Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam (1945 1954), lớp 12 THPT(chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN MINH

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỢP TÁC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1945 – 1954),
LỚP 12 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

TRÀ VINH – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN MINH

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỢP TÁC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1945 – 1954),
LỚP 12 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

Chuyên ngành: LL và PPDH Lịch Sử
Mã số : 60140111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thế Bình

TRÀ VINH – 2017



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chu đáo, tận tình đầy trách nhiệm của
PGSTS. Nguyễn Thị Thế Bình đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các thầy cô trong tổ bộ môn
Phương pháp dạy học lịch sử, cũng như các thầy cô dạy bộ môn của trường Đại
học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập cũng
như trong quá trình nghiên cứu.
Cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh trường THPH Tiểu Cần và các
trường chúng tôi điều tra thực tế, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong việc thực nghiệm
sư phạm.
Cảm ơn bạn bè, người thân đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 27 tháng 01 năm 2016
Học viên

Nguyễn Văn Minh

1


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa

Cách viết tắt

1


BHLS

Bài học lịch sử

2

DHLS

Dạy học lịch sử

3

GV

Giáo viên

4

HS

Học sinh

5

KN

Kĩ năng

6


KTDH

Kĩ thuật dạy học

7

KT, ĐG

Kiểm tra, đánh giá

8

NLHT

Năng lực học tập

9

NXB

Nhà xuất bản

10

PPDH

Phương pháp dạy học

11


SGK

Sách giáo khoa

12

THPT

Trung học phổ thông

13

GQVĐ

Giải quyết vấn đề

14

TD

Thực dân

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Biểu đồ Tổng hợp ý kiến của GV về lựa chọn phương pháp trong một bài
lịch sử.
Biểu 1.2: Biểu đồ Tổng hợp ý kiến của HS về việc sử dụng các biện pháp dạy học nhằm
phát triển năng lực hợp tác cho HS.

2



MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
7. Đóng góp của đề tài
8. Bố cục của luận văn
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC HỢP TÁC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
THPT
1.1. Cơ sở lý luận của việc phát triển NLHT cho học sinh trong DHLS ở trường THPT
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm về “năng lực”
1.1.1.2. Khái niệm “hợp tác”
1.1.1.3. Năng lực hợp tác
1.1.1.4. Năng lực hợp tác trong dạy học Lịch sử
1.1.1.5. Phát triển năng lực hợp tác trong dạy học lịch sử
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc phát triển năng lực hợp tác cho HS trong DHLS ở trường
THPT
1.1.3. Nội dung của năng lực hợp tác cần phát triển cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở
trường THPT
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học
lịch sử
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2. 1 Về phía giáo viên
1.2. .2 Về phía học sinh


3


CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỢP TÁC CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1945-1954), lớp 12 THPT
(chương trình chuẩn)
2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung của Lịch sử Việt Nam (1945-1954) THPT – Chương
trình chuẩn
2.1.1. Vị trí, mục tiêu của Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954
2.1.2. Nội dung cơ bản lịch sử Việt Nam 1945-1954 (THPT- Chương trình chuẩn)
2.2. Xác định hệ thống kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam (1945-1954) cần khai thác
để phát triển năng lực hợp tác cho học sinh
2.3. Những yêu cầu sư phạm khi xác định các biện pháp phát triển NLHT cho học sinh
trong dạy học Lịch sử Việt Nam 1945-1954 ở trường THPT
2.4. Một số biện pháp phát triển NLHT cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam
1945-1954 ở trường THPT (Chương trình chuẩn)
2.4.1. Trong bài nội khóa
2.4.1.1. Tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm
2.4.1.2. Tổ chức cho học sinh theo dự án
2.4.1.3. Tổ chức học sinh học tập theo chủ đề
2.4.1.4 .Kỹ thuật động não
2.4.2. Trong hoạt động ngoại khóa
2.4.2.1. Tổ chức hướng dẫn viên du lịch giới thiệu lễ hội cúng trăng của người khmer
Nam Bộ(Ok-om-bok).
2.4.2.2 Kể chuyện Lịch sử .
2.5. Thực nghiệm sư phạm
2.5.1. Mục đích thực nghiệm
2.5.2. Đối tượng thực nghiệm
2.5.3. Nội dung thực nghiệm
2.5.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm

2.5.5. Kết quả thực nghiệm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Vì sao phải phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở
trường THPT?. Do xuất phát từ những yếu tố sau: Những năm đầu thế kỉ XXI, kinh tế thế
giới phát triển, xu hướng quốc tế hóa diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế trí tuệ được hình
thành và xu hướng cải tổ, đổi mới diễn ra trên nhiều lĩnh vực.Vì thế giáo dục cũng phải
luôn luôn vận động đổi mới, giáo dục không chỉ có chức năng truyền tải kinh nghiệm lịch
sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau, mà quan trọng nhất là trang bị cho mỗi người
học tìm ra con đường để họ thích ứng với xã hội, với thời đại, đó là điều hết sức cần thiết
của giáo dục hiện đại, để trang bị cho người học kĩ năng sống.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của đất nước ta, để đạt mục tiêu trở thành nước công
nghiệp và hội nhập quốc tế vào năm 2020, là phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát
triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo quyết định. QĐ711/QĐ-TTg ngày
13/06/2012 của Thủ tướng chính phủ chỉ rõ “tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và
đánh giá kết quả học tập rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo và năng lực tự học của người học”.
Trong khung năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh phổ thông, NLHT
được coi là một trong những năng lực cốt, lõi quan trọng. Bởi hợp tác không chỉ là nhu
cầu tăng thêm sức lực hoặc trí lực để hoàn thành những mục tiêu chung, mà quan trọng
hơn do mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đang ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn bao giờ hết,
vì vậy nhu cầu hợp tác đã trở nên bức thiết với mọi cá nhân và cộng đồng. Cự tuyệt hợp
tác hoặc thiếu khả năng hợp tác đồng nghĩa với trì trệ và kém phát triển. Cuộc sống mới
đòi hỏi phải nhận thức vai trò và khả năng hợp tác như là một giải pháp chủ yếu để nhân

loại chung sống và phát triển.
Trong dạy học lịch sử, NLHT là những hành động, kỹ thuật, thái độ học tập được
thực hiện một cách đúng đắn, linh hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả trên cơ sở vận dụng những
tri thức, kinh nghiệm học tập hợp tác với giáo viên và bạn học trong môi trường nhóm
nhằm thực hiện mục tiêu học tập Lịch sử. Dạy học phát triển NLHT sẽ góp phần giúp học
sinh biết đoàn kết, chia sẻ cùng giải quyết các nhiệm vụ học tập cũng như các vấn đề xảy
ra trong cuộc sống.
Nhưng trên thực tế việc đổi mới PPDH, kiểm tra, đánh giá của bộ môn Lịch sử ở
trường THPT vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, chưa chú trọng nhiều đến việc

5


phát triển các năng lực nói chung và NLHT nói riêng cho học sinh. Dạy học vẫn nặng về
truyền thụ kiến thức, lý thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng họp tác, kĩ năng
giao tiếp trong các tình huống thực tiễn chưa thực sự được quan tâm. Một trong những
PPDH có ưu thế trong việc phát triển NLHT cho học sinh là dạy học theo nhóm chưa
được thực hiện có hiệu quả: hoạt động nhóm mang tính hình thức, các kĩ thuật dạy học
tích cực chưa được áp dụng, phương pháp làm việc nhóm chưa phát huy được tinh thần
đồng đội, trí óc tập thể... Có thể kết luận rằng, việc phát triển NLHT cho học sinh trong
dạy học môn Lịch sử chưa được nhiều giáo viên quan tâm và việc dạy học theo hướng
phát triển năng lực học sinh cũng còn khá mới mẻ đối với giáo viên và học sinh.
Trong chương trình lịch sử lớp 12 THPT- Chương trình chuẩn, lịch sử Việt Nam
giai đọan 1945-1954, là giai đoạn tiếp nối và là giai đoạn kết thúc cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp được thể hiện như sau. Sau khi tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, rất nhiều khó
khăn đặt ra cho nhân dân ta lúc bấy giờ. Đó là: kẻ thù trên đất nước còn rất đông, khó
khăn do chính quyền cách mạng vừa mới ra đời còn non trẻ, khó khăn do chế độ cũ để lại
với 90% dân số mù chữ, nạn đói tràn lan và nguồn tài chính quốc gia cạn kiệt…. Đảng ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn thể nhân dân ra sức củng cố chính

quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của chế độ mới, giải quyết các khó khăn
trước mắt, kháng chiến chống TD Pháp trở lại xâm lược nước ta ở miền Nam và tiến
hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Những
biện pháp giải quyết khó khăn đúng đắn, tài tình của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua hiểm nguy đã có tác dụng to
lớn trong cuộc kháng chiến chống TD Pháp sau đó.
Trước dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa của TD Pháp, ngày 19-12-1946 cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động
cuộc kháng chiến toàn quốc và vạch ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kì, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng được thể hiện sinh động trong thực tiễn cuộc
kháng chiến. Thực hiện đường lối kháng chiến, quân dân ta đã giành được những thắng
lợi to lớn trên các lĩnh vực: quân sự, văn hóa, kinh tế, giáo dục...

6


Đây là giai đoạn diễn ra nhiều sự kiện, những thắng lợi lớn của quân và dân ta trong quá
trình kháng chiến chống thực dân Pháp và sự can thiệp của Mĩ vào Đông Dương với
chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội khắp toàn cầu.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề: Phát triển
năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1945-1954), lớp 12
THPT(chương trình chuẩn) làm luận văn thạc sĩ
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài :
Năng lực và phát triển năng lực từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và rút
ra một số thành tựu quan trọng. Từ những thành tựu đó, tôi đã vận dụng để giải quyết
những vấn đề nghiên cứu luận văn của mình.
2. 1 Các nghiên cứu ở nước ngoài
Dạy học hợp tác là ý tưởng có từ rất lâu đời, đã được rất nhiều nhà giáo dục trên thế
giới quan tâm và ngày nay sự quan tâm đó càng được chú trọng hơn bao giờ hết, nhằm

hình thành và phát triển NLHT cho người học, để tạo ra một nguồn lực mới thích ứng với
thời đại.
Đến thế kỷ XVII, Jan Amôt Komenxki tin rằng, học sinh sẽ học tốt từ việc dạy cho
bạn bè và học từ bạn bè của mình… Từ thế kỷ XVIII, lý thuyết về học tập hợp tác đã
được thực hiện khá phổ biến ở các nước tư bản. Các nhà giáo dục tiên tiến đều đã nói đến
lợi ích của việc học tập hợp tác, học sinh học với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó tạo ra một
môi trường học tập thuận lợi.
Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Marco Fabio Quintilin cho rằng, người học sẽ có rất lợi
nếu biết nói những điều mình hiểu cho người khác cùng hiểu. Cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ
XIV, Reveren Bebel và Joseph Lancaster người Anh đã tổ chức dạy học cho nhóm nhỏ,
họ chia học sinh thành từng nhóm để hoạt động. Thông qua hoạt động nhóm, người học
cùng nhau trao đổi, chia sẻ, giúp nhau tìm hiểu, khám phá vấn đề và thu hút được kết quả
học tập tốt.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, John Dewey nhà giáo dục Mỹ cùng với các cộng sự,
trong cuốn sách có tựa đề: “ Dân chủ và giáo dục”, ông đã tìm ra và thực thi tư tưởng đề
cao khía cạnh xã hội của việc học và vai trò cả nhà giáo dục trong việc giáo dục học sinh
một cuộc sống dân chủ. Dewey cho rằng: Con người có bản chất sống hợp tác, trẻ cần
được dạy biết thông cảm, tôn trọng quyền của người khác, làm việc cùng nhau để giải
quyết vấn đề theo lẽ phải và phải được trãi nghiệm quá trình sống hợp tác trong nhà

7


trường. Cuộc sống trong lớp học cần được thể hiện quá trình dân chủ hóa trong một thế
giới vi mô mà trung tâm của cuộc sống dân chủ ở đây là sự hợp tác giữa các thành viên
trong nhóm. Theo ông sự hợp tác của người học cần phải tuân theo hai nguyên tắc, đó là
đảm bảo sự liên tục và tác động qua lại. Ông đã tuyên bố, giáo dục là cuộc đời, chứ
không phải là nơi chuẩn bị vào đời.
Trong thời gian từ năm 1930 đến 1940, nhà tâm lý học xã hội Kurt Lewin đã nghiên
cứu hành vi của các nhà lãnh đạo và thành viên trong các nhóm dân chủ. Ông Nhấn mạnh

đến tầm quan trọng của cách cư xử trong nhóm và xây dựng lý thuyết cơ sở về học tập
hợp tác. Sau đó, Morton Deutsch đã phát triển lý luận về hợp tác và cạnh tranh trên cơ sở
“Những lý luận nền tảng” của Lewin. Năm 1940 Morton Deutsch đưa ra lý thuyết về các
tình huống hợp tác cạnh tranh. Lý thuyết học tập của Kurt Lewin được coi là cơ sở đưa
đến hàng loạt những nghiên cứu và cuộc tranh luận sau đó.
Hai nhà nghiên cứu Glasser (1969) và Colenam (1972) nhấn mạnh vai trò của hợp
tác khi tuyên bố mục tiêu chính của nhà trường là giáo dục học sinh trở thành những
người biết hợp tác với người khác thông qua quan sát sự tương tác và tranh đua với nhau
trong các trường học tại Mỹ.
Raja Roy Singh (1994), nền giáo dục cuối thế kỷ XXI – Những triển vọng của các
nước vòng cung Châu Á – Thái Bình Dương, đã đề cập đến nhiều nội dung cho giáo dục
thế kỷ XXI. Song vấn đề được đề cập nhiều hơn cả về giáo dục con người là hình thành
cho học năng lực sáng tạo, có kỹ năng hợp tác chung sống với người khác, biết gắn bó
con người với xã hội trong giới hạn toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu
rộng. Theo ông một trong những PPDH đạt được mục tiêu trên là mô hình dạy học hợp
tác, học tập từ bạn bè, từ cộng đồng, từ lao động và các hoạt động xã hội và sự hoàn thiện
của hoạt động học là sự chia sẻ, người ta càng học thì lại càng khát khao được chia sẻ.
Các tác giả Robert J.Marzano, Debra J. Pickering, Jane E.Pollock (2011) trên cơ sở các
công trình nghiên cứu thực tế giảng dạy và các tổng hợp lý thuyết đã giới thiệu cuốn: “
Các phương pháp dạy học hiệu quả” (Nguyễn Hồng Vân dịch) với mục đích phát huy cao
độ khả năng học tập của học sinh và chất lượng dạy học của giáo viên. Các tác giả đã giới
thiệu các phương pháp dạy học hiệu quả như: nhận ra sự giống nhau và khác nhau, khích
lệ và ghi nhận sự cố gắng, bài tập về nhà… trong đó, các tác giả dành riêng một chương
để giới thiệu phương pháp học phối hợp tong tổ nhóm nhằm phát huy được NLHT cho
học sinh.

8


Trong cuốn “Quản lý lớp học hiệu quả”, Robert J.Marzano (2011) (người dịch Phạm

Trần Long) cho rằng, trong ba vai trò của giáo viên đứng lớp: lựa chọn biên pháp giảng
dạy, thiết kế chương trình giảng dạy và áp dụng các biên pháp quản lý lớp học hiệu quả
thì quản lý lợp học là nền tảng. Giáo viên phải tổ chức được các hoạt động để phát huy
tính tích cực, tự giác và chủ động giúp học sinh “tư duy qua từng bước” để rèn kỹ năng
xã hội và giải quyết vấn đề, trong đó nhấn mạnh phương pháp học theo nhóm.
2.2 Các nghiên cứu trong nước.
Tư tưởng học tập hợp tác ở nước ta đã có từ rất lâu đời, trong ca dao tục ngữ có câu
“một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hoặc chuyện “Bó
đũa”,… điều này cho thấy lợi ích của việc hợp tác trong học vô cùng cần thiết . Những
năm gần đây, với xu thế đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh,
cùng với trào lưu hội nhập quốc tế, các nhà nghiên cứu thấy rằng cần tổ chức cho học
sinh hoạt động học tập theo nhóm nhằm phát triển NLHT cho học sinh.
- Những tài liệu giáo dục học, tâm lý học.
Các nhà tâm lý học nói chung cũng như người dạy học lịch sử nói riêng bao giờ cũng
quan tâm đến vấn đề phát huy tính tích cực, độc lập và phát triển kỹ năng cho học sinh.
Trong cuốn “Giáo dục học” tập 1 của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (Nxb GD, Hà Nội,
1987) và cuốn “Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại” nhà xuất bản giáo dục
(1998) của Thái Duy Tiên đã đề cập tới những vấn đề chung của lý luận dạy học hiện đại
từ cơ sở triết học của giáo dục đến các đối tượng, mô hình của giáo dục… tác giả đã cung
cấp cái nhìn toàn diện hơn về lý luận dạy học hiện đại, đặc biệt là việc phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Tác giả Thái Duy Tuyên (2008) trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống và
đổi mới” đã đi sâu nghiên cứu dạy học hợp tác nhóm và xem đây là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Ông đã
chỉ rõ khái niệm, tầm quan trọng của dạy học hợp tác, những ưu nhược điểm của học tập
hợp tác, những tính chất cơ bản của sự hợp tác trong học tập. Theo ông, kỹ năng học tập
hợp tác là một loại kỹ năng quan trọng đối với con người cũng như đối với học sinh, bởi
vì hầu hết các mối quan hệ của con người đều là hợp tác. Mỗi kỹ năng liên quan đến con
người đều được coi là kỹ năng hợp tác.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2015) trong “Tâm

lý học đại cương” nhà xuất bản Đại học Sư phạm, cũng đã nói đến khái niệm “năng lực”,

9


các mức độ của năng lực, phân loại của năng lực và mối quan hệ giữa năng lực với tư
chất, thiên hướng và tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Tác giả cũng thống nhất cho rằng “năng
lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của hoạt
động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt”.
Đặng Thành Hưng(2002) trong cuốn “Dạy học hiện đại – lý luận, biện pháp, kỹ
thuật”, trên cơ sở khái quát các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đã đưa
ra khái niệm nhóm hợp tác so sánh với kiểu học tranh đua, chỉ ra tầm quan trọng của kỹ
năng học tập hợp tác và các nguyên tắc đảm bảo cho dạy học hợp tác thành công.
Nguyễn Hữu Châu (2011) trong cuốn “Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá
trình dạy học” đã đề cập đến dạy học hợp tác. Tác giả đã chỉ ra dạy học hợp tác là sử
dụng nhóm nhỏ để học sinh làm việc cùng nhau nhằm phát huy tối đa kết quả học tập của
bản thân. Tác giả cũng cho rằng học tập hợp tác phức tạp hơn học cá nhân, các thành viên
trong nhóm phải biết đưa ra quyết định, xây dựng lòng tin, giải quyết mẫu thuẩn và
khẳng định rèn luyện kỹ năng học tập cá nhân, học tranh đua, học hợp tác trở thành mục
tiêu kép trong dạy học.
Nhìn chung, trong các bài báo khoa học các tác giả đã tổng kết những vấn đề lý luận
chung về NL, từ đó đưa ra hệ thống biện pháp phát triển NLTH cho HS. Đây chính là
nguồn tài liệu quý báu định hướng cho việc nghiên cứu vấn đề phát triển NLTH cho HS
trong dạy học môn LS ở trường THPT của chúng tôi.
Như vậy, vấn đề phát triển NLTH cho HS đã được đề cập đến ở một số sách, công
trình nghiên cứu. Hầu hết các tác giả đều khẳng định vai trò ý nghĩa quan trọng của việc
phát triển NLTH cho HS, trong việc nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện khả năng tư
duy độc lập, sáng tạo cho người học. Đồng thời các tác giả đều đề xuất những biện pháp
để nâng cao chất lượng . Đây là nguồn tài liệu quí giá để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên
cứu và tìm ra những giải pháp phát triển NLTH cho HS trong quá trình dạy học bộ môn

LS ở trường THPT. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề phát triển năng
lực hợp tác cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam (1945-1954), nên chúng tôi đi
sâu nghiên cứu vấn đề này, với mong muốn sẽ là nguồn tài liệu cho giáo viên trong quá
trình nghiên cứu giảng dạy bộ môn Lịch sử.
Qua các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy trong cộng đồng hợp tác là đều
hết sức cần thiết, trong học tập việc tập hợp nhóm giữa học sinh với học sinh để phát

10


triển các mối quan hệ hợp tác giữa con người với con người, vừa là mục tiêu vừa là điều
kiện, vừa là môi trường của dạy học có hiệu quả.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: Quá trình dạy học Lịch sử Việt Nam ở trường THPT và các biện pháp phát
triển NLHT cho học sinh trong DHLS.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung đi sâu vào biện pháp góp phần phát triển NLHT
cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến năm 1954 – Chương trình
chuẩn.
- Phạm vi điều tra: Do thời gian thực hiện đề tài không cho phép, nên việc điều tra chỉ
diễn ra ở một số trường THPT trong tỉnh Trà Vinh. Chúng tôi chỉ tiến hành thực nghiệm
sư phạm một số bài 17, 18, 19 , 20, ở lớp 12 chương 3.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của của đề tài.
-Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận của việc phát triển năng lực
và hợp tác trong môn lịch sử, để thấy được ý nghĩa của nó đối với việc học tập bộ môn.
Đề tài xác định một số biện pháp có tác dụng nâng cao NLHT cho học sinh, góp phần
phát triển năng lực nhận thức, cùng nhau giải quyết các vấn đề để đạt được mục đích học
tập. Nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
- Tìm hiểu lý luận của các nhà triết học, các nhà giáo dục học và các tài liệu có liên

quan đến vấn đề phát triển NLHT cho HS trong DHLS ở trường THPT.
- Khảo sát, điều tra thực tiễn dạy học nói chung, dạy học nhằm phát triển NLHT trong
DHLS nói riêng.
- Khai thác nội dung chương trình SGK Lịch sử Việt Nam lớp 12 THPT - chương trình
chuẩn (giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954).
- Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực cho học sinh. Tiến hành thực nghiệm sư
phạm để khẳng định tính khả thi của các biện pháp đề ra.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục đào tạo nói chung, dạy học lịch sử nói

11


riêng. Lý luận về tâm lý học, giáo dục học và phương pháp dạy học lịch sử của các nhà
khoa học và giáo dục học lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý thuyết: Các nguồn tư liệu của các tác giả nghiên cứu về giáo dục học, lý
luận dạy học, phân tích, so sánh, tổng hợp các tư liệu trong giai đoạn lịch sử Việt Nam
1945 – 1954.
- Điều tra, khảo sát thực tiễn việc sử dụng các biện pháp dạy học theo hướng phát triển
NLHT cho học sinh ở trường THPT, hiện nay thông qua phiếu điều tra dự giờ, thăm lớp.
- Thực nghiệm sư phạm: Soạn bày và tiến hành thực nghiệm sư phạm những biện pháp
đề tài, đề xuất và kiểm nghiệm hiệu quả những biện pháp đề tài, đề xuất trong thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Ý nghĩa khoa học:
- Xác định những nhận thức đúng đắn về vai trò ý nghĩa của việc phát triển NL cho HS
trong DHLS để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THPT.
- Phản ánh thực tiễn của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung và

phát triển NLHT nói riêng ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp để phát triển NLHT cho học sinh góp phần nâng cao hiệu quả
bài học lịch sử ở trường THPT khi dạy học phần lịch sử Việt Nam (1945 - 1954) .
Ý nghĩa thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu giúp GV môn LS ở trường THPT vận dụng vào thực tiễn dạy học
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Đồng thời vận dụng tốt hơn vào thực
tiễn giảng dạy sau này.
- Giúp các giáo viên có tài liệu tham khảo để sử dụng trong dạy học nói chung và dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn (1945-1954) nói riêng.
7. Đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm phong phú hơn lý luận dạy học bộ môn lịch sử nói chung, phát triển năng
lực cho học sinh nói riêng trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT. Qua đó góp
phần nâng cao chất lượng bộ môn.
8. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực hợp tác cho học sinh
trong dạy học lịch sử ở trường THPT.

12


Chương 2: Một số biện pháp phát triển năng lực hợp tác cho học sinh trong dạy học lịch
sử Việt Nam (1945 - 1954) , lớp 12 THPT (chương trình chuẩn).

13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỢP TÁC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

Ở TRƯỜNG THPT
1.1.

Cơ sở lý luận của việc phát triển NLHT cho học sinh trong DHLS ở trường
THPT
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
Đã có nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch sử trên thế giới và trong

nước có những công trình nghiên cứu đề cập đến năng lực và hợp tác năng lực. Nhìn
chung, các công trình nghiên cứu đã nêu lên được các vấn đề lý luận và thực tiễn, biện
pháp sư phạm cụ thể để gây hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ
môn.
1.1.1.1 Khái niệm về “năng lực”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực (NL). Ví dụ: “Năng lực là khả năng
cá nhân đáp ứng các yêu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh
cụ thể”. Năng lực là các khả năng và kĩ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay cá thể học
được để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó
tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách
thành công và có trách nhiệm các giải pháp trong những tình huống thay đổi (Weinert,
2001).
Năng lực của người học là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thúc, kĩ năng,
thái độ phù hợp với lứa tuổi và kết nối chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công
nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc
sống (Nguyễn Công Khanh, 2013). Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con
người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội.
Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông xác định mục tiêu đổi mới là:“Đổi mới toàn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp
và hình thức tổ chức giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo yêu cầu
phát triển phẩm chất và năng lực học sinh”.


14


Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thề của Bộ giáo dục công bố (ngày
12/04/2017) có đề cập đến:10 năng lực cốt lõi (những năng lực mà ai cũng cần có để
sống và làm việc trong xã hội hiện đại), bao gồm năng lực chung được tất cả các môn học
và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển ba năng lực cốt lõi bản sau: năng
lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo. Từ đó chúng ta khẳng định rằng năng lực hợp tác là một trong ba năng lực cốt lõi
nhất để phát triển cho học sinh trong quá trình dạy học ở trường trung học phổ thông.
Tóm lại, dựa trên quan niệm của nhiều tác giả đưa ra ở trên chúng tôi định nghĩa
như sau: Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất
định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như
hứng thú, niềm tin, ý chí… NL của cá nhân được đánh giá qua phương thức và khả năng
hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Như vậy, năng lực
không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói về một
lĩnh vực cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán
học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực dạy học của hoạt động
giảng dạy... NL của HS là một cấu trúc động, có tính mở, đa thành tố, đa tầng bậc, hàm
chứa trong nó không chỉ là kiến thức, KN mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội…
thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của các em trong môi trường học tập phổ thông và
những điều kiện thực tế đang thay đổi của xã hội.
Xác định các năng lực chuyên biệt trong môn lịch sử.
Có nhiều quan niệm khác nhau trong việc xây dựng chuẩn các kĩ năng chuyên
biệt trong dạy học từng môn học ở trường phổ thông như: Xây dựng các năng lực chuyên
biệt từ những năng lực chung (năng lực cốt lõi); xây dựng các năng lực chuyên biệt từ
đặc thù kiến thức của bộ môn…
Ở cách tiếp cận thứ nhất, chúng ta xác định các năng lực chung mà toàn bộ quá
trình giáo dục ở trường phổ thông đều phải hướng tới để hình thành cho người học. Sau
đó, từng môn học cụ thể sẽ xác định sự thể hiện cụ thể của các năng lực chung vào trong

môn học của mình như thế nào.
Ở cách tiếp cận thứ hai, chúng ta dựa trên đặc thù nội dung, phương pháp nhận
thức và vai trò của môn học đối với thực tiễn để đưa ra hệ thống năng lực cần hình thành
cho học sinh.

15


Ở đây chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận thứ nhất để xác định hệ thống năng lực
cần hình thành, phát triển và là cơ sở để đánh giá kết quả học tập của các em trong dạy
học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông. Đối với dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, các
năng chung sẽ được cụ thể hóa như bảng sau:
Năng lực chung

STT

Biểu hiện trong môn Lịch sử

I Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân
1.

Năng lực tự học

- Kĩ năng khai thác lược đồ, bản đồ, tranh ảnh lịch
sử, phim tư liệu để tìm kiếm nội dung lịch sử
thông qua kênh hình.
- Đọc và phát hiện kiến thức cơ bản trong sách
giáo Lịch sử.
- Khả năng tự tìm kiếm kiến thức lịch sử thông
qua tài liệu tham khảo.

- Kĩ năng kết hợp đọc sách giáo khoa với nghe
giảng với tự ghi chép.
- Khả năng trả lời câu hỏi và tự đặt câu hỏi
- Khả năng tự hệ thống hóa kiến thức ôn tập, củng
cố kiến thức

2.

Năng lực giải quyết vấn - Kĩ năng nhận thức và giải quyết một vấn đề lịch
đề

sử.
- Khả năng vận dụng kiến thức lịch sử để làm bài
tập lịch sử.
- Kĩ năng đưa ra được cách thức câu trả lời cho
các câu hỏi đã đặt ra.
- Kĩ năng lựa chọn được các cách thức giải quyết
vấn đề lịch sử, vấn đề, tình huống thực tiễn một
cách tối ưu.
- Kĩ năng trình bày diễn diến cuộc kháng chiến,

16


trận đánh, chiến dịch, cuộc chiến tranh trên lược
đồ, sơ đồ, bản đồ lịch sử.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức lịch sử để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cuộc sống, hay các
vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và thế
giới.

- Kĩ năng xác định và giải quyết được mối liên hệ,
ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện lịch sử với
nhau.
3.

Năng lực sáng tạo (năng - Tư duy tái tạo (kĩ năng ghi nhớ sự kiện;Tưởng
lực tư duy)

tượng, kĩ năng tái tạo…)
- Tư duy sáng tạo (kĩ năng so sánh; kĩ năng phân
tích; kĩ năng phản biện; kĩ năng khái quát hóa…)
- Kĩ năng trả lời câu hỏi, bài tập lịch sử một cách
sáng tạo.
- Kĩ năng nhận xét, rút ra bài học kinh nghiệm từ
những sự kiện, hiện tượng, nhân vật, vấn đề lịch
sử.

II. Nhóm năng lực về quan hệ xã hội
4.

Năng lực giao tiếp

- Khả năng sử dụng được ngôn ngữ lịch sử để
trình bày một nội dung kiến thức,
- Diễn đạt được ngôn ngữ lịch sử qua các thời kì,
tránh hiện đại hóa lịch sử.
- Sử dụng ngôn ngữ để biểu cảm và tái hiện cảm
xúc lịch sử.

5.


Năng lực hợp tác, hội - Kĩ năng làm việc theo nhóm, tập thể để giải
nhập

quyết một nhiệm vụ học tập.
- Kĩ năng chia sẻ thông tin lịch sử

17


III. Nhóm năng lực công cụ
Năng lực sử dụng côn - Kĩ năng khai thác internet (thông tin tư liệu,

6.

nghệ thông tin và truyền tranh ảnh, bản đồ, phim tư liệu…) để tìm kiếm
thông (ICT)

nội dung kiến thức lịch sử.
- Kĩ năng sử dụng phần mềm dạy học như sơ đồ
tư duy, Powerpoint trình để trình bày nội dung
lịch sử

Năng lực sử dụng ngôn - Kĩ năng trình bày, lập luận, thể hiện chính kiến

7.

ngữ

của mình về một nội dung kiến thức lịch sử bằng

ngôn ngữ viết.
- Kĩ năng thuyết trình bằng lời nội dung kiến thức
lịch sử.

Năng lực tính toán

8.

Sử dụng thống kê toán học trong học tập bộ môn
lịch sử như vẽ sơ đồ, biểu đồ, đồ thị lịch sử

Trên cơ sở tiếp thu các quan niệm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi cho rằng:
Năng lực là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả hành động, giải quyết các
nhiệm vụ vấn đề trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo
và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Năng lực được tạo nên từ các thành tố:
kiến thức, kĩ năng, thái độ và động cơ hành động... thể hiện trong bối cảnh cụ thể, các yếu
tố này không tồn tại riêng lẻ mà đan xen vào nhau. Do đó, năng lực ở mỗi người có được
nhờ sự bền bỉ, kiên trì học tập, rèn luyện và trải nghiệm.
Trong những yếu tố trên, kĩ năng là nhân tố cốt lõi tạo thành, năng lực của con
người. “Kĩ năng là phương thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực hành đã được củng
cố” [5;9].
Năng lực cần đạt của HS THPT là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ
chức kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu
quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động học tập trong bối cảnh nhất định. Quá trình
nắm vững kĩ năng của HS thường được bắt đầu bằng việc chính HS phải tự thực hiện tất

18


cả các công việc dưới sự hướng dẫn, kiểm tra của GV. Các thao tác, hành động được tiến

hành từ sự bắt chước đến làm quen dần từ đó hình thành những năng lực cần thiết.
1.1.1.2. Khái niệm “hợp tác”
Hợp tác là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống lao động của con người; nó
diễn ra thường xuyên trong gia đình, trong xã hội; do vậy “hợp tác mang bản chất sinh
học tự nhiên của mỗi con người trong xã hội” [68;410].
Theo từ điển Tâm lý học (2008): Hợp tác là hai hay nhiều bộ phận trong một
nhóm cùng làm việc theo cùng một cách thức để tạo ra một kết quả chung [61;40]
Nội hàm của “hợp tác” nghĩa là “làm việc cùng nhau” với năm dấu hiệu chủ yếu:
1) Có mục đích chung trên cơ sở mọi người cùng có lợi. 2) Công việc được phân công
phù hợp với năng lực của từng người. 3) Bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ nguồn lực
và thông tin, tự nguyện hoạt động. 4) Các thành viên trong nhóm phụ thuộc lẫn nhau, trên
cơ sở trách nhiệm cá nhân cao. 5) Cùng chung sức, giúp đỡ hỗ trợ, khích lệ tinh thần tập
thể và bổ sung cho nhau.
Từ các khái niệm của các tác giả trong và ngoài nước, theo chúng tôi “Hợp tác là
quá trình tương tác xã hội, trong đó các cá nhân chung sức hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong một công việc nào đó nhằm đạt được mục đích chung trên cơ sở cùng có lợi”. Có 7
dấu hiệu của sự hợp tác hiệu quả. Đó là:
- Có chung mục đích, chung trách nhiệm.
- Công việc được phân công phù hợp với năng lực của từng người.
- Chấp hành kỷ luật, tuân theo những quy định chung và theo sự chỉ đạo, hướng
dẫn của người đứng đầu.
- Một người vì mọi người, mọi người vì một người.
- Chia sẻ nguồn lực và thông tin, cùng hoàn thành nhiệm vụ.
- Khích lệ tinh thần tập thể hơn là đề cao sự ganh đua.
- Hành động nhiều hơn lời nói, nhường nhịn vì lợi ích tập thể.
“Hợp tác” là một khái niệm rộng. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi tập trung
tìm hiểu về hợp tác trong học tập bộ môn Lịch sử của HS ở trường THPT.

19



Như vậy, hợp tác trong học tập tức là sự kết hợp giữa hai hay nhiều học sinh vào
một nhóm, trong đó mỗi người đảm nhận một vai trò khác nhau và cùng phối họp, giúp
đỡ, chia sẻ lẫn nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ học tập chung nào đó. Qua quá trình
cùng nhau hợp tác học tập, học sinh được rèn luyện các kĩ năng làm việc độc lập trên tinh
thần đồng đội để tự hoàn thiện các kiến thức và kĩ năng của mình. Việc thảo luận nhóm,
trình bày các giải pháp trước tập thể - nhóm lớp là cơ hội rèn luyện cách diễn đạt, cách
giao tiếp, ứng xử và thể hiện bản lĩnh cá nhân.
1.1.1.3. Năng lực hợp tác
Theo tác giả Lương Việt Thái (2012) NLHT là “khả năng cá nhân biết chia sẻ
trách nhiệm, biết cam kết và biết cách cùng làm việc, lắng nghe và quan tâm tới các quan
điểm khác nhau; hiểu biết và quan tâm tới nhau; giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, phát huy thế
mạnh của mỗi thành viên trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung có
hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm”. [5;160]
- Kiến thức hợp tác: là những hiểu biết nói chung về các hoạt động học tập cùng nhau.
Người có NLHT là người phải hiểu về các kiến thức trong hợp tác học tập như: mục đích,
yêu cầu, nguyên tắc, cách thức tiến hành, những điều kiện, phương tiện môi trường cần
thiết cho học hợp tác và biết vận dụng trong thực tiễn học tập một cách đúng đắn, linh
hoạt, mềm dẻo và có hiệu quả.
- Các kĩ năng hợp tác: là những hành động, kỹ thuật học tập một cách đúng đắn, linh
hoạt, mềm dẻo, có hiệu quả trên cơ sở vận dụng những tri thức, kinh nghiệm học tập hợp
tác với GV và bạn học trong môi trường nhóm nhằm thực hiện mục tiêu học tập đề ra.
Người có NLHT cần phải thực hiện được các kĩ năng thành phần sau: KN tổ chức nhóm
hợp tác, KN chia sẻ thông tin, KN diễn đạt ý kiến, KN giải quyết mâu thuẫn, KN đánh
giá,...
- Thái độ hợp tác: Học sinh cần có thái độ hợp tác tích cực như: 1) Tích cực hoạt
động nhóm: Sự mong muốn được tham gia vào các hoạt động hợp tác. 2) Chung sức hoàn
thành nhiệm vụ: Trong quá trình hợp tác, các em tỏ rõ sự say mê, chăm chú thực hiện các
hoạt động của các nhân và các hoạt động chung của nhóm. Ý thức tìm kiếm các phương
thức tiến hành hợp tác với các thành viên trong nhóm một cách tích cực để đạt được mục

tiêu chung của nhóm một cách nhanh nhất. 3) Chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau: Các thành viên

20


trong nhóm cùng nhau chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, giải quyết các mâu thuẫn ý
kiến... để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Trong các yếu tố cấu thành NLHT thì kĩ năng hợp tác là yếu tố cần và quan trọng
nhất. Muốn làm tốt bất kì công việc gì, con người cũng phải có kĩ năng. Kĩ năng không
chỉ đòi hỏi con người có phải có những hiểu biết đúng đắn và các kinh nghiệm cần thiết
về đối tượng mà phải biết vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm đó để hành động đúng,
đạt kết quả cao. Con người khi sinh ra chưa có kĩ năng. Trải qua quá trình rèn luyện, kĩ
năng dần trở nên thành thục, uyển chuyển và là “tài sản” quý giá nhất của mỗi người. Vì
vậy trong luận văn này chúng tôi đi sâu vào phát triển các kĩ năng hợp tác cho học sinh,
từ việc phát triển được các kĩ năng hợp tác học sinh cũng sẽ có kiến thức và thái độ đúng
đắn trong quá trình hợp tác.
1.1.1.4. Năng lực hợp tác trong dạy học Lịch sử
Trong bộ môn Lịch sử, NLHT được coi là một trong những năng lực cốt lõi, quan
trọng cần hình thành cho HS. thông qua kiến thức Lịch sử ở trường THPT, dựa vào các
đặc điểm của tri thức Lịch sử (tính quá khứ, tính không lặp lại, tính thống nhất giữa “sử”
và “luận”...), GV tổ chức các hoạt động cụ thể giúp HS tích cực, chủ động, sáng tạo
chiếm lĩnh tri thức. Từ đó, góp phần hình thành và phát triển NLHT nói riêng và các năng
lực bộ môn nói chung cho HS.
Năng lực hợp tác trong dạy học lịch sử là kiểu dạy học bám sát với đặc trưng bộ
môn phát huy được tính chủ động tích cực của người học. Nó đem lại hiệu quả làm việc
tốt hơn so với cách dạy thông thường; đặc biệt với bài học đòi hỏi kỹ năng, sự đánh giá,
kinh nghiệm phức tạp. Nhóm hợp tác là cách tốt hơn để khai thác năng lực cá nhân vừa
làm tăng sự gắn kết các thành viên trong nhóm với nhau. Không có biện pháp nào tốt hơn
là HS được hợp tác, được học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực,
sáng tạo. Nó còn là cơ hội rèn luyện kỹ năng cho học sinh để sau này các em có thể

mang theo hành trang ấy tự tin bước vào đời. Do đó, mỗi HS cần trang bị ngay từ khi
đang theo học trong nhà trường cách học hợp tác để có thể sống và làm việc trong các tổ
chức một cách tích cực. Đồng thời, GV cũng phải biết hướng dẫn HS học tập theo
phương pháp mới này.
Biểu hiện của phát triển năng lực trong dạy học lịch sử. Trong quá trình học tập
giáo viên đặt ra những tình huống phức tạp, những chủ đề rộng, nhất thiết học sinh phải

21


hợp tác liên kết lại thành nhóm để giải quyết những tình huống trên thông qua đó học
sinh bộc lộ năng lực của mình.
Ví dụ: khi dạy bài 17 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến ngày
19/12/1946” (Lịch sử lớp 12), giáo viên đặt câu hỏi: Nêu những khó khăn nước ta phải
đối mặt sau Cách mạng tháng Tám về: chính trị, kinh tế - tài chính, văn hóa – xã hội.
Học sinh phải hợp tác lại tìm ý và trả lời ngắn gọn các ý sau:
Những khó khăn nước ta phải đối mặt sau Cách mạng tháng Tám:
+ Khó khăn về chính trị: chính quyến mới ra đời còn non trẻ; thù trong giặc ngoài:
quân Tưởng, quân Anh, quân Nhật chờ giải giáp, dã tâm quay trở lại xâm lược của
Pháp,…
+ Khó khăn về kinh tế - tài chính: kinh tế bị tàn phá nặng nề, tàn dư của chế độ cũ hơn
90% nhân dân mù chữ, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan,…
-> đất nước ta đứng trước tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”
Như vậy, năng lực hợp tác trong dạy học lịch sử là rất cần thiết trong quá trình học
tập của học sinh nói chung và học môn lịch sử nói riêng. Nó đã đáp ứng được yêu cầu
của giáo trong dạy học lịch sử .
1.1.1.5. Phát triển năng lực hợp tác trong dạy học Lịch sử
Phát triển là biến đổi theo chiều hướng đi lên của các đối tượng trong hiện thực
khách quan, là quá trình chuyển hóa từ hạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn
thiện hơn. Nguyên nhân của sự phát triển là kết quả của quá trình tích lũy đủ về lượng,

tạo ra sự thay đổi về chất, là biển hiện của quy luật phủ định của phủ định trong hiện thực
khách quan.
Theo chúng tôi: Phát triển NLHT là quá trình biến đổi, tăng tiến của các thuộc
tính tâm lí, các kĩ năng hợp tác của học sinh từ mức độ thấp đến mức độ cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, làm cho việc học tập trở nên có hiệu quả. Quá trình dạy học
có mục tiêu hình thành năng lực hoạt động cho HS trong đó phát triển NLHT là một
hướng đi tích cực, hoàn toàn phù hợp với xu thế dạy học hiện đại.
Dựa vào những biểu hiện cụ thể của NLHT trong DHLS, sự phát triển NLHT của
HS trong DHLS được thể hiện ở hai điểm: 1) Sự tiến bộ trong nhận thức, thái độ, hành

22


động và kỹ thuật học tập của học sinh trong nhóm, làm cho việc học tập Lịch sử ngày
càng hoàn thiện có kết quả tốt hơn. 2) Học sinh thường xuyên học tập với nhau trong giờ
học Lịch sử, có ý thức về nhiệm vụ của mình, của nhóm để hỗ trợ nhau, cộng tác với
nhau, tương tác lẫn nhau, tạo ra tính tích cực, tính gắn bó trong nhiệm vụ học tập Lịch sử
nói riêng và trong cuộc sống nói chung.
Như vậy, các nhà giáo dục học và tâm lý học thế giới về NLTH chúng tôi nhận thấy:
Phát triển NLHT trong lịch sử là phải cùng phát huy, cộng hưởng để phát triển được các
kĩ năng hoạt động nhóm, xây dựng môi trường hợp tác nhóm, giải quyết bất đồng, diễn
giải, đánh giá... Phát triển NLHT trong DHLS vừa phải đảm bảo HS nắm vững được kiến
thức lịch sử, việc phát triển NLTH trong lịch sử là vô cùng cần thiết.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc phát triển năng lực hợp tác cho HS trong
DHLS ở trường THPT
- Mục tiêu giáo dục - đào tạo mục tiêu bộ môn Lịch sử
Mục tiêu giáo dục - đào tạo trong nhà trường phổ thông hiện nay là: “Đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề
nghiệp, trung thành. Bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [24, tr. 8].

Từ mục tiêu của giáo dục, xác định mục tiêu của cấp THPT: “Giáo dục THPT nhằm
giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện về
những học vấn phổ thông và hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, để tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động’’ [23, tr. 17-18].
Sau đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội
dung và chương trình định hướng năng lực về mức độ học sinh cần đạt được:
Chương trình định hướng

Chương trình định hướng

nội dung

năng lực

Mục tiêu giáo Mục tiêu dạy học được mô tả Kết quả học tập cần đạt được
dục

không chi tiết và không nhất thiết mô tả chi tiết và có thể quan sát,
phải quan sát, đánh giá được

đánh giá được; thể hiện được
mức độ tiến bộ của học sinh

23


×