên.
Nhưng những lời động viên, khen ngợi đó sẽ có tác dụng lớn hơn khi chúng
được nói ra dựa trên những việc trẻ đã làm tốt hoặc đã nỗ lực để thực hiện. Một
khi trẻ đã đạt được một mục tiêu nào đó thì cô giáo khen ngợi chúng cả về thành
quả lẫn quá trình nỗ lực để đạt được thành quả đó.
Ví dụ: Sau khi trẻ nặn được một quả cam cô nói với trẻ rằng “ Con nặn đẹp
rồi con hãy vuốt cho quả mịn hơn nữa đi” hoặc khi trẻ đọc thơ cô khen trẻ và
khuyết khích các bạn động viên trẻ. Cô chú ý động viên khen ngợi trẻ kịp thời
và hướng cho trẻ đến với sự chính xác của vần đề.
Ví dụ: Khi cô hỏi trẻ màu sắc của bông hoa hồng màu đỏ “ Bông hoa có
màu gì?” nếu trẻ trả lời màu xanh tôi thường cho trẻ khác nhận xét và cô khẳng
định lại và khuyến khích trẻ trả lời lại cho thật chính xác và cũng không quên
động viên trẻ tạo tâm lý thoải mãi ngay cả khi trẻ biết mình trả lời sai.

11


Tuy nhiên, cần phải chọn thời gian thích hợp để trẻ học làm những việc này.

Thời gian vui chơi, hoạt động khám phá là thích hợp nhất vì trẻ có thể làm từ từ
và ít căng thẳng hơn.
Ví dụ: Các hoạt động: Ngoài trời, hoạt động góc, các hoạt động khám phá
hay các tiết biểu diễn văn nghệ…
Sự tự tin ở trẻ sẽ tăng lên mỗi khi chúng học được một kĩ năng mới hay
vượt qua một mốc quan trọng nào đó. Vì vậy cô giáo thường xuyên có thể giúp
trẻ gây dựng sự tự tin bằng cách tạo cho chúng thật nhiều cơ hội để rèn luyện và
tập thành thục các kĩ năng mới. Tôi để cho trẻ tự do thể hiện và luôn ở bên để
động viên tinh thần của chúng, nhắc chúng tiếp tục cố gắng. Luôn tỏ ra thích thú
và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện là chúng đã tập thành thạo một kĩ năng mới
rồi . Khen ngợi trẻ mỗi khi trẻ đạt được một mục tiêu nào đó hoặc nỗ lực làm
việc gì đó.
Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi hay ôn luyện tôi thường mời cá nhân
trẻ lên giới thiệu về bản thân và chủ đề trẻ đang học, mời trẻ lên đọc thơ hay ca
hát, mở các bản nhạc vui nhộn cho trẻ cùng vui nhảy múa theo như các Video
erobic mầm non…
Trẻ thường xuyên thực hành sẽ trở nên tiến bộ rất nhiều vì vậy tôi thường
xuyên chao đổi với trẻ nhằm giúp trẻ được trò chuyện với cô ở mọi lúc mọi nơi.
Vi dụ: Giờ đón trẻ cô trò chuyện với trẻ “ Ai đưa con đi học”, “ Sáng nay
con ăn gì”, “ Ai buộc tóc cho con đẹp thế”…Giờ trả trẻ “ Khi về nhà gặp bố mẹ
con sẽ làm gì?”, “ Con chào bà như thế nào, con chào ông như thế nào?....”
Cô luôn phải là tấm gương cho trẻ soi vào, ở đây mỗi động tác, lời nói cử
chỉ điệu bộ của cô cũng là những bài học cho trẻ, muốn trẻ tự tin cô giáo luôn
phải có sự sáng tạo tìm tòi đưa ra các cơ hội giáo dục cho trẻ khác nhau.
Ví dụ: Tổ chức các trò chơi tập thể hoặc cá nhân, giúp trẻ tích cực tham
gia theo hình thức tập thể.
- Giáo viên nên khám phá những mặt mạnh, những điểm tích cực của trẻ để
khuyến khích, nâng đỡ. Tăng cường tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi, phù hợp với khả
năng của trẻ. Giáo viên luôn cần giúp trẻ hình thành mối quan hệ gắn bó giữa trẻ
này với trẻ khác, giữa trẻ với cô giáo như vậy trong quá trình học, sinh hoạt động ở

trường cùng cô và các bạn trẻ biết chia sẻ bày tỏ và phối kết hợp cùng hoạt động
vui chơi, cô tạo các hoạt động cho cô và trẻ cùng hoạt động: cùng chơi đùa, cùng
ăn uống, cùng trò chuyện với sự thân thiện và tôn trọng trong một môi trường an
toàn và vui vẻ.
Ví dụ: Cô luôn coi những đứa trẻ là bạn trong lúc chơi, đặc biệt trong giờ
chơi hoạt động góc, trẻ phải có tâm lý được thoải mái khi chơi và phối hợp cùng
cô.
- Giúp trẻ biết các bầy tỏ nhu cầu:
Cô giáo luôn gần gũi với trẻ và cần kiên nhẫn chờ đợi, khích lệ trẻ bầy tỏ
nhu cầu thay vì phỏng đoán và đáp ứng ngay. Điều này sẽ giúp trẻ từ từ trở nên
một chủ thể sáng tạo, biết tự quyết định, chọn lựa thay vì chỉ có những phản ứng
máy móc, tự động, chỉ biết nhắc lại.

12


Ví dụ: Cô luôn chú ý đến những thái độ khác biệt của trẻ và gợi hỏi: con
cần gì nào, con thích gì, con đang tìm gì vậy, con cần cô giúp gì không? nhiều
trẻ chưa thể hiện mong muốn nhu cầu của mình tôi thường hỏi những trẻ khá
hơn “ Bạn muốn gì vậy con” trẻ tự hỏi bạn và đưa ra yêu cầu giúp bạn từ đó tôi
cho trẻ nhắc lại mong muốn của mình, đây là một hình thức rất cần thiết vì trẻ
biết phải đưa ra những mong muốn bằng tiếng Việt thì mới có thể chủ động
trong những lần sau
- Giúp trẻ tham gia các hoạt động Tâm vận Động:
Trong một ngày tôi luôn quan tâm đến nội dung hoạt động ngoài trời đây là
khoảng thời gian trẻ sẽ vừa chơi vừa học, bằng những hoạt động vui thú như leo
trèo, chạy nhảy vui chơi cùng cô và các bạn… trẻ được reo vui hò hét một cách
thoải mái. Tôi luôn bày các trò chơi cho trẻ cùng tham gia bằng những hình thức
đơn giản nhưng trẻ lại được chơi và trải nghiệm những từ ngữ tiếng Việt mới.
Ví dụ: Với trò các trò chơi dấu dép cô cho trẻ đi tìm và chỉ hoặc nói địa

điểm cô dấu “ dép cô dấu ở đâu nhỉ?” “ Cô dấu dép ở gốc cây đào” … đây là
cách hướng dẫn trẻ chơi mà học từ mới trẻ cũng hiểu luôn ý nghĩa của những từ
mới học và chỉ những lần sau trẻ tự tìm và nói địa điểm cô dấu một cách rõ dàng
và tương đối đầy đủ.
- Giúp trẻ biết trả lời các câu hỏi :
Giúp trẻ phát triển khả năng hình dung và tưởng tượng thông qua các câu
hỏi gợi ý : Cái gì, ở đâu, thế nào, để làm gì, khi nào …
Nếu trẻ trả lời đúng phải khen ngợi, động viên – Nếu trẻ trả lời sai thì nhẹ
nhàng nhắc trẻ nghe thêm ý kiến của các bạn và cô nhắc lại câu hỏi và khuyến
khích bạn khác trả lời và cho trẻ yếu nhắc lại .
Tôi chú trọng đến sự phát triển của cá nhân, thường chú ý đến những trẻ
yếu về ngôn ngữ rụt rè trong lớp đây cũng là những đối tượng được ưu tiên.
- Xây dựng mối quan hệ tốt và giúp trẻ biết chơi đùa với bạn bè
Chơi đùa là một hoạt động rất quan trọng, qua các trò chơi trẻ có thể thiết
lập mối quan hệ tốt với cô giáo và bạn bè. Ngay cả trong các hoạt động hàng
ngày cũng đưa vào những câu nói và ý tưởng như một trò chơi
- Gọi tên sự vật nhiều lần.
Bất kể lúc nào khi cho con ăn, khi rửa chân tay, tôi gọi tên những đồ vật
xung quanh và chỉ cho trẻ thấy. “Đây là tivi”, “đây là chân cô”, “đây là chân
con”… Trò chuyện với trẻ bằng những câu ngắn và đơn giản: “Các con đói rồi
hả”, “cùng đi rửa tay cô lấy cơm cho ăn nhé”… Điều này giúp trẻ nhận thức
được đồ vật, xây dựng vốn từ và nhận biết mối liên hệ giữa hành động và lời
nói.
- Dạy trẻ cách nhìn, nghe và làm theo
Nhìn thẳng vào mắt trẻ để hướng dẫn trẻ nhìn vào vật rồi nhìn miệng cô để
xem cách phát âm. Lặp đi lặp lại nhiều lần, khuyến khích nói những điều trẻ
nhìn thấy. Điều đó có nghĩa là phải làm đi làm lại. Tạo thật nhiều cơ hội để trẻ
phải nói đi nói lại cái đó nhiều lần. Đó có thể là những bài hát, những quyển
sách hay những lời chỉ dẫn. Tôi làm theo một quy tắc và mọi thứ đã trở nên quen
thuộc với trẻ và khi trẻ đã quen, chúng sẽ hiểu và cố gắng làm giống như thế.

* Giải pháp 4: phối kết hợp với phụ huynh.
13


Đây là nội dung tôi luôn chú trọng bởi dù ít dù nhiều phụ huynh nào cũng
muốn con em mình học hành tiến bộ. Đối với những trẻ nhỏ ở nhà chưa biết hát
biết múa bằng tiếng Việt nhưng sau một thời gian đến lớp trẻ biết hát, đọc thơ và
kể lại chuyện cho bố mẹ nghe về những bài học ở lớp bằng tiếng phổ thông. Từ
đó giáo viên luôn nhận được sự phối kết hợp nhiệt tình của phụ huynh. Tôi
thường xuyên chao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ, đặc biệt chao
đổi về khả năng nói tiếng Việt của trẻ, và yêu cầu phụ huynh dạy trẻ thêm tiếng
Việt ở nhà:
Vì dụ: Tôi hướng dẫn cho phụ huynh khi ăn cơm anh chị hãy chỉ cho các
cháu biết những món ăn trong gia đình, khi tắm cho cháu chỉ cho các cháu các
bộ phận trên cơ thể, khi trẻ đi học về nhắc con chào ông bà….
Tuy trẻ đến lớp với cô hàng ngày nhưng cô không thể tập chung và mỗi cá
nhân và hiểu trẻ bằng bố mẹ. Vì vậy phối hợp với gia đình trong việc cung cấp
vốn tiếng việt cho trẻ lại càng tốt hơn. Qua các cuộc họp phụ huynh giáo viên
thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và đặc biệt không quên
cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng
việt của mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng nội quy
của trường mầm non là “Tất cả mọi người khi đến trường, lớp đều phải nói bằng
Tiếng việt” và nhà trường rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp
Tiếng việt cho trẻ thường xuyên ở nhà.
Ví dụ: Khi phụ đón trẻ cô chao đổi về nội dung bài học và gợi ý cho bố mẹ
về kiểm tra trẻ: Hôm nay cháu học làm quen với các con vật, anh chị hãy về nhà
hỏi cháu bằng tiếng Mông và cho cháu dịch tiếng Việt xem cháu biết nhiều
không nhé, yêu cầu phụ huynh dạy thêm cho trẻ...Từ những lời nói ấy đã thúc
đẩy phụ huynh quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng việt
ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ trong lớp tôi có nhiều cháu hiện giờ nói

tiếng Việt rất thành thạo loát ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt
điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị
ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và mọi người xung quanh.
3.2. Kết quả thực hiện:
Với sự cố gắng của bản thân cùng với sự giúp đỡ của lãnh đạo và đồng nghệp
trong khi thực hiện đề tài bản thân tôi đã thu được những kết quả như sau:
* Về bản thân:
- Qua quá trình nghiên cứu nắm bắt đặc điểm ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi tại
vùng dân tộc thiểu số.
- Đưa ra được hiều hình thức giảng dạy linh hoạt nhằm mở rộng tiếng Việt
cho trẻ. Bản thân có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy với đối tượng là
trẻ dân tộc thiểu số, luôn được ban giám hiệu nhà trường và đồng nghiệp đánh
giá cao trong việc sáng tạo linh hoạt việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng
dạy.
*. Đối với trẻ.
- Chất lượng ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ tăng lên rõ rệ, chất lượng các
lĩnh vực phát triển giáo dục cũng tăng cao
- Trẻ mạnh dạn và tự tin hơn khi đứng dậy phát biểu bài.
14


- Trên lớp với bạn bè trẻ sử dụng tiếng phổ thông nhiều hơn và cả giao tiếp với
cô trẻ cũng mạnh dạn sử dụng tiếng phổ thông để hỏi, trả lời những câu hỏi của
cô.
- 100% trẻ trên lớp đều nói và giao tiếp bằng tiếng việt chứ không dùng tiếng mẹ
đẻ ở trên lớp nữa.
- Trẻ chào ,hỏi với người lớn cũng dùng tiếng việt
- Trẻ thành thạo cả hai thứ tiếng
3.2.1 .Bài học kinh nghiệm.
Qua quá trình thực hiện như đã nêu trên, tôi rút ra một số bài học kinh

nghiệm như sau:
- Tìm hiểu kỹ đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi sau đó đưa ra
các giải pháp phù hợp với trẻ như: dạy cho trẻ nghe hiểu ngôn ngữ tiếng Việt
trước khi cho trẻ học nói tiếng Việt, dạy tiếng Việt cho trẻ thông qua các tình
huống thực tế trong các hoạt động học và sinh hoạt vui chơi hàng ngày của trẻ
chú trọng đến việc hình thành sự tự tin trong giao tiếp cho trẻ.
- Khi dạy trẻ cần kết hợp các biện pháp chỉnh sửa uốn nắn.
- Sử dụng các đồ dùng trực quan một cách sinh động phù hợp nhằm gây
hứng thú cho trẻ luôn hướng trẻ vào những từ mới.
- Đàm thoại lựa chọn những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu giúp trẻ hiểu từ và
thực hành từ ngữ hiệu quả nhất.
- Giáo viên nghiêm túc trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới.
- Tôn trọng, lắng nghe và không ngừng học tập đồng nghiệp.
- Giáo viên phải không ngừng tìm tòi, sưu tầm, đầu tư, bổ sung các đồ
dùng dạy học cho phong phú về chủng loại đưa vào giảng dạy.
3.3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
Bằng sự sáng tạo kết hợp với việc sử dụng hợp lý nhuần nhuyễn các biện
pháp trong quá trình giảng dạy và cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ đã mang lại
kết quả tương đối khả quan. Trẻ được học ngôn ngữ thứ hai một cách nhẹ nhàng
đặc biệt là những giờ học lại rất gần gũi với trẻ. Giúp trẻ nắm bắt kiến thức một
cách tốt hơn, trẻ hăng hái tham gia vào các hoạt động học và vui chơi, trẻ tự tin
hơn khi chao đổi trò chuyện cùng cô bằng tiếng Việt
Trẻ có nhiều cơ hội được học tiếng Việt với nhiều hình thức và tình huống
khác nhau góp phần phát triển ngôn ngữ thứ hai, hình thành sự tự tin, tính sáng
tạo, nhân cách cho trẻ.
Giúp giáo viên biết lựa chọn những biện pháp để tăng cường tiếng Việt
cho trẻ một cách hiệu quả nhất.
- Đề tài đã được nghiên cứu và ứng dụng và có hiệu quả tại lớp mẫu giáo
lớn 5 tuổi lớp ghép ... trong Trường mầm non ... trong năm học 2016 – 2017.
- Có khả năng ứng dụng đối với tất cả các lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi

trong nhà trường.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận
Bằng những hiểu biết về thực trạng vốn tiếng Việt của trẻ 5 tuổi trong
nhà trường và của lớp học mà tôi lựa chọn đề tài "Một số biện pháp nâng cao
tăng cường tiếng việt cho trẻ 5 tuổi lớp ghép ...
15


Qua nghiên cứu đã đưa ra những biện pháp tăng cường vốn tiếng Việt cho
trẻ phù hợp hợp với thực trạng của đề tài, đem lại kết quả tương đối cao so với mục
đích yêu cầu đề ra: Chú trọng các giải pháp dạy trẻ nghe hiểu câu từ và nói chính
xác câu từ đó, sử dụng đồ dùng trực quan sinh động phù hợp có hiệu quả, tạo môi
trường học ngôn ngữ phong phú cho trẻ. Đưa ra được giải pháp hình thành tính tự
tin cho trẻ trong giao tiếp, đây cũng là một điểm mới trong việc áp dụng để phát
triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ trong nhà trường.
Trong khi thực hiện các biện pháp trẻ được học và chơi trong môi trường
tiếng Việt, giúp khả năng nhận thức, tiếp thu bài của trẻ tăng lên, trẻ luôn vui vẻ để
đến lớp và tham gia các hoạt động. Trẻ thích thể hiện mình với cô và các bạn, trẻ
mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
Chất lượng ngôn ngữ tiếng Việt tăng lên rõ rệt cùng với đó là chất lượng
giáo dục trẻ cũng tăng theo.
2. Những kiến nghị và đề xuất.
Để thực hiện tốt hơn khi triển khai chuyên đề tôi xin đề xuất với cấp trên
một số kiến nghị sau.
- Ban giám hiệu quan tâm nữa về công tác bồi dưỡng nghiễn cứu khoa
học.
- Đầu tư cho lớp thêm về tài liệu giảng dạy, và những tài liệu có liên quan
đến lĩnh vực hát triển ngôn ngữ theo đối tượng vùng miền.
- Đầu tư thêm trang thiết bị dạy học

- Cùng với từng bài dạy ,giáo viên cần dùng các thủ thuật khác nhau để dẫn dắt
vào bài,chuyển hoạt động một cách hấp dẫn .
-Thường xuyên tham gia học hỏi đồng nghiệp ,xin dự giờ học tập trường.
-Tham gia tập huấn do phòng ,sỏ tổ chức để tiếp thu những phương pháp mới
trong những điều hay dể ghi vào sổ tích lũy chuyên môn của mình.
-Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với chuyên môn với đồng nghiệp ,cùng
thảo luận đưa ra ý kiến dạy trẻ hoạt động tăng cường tiếng việt .
-Có kiến nghi với nhà trường để xin một số đồ dùng cần thiết nhằm phục vụ cho
môn học ,luôn làm các đồ dùng đồ chơi dể phục cho hoạt động nay.
-Đối với trẻ cô luôn luôn tạo tình huống mới lạ để trẻ hứng thú học và luôn thay
đổi hình thức dạy hoạt động tăng cường tiếng việt được tốt hơn.
-Đối với trẻ nói lắp,nói chớt,nói ít,ít tham gia hoạt động cô cần chú ý uốn nắn trẻ
,động viên trẻ mọi lúc mọi nơi.
-Năm vững phương pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn làm quen với hoạt động tăng
cường tiếng việt từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình.
-Tạo môi trường hoạt động tăng cường tiếng việt phong phú,cuốn hút trẻ và vận
dụng môi trường đó để tư duy trong các hoạt động.
Trên đây là một vài suy nghĩ về việc làm cụ thể của bản thân tôi trong
quá trình công tác cũng như trong mọi hoạt động. Rất mong được sự góp ý của
đồng nghiệp và sự xem xét, đánh giá, ghi nhận của Hội đồng khoa học các cấp.
Phụ lục
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài

1
16


2.Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu

b. Nhiệm vụ nghiên cứu
3. đối tượng nghiên cứu.
4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu
6.Phạm vi và kế hoạch nghi ên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận
Chương 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1 Thuận lợi
2.2 Khó khăn
Chương 3: Các giải pháp và kết quả thực hiện

2
2
3
3
3
3
4
5
5
6
6
7
7

3.1 Các giải pháp

7


3.1.1 Giải pháp thực hiện
3.2. Kết quả thực hiện:
3.2.1 .Bài học kinh nghiệm.
3.2.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận
2. Những kiến nghị và đề xuất.

8,9,10,11,12,13
14
15
15
16
16

17



×