Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Phát triển năng lực tự học cho học sinh trường THPT chuyên nguyễn thiện thành tỉnh trà vinh qua dạy học các chủ đề lịch sử việt nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
---------

KIM THỊ LỆ THU
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRƯỜNG
THPT CHUYÊN NGUYỄN THIỆN THÀNH- TỈNH TRÀ VINH QUA
DẠY HỌC CÁC CHỦ ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN
THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Lịch sử
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ỨNG DỤNG

Mã số : 60.14.01.11
Người hướng dẫn khoa học : TS Nguyễn Thị Bích

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn,
tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo
khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Bích, cô
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy cô giáo khoa Lịch
sử, phòng Tư liệu khoa Lịch sử, thư viện trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, trường Đại học Trà Vinh, Thư viện Tỉnh Trà Vinh, trường
THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành tỉnh Trà Vinh…


Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến đồng nghiệp, gia
đình, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận
văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Kim Thị Lệ Thu


DANH MỤC VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Chữ viết tắt
NXB

Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

1


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cám ơn
Danh sách chữ viết tắt.
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ..........................................Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 7
2.1. Tài liệu nước ngoài.................................................................................. 7
2.2. Tài liệu trong nước ................................................................................10
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................18
3.1. Đối tượng nghiên cứu. ..........................................................................18
3.2. Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................18
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................18
4.1. Mục đích .................................................................................................18
4.2. Nhiệm vụ ................................................................................................18
Để đạt mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ: ............................18
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .....................................19
5.1 Phương pháp luận của đề tài .................................................................19
5.2. Phương pháp nghiên cứu: ....................................................................19
6. Giả thuyết khoa học ....................................................................................20
7. Đóng góp của đề tài .....................................................................................20
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................20
9. Bố cục của Luận văn...................................................................................20
Chương 1. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA DẠY HỌC CÁC CHỦ ĐỀ
LỊCH SỬ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN...........................................................21
1.1. Cơ sở lí luận ..............................................................................................21
1.1.1. Cơ sở xuất phát ...................................................................................21
1.1.2. Một số khái niệm ................................................................................24
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh

trong dạy học các chủ đề lịch sử ở trường THPT. ......................................28
2


1.2. Cơ sở thực tiễn. ........................................................................................32
Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
NGUYỄN THIỆN THÀNH – TỈNH TRÀ VINH QUA DẠY HỌC CÁC
CHỦ ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX .........42
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam thế kỉ XV
đến thế kỉ XIX .................................................................................................42
2.1.1. Vị trí .....................................................................................................42
2.1.2. Mục tiêu...............................................................................................43
2.1.3. Nội dung kiếm thức cơ bản ................................................................45
2.2. Xác định các chủ đề dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XV đến
thế XIX .............................................................................................................51
2.3. Một số yêu cầu có tính nguyên tắc khi tổ chức dạy học chủ đề theo
hướng phát triển năng lực tự học cho học sinh............................................52
2.4. Một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh ở trường
THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành – tỉnh Trà Vinh qua dạy học các chủ
đề lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX ........................................54
2.4.1. Phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa trong dạy học chủ đề
lịch sử ............................................................................................................54
2.4.2. Phát triển năng lực tự học với tài liệu tham khảo cho học sinh trong
dạy học chủ đề lịch sử ..................................................................................61
2.4.3. Phát triển năng lực tự nghe giảng- ghi chép và thảo luận khi học
tập các chủ đề lịch sử ...................................................................................67
2.4.4. Phát triển năng lực thuyết trình, tranh luận, đề xuất thắc mắc và
nêu vấn đề cho học sinh trong dạy học chủ đề lịch sử ...............................71
2.5. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................75

2.5.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................75
2.5.2 Đối tượng thực nghiệm .......................................................................75
2.5.3. Nội dung phương pháp tiến hành thực nghiệm ...............................75
2.5.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ...........................................................76
KẾT LUẬN .........................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................84
PHỤ LỤC 1 .........................................................................................................89
PHỤ LỤC 2 .........................................................................................................91
3


PHỤ LỤC 3 .........................................................................................................93
PHỤ LỤC 4 .......................................................................................................119

4


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Bước sang thế kỉ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi
hỏi con người phải không ngừng học hỏi, vươn lên tự hoàn thiện mình nếu không
muốn tụt hậu. Tổ chức Giáo dục và khoa học thể giới (UNESCO) đã xác định bốn
trụ cột của giáo dục trong thế kỉ mới là “Học để biết, học để làm, học để chung
sống và học để tự khẳng định mình”. Theo đó, những “công dân toàn cầu” cần
thiết phải được trang bị kiến thức, kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng tự học tập suốt đời.
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 ban hành
kèm theo Quyết định 711/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/6/2012, đặc
biệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI (nghị quyết 29) về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo xác định mục tiêu tổng quát của đổi mới là “Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi

cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân và đất nước,quan
trọng nhất là có hiểu biết và kỹ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để làm chủ bản
thân, sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực
nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và phương thức hợp lý, gắn với
xây dựng xã hội học tập, bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng, hệ thống
giáo dục được chuẩn hóa, hiện đaị hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc”. Đồng
thời khẳng định phải “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực , tự giác, chủ động, sáng tạo
và năng lực tự học của người học”. Như vậy, chương trình giáo dục phổ thông
mới thực hiện từ năm 2018 nhấn mạnh đổi mới về phương pháp dạy học, tăng
cường rèn luyện năng lực tự học cho học sinh.
Tự học là một bộ phận cấu thành phương pháp học và trong phương pháp
học thì cốt lõi là phương pháp tự học, nó là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu
khoa học của học sinh. Trong dạy học ở trường THPT, việc phát triển năng lực tự
học nói chung, năng lực tự học lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng. Bởi nếu rèn
luyện cho người học có được năng lực tự học, biết ứng dụng những điều đã học
5


vào những tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết các vấn đề gặp phải
sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của các em.
Hiện nay do lượng thông tin về kiến thức bộ môn lịch sử ngày càng nhiều
trong khi thời gian trên lớp hạn chế, nhiều nội dung dạy học lịch sử trong nhà
trường còn rời rạc, thiếu sự liên hệ. Việc tìm ra những điểm tương đồng xây dựng
thành các chủ đề dạy học nhằm khắc phục những hạn chế trong việc tổ chức dạy
học là rất cần thiết. Dạy học theo chủ đề giúp học sinh sâu chuỗi, kết nối được các
nội dung sự kiện lịch sử với nhau. Nó có ưu điểm hơn so với dạy học truyền thống
là hướng vào người học, lấy học sinh làm trung tâm. Với mô hình này học sinh có
nhiều cơ hội làm việc theo nhóm, tự làm việc cá nhân để giải quyết những vấn đề

xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Cho nên, phát
triển năng lực tự học là một giải pháp quan trọng góp phần thiết thực vào việc dạy
học theo chủ đề để nâng cao chất lượng bộ môn, thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hoạt động của học sinh.
Thực trạng việc phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh ở trường
phổ thông còn nhiều bất cập. Do chương trình, sách giáo khoa còn mang nặng tính
hàn lâm, phương pháp dạy học còn chưa phát huy được tính tích cực học tập của
học sinh, sức ỳ trong học tập của các em là rất lớn. Cho nên, việc hướng dẫn học
sinh tự học còn hạn chế về tần suất và hiệu quả. Giáo viên chưa chú ý đến việc
phát triển năng lực tự học cho học sinh, chưa có quy trình khoa học để tổ chức
cho các em tự học một cách có hệ thống. Về phía học sinh, phần lớn các em chưa
coi trọng việc tự học môn học lịch sử, chưa biết sử dụng phương pháp tự học một
cách có hiệu quả và khoa học để lĩnh hội tri thức. Thực trạng này làm hạn chế việc
hoàn thành mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học nói chung và hiệu quả
trong dạy học môn lịch sử ở nhà trường THPT nói riêng.
Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX có vị trí quan trọng trong
tiến trình lịch sử dân tộc. Đây là thời kì nhân dân ta vừa tiến hành xây dựng nền
văn hóa tự chủ, vừa phát triển kinh tế và đấu tranh chống xâm lược để bảo vệ Tổ
quốc, giải phóng dân tộc có thể xây dựng thành các chủ đề học tập tạo điều kiện
cho học sinh phát huy năng lực tự học, khơi gợi được niềm say mê, hứng thú học
6


tập cho học sinh.
Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “ Phát triển năng
lực tự học cho học sinh trường THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành- Tỉnh Trà
Vinh qua dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX” làm
luận văn tốt nghiệp với mong muốn đề xuất một số biện pháp sư phạm vừa gây
hứng thú học tập, vừa phát triển kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học chủ đề
lịch sử.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề tự học, vấn đề dạy học theo chủ đề đã được nhiều nhà giáo dục quan
tâm nghiên cứu. Chúng tôi điểm qua kết quả nghiên cứu của họ.
2.1. Tài liệu nước ngoài
Ở phương Đông, Khổng Tử (551- 479TCN), nhà giáo dục lỗi lạc của Trung
Hoa cổ đại, người được mệnh danh là “vạn thế sư biểu” đã đề xướng tư tưởng tự
học, cho rằng học trò phải tự thân vận động, phát huy nội lực, trí tuệ của mình
trong học tập. Ông quan niệm “Bất phẫn, bất khải, bất phỉ, bất phát; Cử nhất
ngung bất dĩ tam ngung phản, trì bất phục dã”, nghĩa là “Không tức giận vì không
muốn biết thì không gợi cho, không bực tức vì không rõ thì không bày cho. Vật có
bốn góc bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy
nữa”[8,tr113]
Trong cuốn “Những cơ sở của lí luận dạy học” (1971, NXB Giáo dục)
B.P.Exipôp đã khẳng định ý nghĩa của việc tự đọc sách ngoài giờ lên lớp, đồng
thời, khẳng định vai trò của việc tự sưu tầm tài liệu trong dạy học.
Trong cuốn “Giáo dục học tập II” (1973, NXB Giáo dục Hà Nội) T.A.Ilina
đã đề cập đến các phương pháp làm tự việc với sách giáo khoa và các quy tắc chủ
yếu của học sinh khi làm việc với sách giáo khoa.
Trong

cuốn“Phương

pháp

đọc

sách”(1978,

NXB


Giáo

dục)

A.P.Primacôpxki đã chỉ ra một số kinh nghiệm đọc sách, tự nghiên cứu sách của
nhiều nhà khoa học, có sự phân tích, tổng hợp lại thành “văn hóa đọc sách”.
I.F.Kharlamốp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như thế nào”, tập I, (1978 NXB Giáo dục) đã khẳng định dạy học là quá trình lĩnh
7


hội một cách vững chắc kiến thức của học sinh, song việc nhận thức của các em
không phải là do giáo viên hình thành mà là quá trình tự lĩnh hội kiến thức. Học
sinh chỉ “thực sự nắm vững cái mà chính bản thân dành được bằng chính sức lao
động của mình” [23,tr17]. Từ đó tác giả đi đến kết luận “Học tập là một quá trình
nhận thức tích cực của học sinh, học sinh muốn nắm vững kiến thức một cách sâu
sắc thì phải thực hiện đầy đủ một chu trình trí tuệ: bao gồm những hành động tri
giác tài liệu, thông hiểu, ghi nhớ, luyện tập kĩ năng, kĩ xảo và cuối cùng là hành
động khái quát hoá hệ thống hoá kiến thức nhằm xác lập mối quan hệ trong từng
đề tài, giữa các đề tài và các môn học” [ 23,tr29]. Tư tưởng về sự tự lĩnh hội,
khám phá kiến thức của học sinh cũng chính là tư tưởng chủ đạo của việc tổ chức
dạy học theo chủ đề.
Trong cuốn “Phát triển tư duy của học sinh trong dạy học lịch sử”(1982,
NXB Giáo dục Matxcova) của I.Ia.Lecne - Người dịch: Trần Kim Vân, Đinh Ngọc
Bảo, Phạm Huy Khánh, Nguyễn Thị Côi) đã đưa ra yêu cầu đối với giáo viên
trong dạy học lịch sử phải tạo ra “Tình huống có vấn đề nhằm nâng cao kĩ năng
nhận thức tích cực để giải quyết tốt các vấn đề” trong quá trình dạy học. Theo tác
giả, thông qua các biện pháp này sẽ kích thích năng lực sáng tạo, nhận thức tích
cực của học sinh nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử. Đây là gợi ý rất tốt
giúp chúng tôi triển khai các chủ đề học tập.

Trong cuốn “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường phổ thông tập
I” (1983, NXB Giáo dục) N.M.Iakovlev đã phân tích ý nghĩa của việc sử dụng
sách giáo khoa trong dạy học, phương pháp học sinh tự khai thác sách giáo khoa
hiệu quả trong học tập lịch sử.
Nhà sư phạm Tsunesaburo Makiguchi trong cuốn “Giáo dục vì cuộc sống
sáng tạo” (1994, NXB trẻ) cho rằng: “Giáo dục xét như một quá trình hướng dẫn
tự học, động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh
phúc của bản thân và của cộng đồng”. Ông nhấn mạnh vai trò của giáo dục và
hoạt động tự học của con người để giúp họ sáng tạo ra các giá trị tốt đẹp trong
cuộc sống.
8


Trong khuyến cáo cuả UNNESCO về “Giáo dục cho thế kỷ XXI” đã khẳng
định bốn trụ cột của giáo dục: học để biết, học để làm, học để chung sống và học
để khẳng định mình. Trên cơ sở này, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra những năng
lực học tập cần thiết là năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự khẳng định
mình, tự lập trong tự học và trong cuộc sống.
Richard Smith, giáo sư tại Đại học Warwick, trong cuốn sách “Tự học”, của
nhà xuất bản Đại học Oxford (2008), lại cho rằng tự học có nghĩa là người học tự
chủ. Theo ông, đây không hẳn là một phương pháp trong dạy học mà là một mục
tiêu quan trọng của giáo dục. Ý tưởng về tự chủ của người học không phải là mới,
ông còn gọi thuật ngữ này với cách gọi khác như: Cá nhân hóa, người học độc lập.
Điều này có ý nghĩa là người học phải có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm và
ra quyết định đối với việc học của mình.
Vấn đề tự học còn được pháp chế trong Luật Giáo dục. Điều 40 luật Giáo
dục sửa đổi năm 2009 nêu rõ: “Phương pháp đào tạo trình độ Cao đẳng, Đại học
phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện
cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”.

Tác giả James H.Tronge với công trình “Những phẩm chất của người giáo
viên hiệu quả”,(2011, NXB Giáo dục) người dịch Lê Văn Canh đã nhấn mạnh
đến việc giáo viên tạo lập một môi trường học tập hiệu quả cho học sinh, trong đó
có việc khuyến khích và phát triển năng lực tự học đáp ứng những nhu cầu cá
nhân của các nhóm học sinh chuyên biệt trong lớp học. Ông chú trọng việc hỗ trợ
các hoạt động tích cực của học sinh thông qua thủ thuật đặt câu hỏi và thảo luận.
Trong quyển “Lí luận dạy học hiện đại” của Bernd Meier và Nguyễn Văn
Cường (2014, NXB Đại học sư phạm) đã đưa ra một số vấn đề về đổi mới phương
pháp dạy học, các quan điểm dạy học, các kĩ thuật dạy học tích cực, các loại
phương tiện dạy học, đề cập đến các thuyết học tập như thuyết hành vi, thuyết
nhận thức và thuyết kiến tạo dựa trên cơ sở Tâm lí học. Nếu vận dụng các phương
pháp dạy học như dạy học nhóm, đóng vai, dạy học nêu vấn đề...cùng với các kĩ
thuật dạy học như kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật 3-2-1…trong dạy học tích hợp
9


theo chủ đề thì sẽ tạo động cơ học tập và kích thích tư duy của học sinh, phát triển
các kĩ năng tự học trong giờ học lịch sử. Những đề xuất của tác giả là gợi ý cho
chúng tôi tổ chức tốt việc tự học cho học sinh qua các chủ đề dạy học thành công.
N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” (1973, NXB
Giáo dục) đã nêu ra tầm quan trọng của việc sử dụng sách giáo khoa và cách sử
dụng sách hiệu quả cao nhất. Đặc biệt, ông đã đưa ra sơ đồ sử dụng sách giáo khoa
nhằm giải quyết mối tương quan giữa nội dung bài giảng của giáo viên và nội
dung sách giáo khoa trong giờ học lịch sử. Tác giả đồng thời nêu ra vai trò của tài
liệu trong dạy học: “Nếu chúng ta lìa bỏ tài liệu thực thì điều đó sẽ đưa tới kết
quả là cố gắng vun xới một vụ thu hoạch dồi dào trên một mảnh ruộng không có
phân bón”, bởi từ tài liệu thực mới nảy sinh được hình tượng và mang lại kết quả
giáo dục cho học sinh, đồng thời cũng gợi ý cách tự học cho học sinh. Cho nên,
việc xây dựng và tổ chức thành các chủ đề dạy học trong môn lịch sử sẽ giúp các
em thấy rõ hệ thống kiến thức, xâu chuỗi được các sự kiện, hiểu được mối quan

hệ của chúng trong tiến trình phát triển của nó để có thể tự học thành công.
A.A.Vaghin trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
(1977, NXB Đại học sư phạm Hà Nội) đã trình bày các biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử, ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa và tài liệu lịch sử.
Nhìn chung, tài liệu của các tác giả nước ngoài đều khẳng định vai trò, ý
nghĩa năng của việc tự học, việc dạy học theo chủ đề. Tuy nhiên, phát triển năng
lực tự học cho học sinh qua các chủ đề học tập thì lại chưa có công trình nào đề
cập đến.
2.2. Tài liệu trong nước
Trong cuốn “Giáo dục học”, tập I của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1987,
NXB Giáo dục, Hà Nội) đã đề cập đến ý nghĩa của việc phát triển toàn diện năng
lực của học sinh, trong đó có năng lực tự học thông qua nguồn kiến thức mà các
em được tiếp nhận. Qua đó, các tác giả cho rằng trong quá trình dạy học việc phát
huy tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh là rất quan trọng.
Tác giả Trần Bá Hoành trong cuốn“Đổi mới phương pháp dạy học, chương
trình và sách giáo khoa”, (2007, NXB Đại học sư phạm) cho rằng dạy học phát
10


huy năng lực tự học của học sinh là “chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống
xã hội, tôn trọng mục đích, nhu cầu, khả năng hứng thú, lợi ích học tập của các
em” [14,tr8]. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các biện pháp dạy học tích cực cần
phát triển ở trường phổ thông là vấn đáp, dạy học đặt và giải quyết vấn đề, dạy
học hợp tác trong nhóm nhỏ…Qua đây, chúng tôi cho rằng muốn tổ chức dạy học
theo chủ đề đạt được hiệu quả cần phải vận dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy
học với nhau.
Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống
và đổi mới” (2008, NXB Giáo dục) đề cập nhiều đến vấn đề tự học. Tác giả đã
dành hẳn chương VIII để nói về việc bồi dưỡng năng lực tự học: khái niệm tự học,
nội dung hoạt động tự học, những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học, một số

vấn đề cấp thiết như xây dựng động cơ học tập, làm việc với sách, nghe và ghi khi
nghe giảng, đọc sách - một dạng tự học quan trọng và phổ biến, dạy trên lớp thế
nào để học sinh có thể tự học và biên soạn sách giáo khoa theo hướng bồi dưỡng
phương pháp tự học. Theo tác giả, hình thức và đối tượng tự học hết sức phong
phú và đa dạng. Đối với mỗi người trong suốt cuộc đời có lẽ đều phải trải qua các
dạng tự học, mỗi người cần tự tìm tòi rút kinh nghiệm để xây dựng cho mình một
phương pháp tự học riêng và phù hợp đối với bản thân.
Nguyễn Cảnh Toàn là một trong những tác giả có nhiều công nghiên cứu
về tự học và làm thế nào để tự học có hiệu quả. Ông cùng một số tác giả xuất bản
nhiều đầu sách viết về tự học: “Quá trình dạy tự học”, NXB Giáo dục 1996; “Học
và dạy cách học”,( 2002, NXB Đại học Sư phạm) “Tự học như thế nào cho tốt”,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009; “Học để đuổi kịp và vượt”, NXB Lao
động năm 2010. Theo quan điểm của ông tự học là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ như: quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp và có khi
cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến nó thành sở
hữu của mình. Đây là cẩm nang quý giá để chúng ta về nghiên cứu phương pháp
tự học.
11


Trong các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” ( 1992, NXB Giáo
dục) các tác giả đề cập đến việc tự học, độc lập nghiên cứu tìm tòi của học sinh
trong công tác ngoại khóa, thực hành cần được coi trọng hơn nữa, vì đây là dịp
cho các em làm việc một cách hứng thú, say sưa, tự nguyện, không bị ràng buộc.
hướng dẫn, rèn luyện khả năng, thói quen tự học của học sinh còn thể hiện ở việc
tôn trọng nhân cách của các em, gây cho các em lòng tự tin, chống ỷ lại, lười biến
trong làm việc và suy nghĩ, chống việc học sinh học thụ động”. [12,tr169]
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Lịch sử”, tập II (2002, NXB Đại học
Sư phạm Hà Nội) tái bản có sửa chữa và bổ sung 2009, 2010, do Phan Ngọc Liên

(chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi đã khẳng định: Tự học của học sinh
là việc nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ
nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành thạo [30,tr107]. Đó là quá
trình đi từ biết đến hiểu. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn, đòi hỏi học sinh
phải cố gắng nỗ lực khác nhau và có sự phát triển liên tục trong mối liên hệ nhân
quả và logic để tiến tới những hiểu biết sâu sắc về lịch sử nhân loại và dân tộc.
Cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS”,(2005,
NXB Đại học Sư phạm) do Trịnh Đình Tùng chủ biên đã đi sâu trình bày nội dung,
phương pháp tự học và một số biện pháp cơ bản nâng cao chất lượng việc tự học
ở nhà và trên lớp nhằm phát triển năng lực nhận thức và tư duy cho học sinh.
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường phổ thông”,
( 2014, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội) các tác giả Vũ Quang Hiển và Hoàng
Thanh Tú đã trình bày khái niệm chung về dạy học tích hợp và những ưu điểm
của xu hướng dạy học này, trong đó còn nhấn mạnh đến cách xây dựng và tổ chức
chủ đề dạy học lịch sử. Việc tích hợp lại thành các chủ đề, chuyên đề trong môn
lịch sử là phù hợp và cần thiết vì giữa các chương, các bài có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, khi thiết kế như thế sẽ giúp cho học sinh hiểu tính hệ thống, lôgíc và
chiều sâu của lịch sử. Vì thế, khi tổ chức dạy học theo chủ đề, giáo viên là người
chủ động lựa chọn các phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp trong quá trình
triển khai dạy học theo chủ đề và học sinh sẽ tích cực, chủ động trong khâu chuẩn
bị bài cũng như cách thức học tập và thực hiện công việc mà giáo viên giao.
12


Trong “Tài liệu chủ đề tự chọn bám sát chương trình nâng cao lịch sử 10
dùng cho giáo viên” của tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên), ( 2006, NXB Giáo dục)
đã nêu ra rằng việc dạy và học các chủ đề tự chọn là một bước phát huy tính độc
lập, tự chủ của học sinh với mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả trong dạy
học lịch sử.
Tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao

hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông” (2008, NXB Đại học Sư phạm) đề
cập tới vấn đề làm thế nào để tổ chức giờ học hiệu quả. Theo tác giả, để làm được
điều này, “trước hết GV cần thực hiện những yêu cầu cơ bản đối với bài học lịch
sử, mặt khác cần vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo” [8,tr98]. Một bài học lịch
sử có cấu trúc như sau: đặt mục đích học tập, tổ chức giải quyết vấn đề, tổ chức
kiểm tra hoạt động nhận thức, giao bài tập về nhà. Chúng tôi có thể căn cứ vào
đây để tiến hành tổ chức dạy học theo chủ đề một cách có hiệu quả.
Trong cuốn “Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên trung học phổ
thông xây dựng các chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh môn lịch sử”( 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã đề cập
đến việc xây dựng các chuyên đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh môn lịch sử. Trong đó có đề cập đến việc xây dựng mỗi chuyên đề dạy học
cần thực hiện theo quy trình sau: “thứ nhất là xác định vấn đề cần giải quyết
trong dạy học chuyên đề sẽ xây dựng; hai là xây dựng nội dung chuyên đề; ba là
xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành; bốn là
xác định và mô tả mức độ yêu cầu; năm là biên soạn các câu hỏi/bài tập và cuối
cùng là thiết kế tiến trình dạy học” [54, tr30-35]. Chúng tôi có thể dựa vào đây để
thiết kế lại quy trình và tiến hành tổ chức dạy học theo chủ đề trong phần lịch sử
Việt Nam (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX).
Vấn đề dạy học tích hợp có những ưu điểm nhất định và những ưu điểm này
đã được trình bày khá cụ thể trong cuốn “Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo
viên THPT dạy học tích hợp liên môn lĩnh vực khoa học xã hội” (2015, Bộ Giáo
dục và Đào tạo). Các tác giả đã đưa ra ý kiến về ưu điểm của việc dạy học theo
chủ đề tích hợp như sau: Các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh
13


động hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.
Học các chủ đề tích hợp, liên môn HS được tăng cường vận dụng kiến thức tổng
hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách

máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh
không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác
nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng
như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn [54, tr4, 5]
Ở Việt Nam, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm cũng được đề
cập hàng chục năm nay và đã có những tiến bộ, song vẫn chưa thực sự trở thành
tư tưởng dạy học của mỗi giáo viên. Trong xã hội, quá khứ cũng như hiện tại có
nhiều tấm gương tự học để thành tài. Ở các nước, các nhà khoa học, các nhà văn,
nhà thơ, chính trị, kĩ thuật... nổi tiếng đã để lại cho nhân loại kho tàng tri thức vô
giá, có được thành quả như vậy chính là nhờ vào tự học.
Tác giả Hoàng Thị Mỹ Hạnh đã đưa ra việc tổ chức trò chơi trong dạy học
lịch sử nhằm nâng cao sự hứng thú học tập cho học sinh ở trường THCS. Tác giả
viết: “Việc tổ chức trò chơi trong dạy học lịch sử không chỉ đơn thuần là phương
tiện giải trí bổ ích mà còn giúp học sinh hiểu, dễ khắc sâu kiến thức, nắm được
một số kỹ năng quan trọng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng vận động nhanh nhẹn,
khéo léo, kĩ năng hợp tác, kĩnăng làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định, Điều đặc
biệt hơn cả là tổ chức trò chơi sẽ kích thích học sinh học tập, lĩnh hội tri thức lịch
sử một cách dễ dàng, có niềm say mê, hứng thú trong giờ học lịch sử ở trường
phổ thông” [Tạp chí giáo dục số 364]
Tác giả Trần Ngọc Lan- Huỳnh Thái Học đề cập đến vấn đế: Phát triển
năng lực tự học cho học sinh, một năng lực cốt lõi của công dân thế kỉ XXI. Tác
giả đã nêu lên ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn đầu hình thành năng lực tự
học, đó là thực hành có hướng dẫn, có sự hổ trợ của giáo viên. Mỗi lời động viên
khen ngợi hoặc phê phán với chứng cứ thuyết phục và nhân văn của giáo viên có
tác dụng lớn, gợi hứng thú học tập cho học sinh hơn bất cứ phương tiện dạy học
hiện đại nào. Nhìn chung, việc tạo hứng thú cho học sinh không đơn giản là lời
nhận xét khen, chê, mà quan trọng hơn là bằng sự đồng cảm, thấu hiểu và sẻ chia,
14



độ lượng của giáo viên. Tác giả đã chỉ rõ: giáo dục ở thế kỉ XXI cần chú trọng
hình thành và phát triển các dạng năng lực chung và năng lực chuyên biệt cho
học sinh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện đại. năng lực tự học cần được xem
xét là năng lực cốt lõi của mỗi công dân, từng bước hoàn thiện các tri thức cơ bản
thì những tri thức đó sẽ hữu ích cho cuộc sống đa dạng ngoài thực tiễn [Tạp chí
giáo dục số 388].
Trong bài viết “Luận bàn về một số yêu cầu đối với Sách giáo khoa để đáp
ứng chương trình tiếp cận năng lực” tác giả Nguyễn Thị Lan Phương đã đề cập
đến vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh “Chương trình tiếp cận năng
lực nhấn mạnh đến việc phát triển những tiềm năng người học có thể làm trong
cuộc sống từ những kiến thức, kĩ năng trong môn học. Sách giáo khoa được xem
là công cụ quan trọng hổ trợ việc phát triển các kĩ năng thế kỉ XXI cho học sinh.
Điều đó đòi hỏi sách giáo khoa cần đáp ứng nhất ít nhất 4 yêu cầu. 1) lựa chọn
và tổ chức nội dung theo hướng hình thành và phát triển các kĩ năng, năng lực
cần thiết. 2) các hoạt động,phương pháp, kĩ thuật dạy học phải cung cấp cơ hội
để học sinh được ứng dụng kiến thức, kĩ năng một cách sáng tạo, hình thành chiến
lược và cách thức học tập. 3) Sử dụng đa dạng các hình thức, phương pháp và
công cụ đánh giá để đo lường, kiểm soát mức độ am hiểu khái niệm,khả năng tư
duy, mức độ thành thạo các kĩ năng, sự tự tinh và tính chủ động, độc lập trong
học tập của học sinh. 4) sử dụng các công nghệ mới trong thiết kế sách như điện
toán đám mây, các phần mềm ứng dụng trong thiết bị di động, sử dụng các nội
dung giáo dục mở, các phòng thí nghiệm, mô phỏng ảo trên internet [ Tạp chí giáo
dục –số 386 ]. Theo chúng tôi, các tác giả điều đề cập những vấn đề tự học và
cách tạo được sự hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử, đây là những yếu
tố quan trọng giúp giáo viên sử dụng phương pháp tốt nhất để có tiết dạy sinh
động, hiệu quả.
Bản thân mỗi cá nhân đều tiềm ẩn một khả năng tự học, khả năng đó được
tăng cường hay không là nhờ vào cách thức học tập của họ. Lối học nhồi nhét sẽ
làm người học thui chột khả năng tự học; trái lại, lối học tự tìm tòi, nghiên cứu,
chú trọng sự phát triển óc tư duy, vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc

15


sống... sẽ tăng cường khả năng tự học. Như vậy, cách học có tác dụng rõ ràng đến
việc phát triển năng lực tự học. Như vậy, mức độ, đặc điểm hành động của người
học quyết đến hiệu quả học tập. Hiệu quả của các hành động học tập tự học cao
hay thấp tùy thuộc vào kỹ năng thực hiện các hành động đó. Vì thế việc hình thành
kỹ năng trong học tập có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy và học.
Cùng với các phương pháp dạy học tích cực thì dạy theo chủ đề cũng góp
phần quan trong để hình thành năng lực tự học của học sinh. Trong bài viết “Một
số kinh nghiệm khi giảng dạy chuyên đề các cuộc đấu tranh ngoại giao” tại Hội
thảo “Phát triển chuyên môn giáo viên lịch sử trường THPT chuyên” [Tài liệu
hội thảo tháng 7/ 2011 tại Đà Nẵng] tác giả Nguyễn Hoàng Vân giáo viên trường
chuyên Lương Văn Tụy- Ninh Bình cho rằng “nghiên cứu chuyên đề cuộc đấu
tranh ngoại giao còn giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về vị trí, vai trò của đấu
trang ngoại giao đối với thắng lợi của đấu tranh cách mạng từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm về công tác đấu trang ngoại giao nhất là trong bối cảnh tình
hình hiện nay. Khi dạy về chuyên đề này thì tài liệu không nhiều, sách viết về
chuyên đề đấu tranh ngoại giao không có, bản thân giáo viên phải sưu tầm tài
liệu biên soạn theo từng nội dung để giảng dạy cho học sinh. [55,tr212]
Tài liệu tập huấn “Xây dựng các chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực học sinh”[ 2004, Bộ giáo dục và đào tạo] đã
thống nhất ý kiến một số vấn đề chung về dạy học theo chủ đề. Theo đó, đặc trưng
của dạy học chủ đề lịch sử là dạy chuyên đề theo chương trình sách giáo khoa
THPT hiện nay. Tuy nhiên, dạy học chuyên đề có những điểm cơ bản của dạy học
các nội dung kiến thức của bài học lịch sử, nhưng được nâng lên một mức độ nhất
định cao hơn. Nội dung của các chuyên đề giúp học sinh có những hiểu biết kiến
thức cơ bản của chương trình sách giáo khoa, qua đó học sinh có thể tổng kết, hệ
thống hóa, củng cố, thực hành, quy luật, bài học lịch sử. Nội dung được mở rộng,
đi sâu vào một vấn đề, mang tính hệ thống, học chuyên đề học biết lý giải, sâu

chuỗi tìm ra các mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng của ác nội dung, sự kiện lịch
sử, dạy chuyên đề cũng chú trọng đến việc giáo dục thái độ, tình cảm, tư tưởng,
quán triệt nguyên lý học đi đôi với hành, nâng cao tính thực hành.
16


Theo tác giả Nguyễn Thị Thế Bình - Lê Thị Thu quan niệm: “Dạy học theo
chủ đề có ý nghĩa quan trọng đối với bộ môn lịch sử ở trường THPT. Các chủ đề
không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc, hệ thống sự phát triển của lịch sử, mối quan
hệ biện chứng giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử, mà còn mở rộng làm phong phú
vốn trí thức, giúp học sinh biết vận dụng linh hoạt kiến thức đã học để tiếp thu
kiến thức mới và liên hệ, đánh giá thực tiễn cuộc sống. Thông qua học tập các chủ
đề, học sinh được rèn luyện, phát triển kĩ năng tư duy, thực hành bộ môn và các
năng lực côt lõi như tự học, phát hiện, giải quyết vấn đề, được bồi dưỡng thế giới
quan khoa học, phẩm chất, nhân cách (tính chuyên cần, tự lập, lòng kiên trì, ý chí
vượt khó, hứng thú, đam mê với môn học).Trong dạy học chủ đề, tùy vào mục đích,
đối tượng để lựa chọn chủ đề phù hợp, làm cơ sở để xác định nội dung, hình thức
và phương pháp dạy học hiệu quả” [Tạp chí giáo dục số 388].
Trong bài viết “Tổ chức hiệu quả việc dạy học chủ đề lịch sử ở trường phổ
thông”, tác giả Nguyễn Thị Bích cho rằng “Về nội dung dạy học, chủ đề được
xây dựng theo hướng thích hợp các nội dung dạy học, trình bày thành các chủ đề,
đề tài chuyên sâu. Mỗi chủ đề hoặc đề tài được xây dựng gồm nhiều nội dung để
người học có thể hiểu rõ và liên hệ với những gì mà họ đã biết từ kiến thức một
môn học hoặc của nhiều ngành học, khuyến khích người học tìm hiểu sâu về nội
dung chủ đề, tìm đọc tài liệu từ nhiều nguồn và tham khảo vào nhiều hoạt động
khác nhau. Xét về phương pháp dạy học, dạy học theo chủ đề thực chất là cách
tiếp cận dạy học theo hướng liên ngành có sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền
thống và hiện đại. nếu dạy học truyền thống chú trọng cách truyền đạt kiến thưc
có sẵn thì dạy học chủ đề chủ yếu hướng dẫn học sinh tự thực hiện các hoạt động
học tập, tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức được học vào giải quyết các nhiệm

vụ có ý nghĩa thực tiễn. Mô hình mới này chú trọng các hoạt động lớp học với
trung tâm học tập là học sinh, nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến
nhiều lĩnh vực, tích hợp những vấn đề gắn liền với thực tiễn.[10,tr271].
Trong mỗi chủ đề sẽ vận dụng một phương pháp dạy học chủ đạo nhưng
vẫn có sự kết hợp với các phương pháp khác để kiến thức trong mỗi chủ đề được
cung cấp đến học sinh một cách có hệ thống, lôgic, sinh động và hấp dẫn nhằm
17


đem lại hứng thú và khuyến khích sự say mê tìm tòi ở các em, góp phần nâng cao
hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông. Do đó, dạy học chủ đề là xu hướng
tất yếu hiện nay, đáp ứng mục tiêu đổi mới giáo dục theo hướng tích hợp ở cấp
dưới (Tiểu học, THCS) và phân hóa chuyên sâu ở cấp THPT.
Bên cạnh đó còn có các luận văn, khóa luận tốt này chúng tôi muốn làm nổi
bật hơn vai trò tự học trong dạy học chủ đề lịch sử, góp phần nhằm gây hứng thú
tích cực, hiệu quả đối với học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
Như vậy, tự học và tổ chức hoạt động tự học đã được đông đảo các nhà giáo
dục nghiên cứu dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Vì thế, có thể khẳng
định, đã có một cơ sở lý luận khá phong phú về vấn đề này. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tự
học cho học sinh THPT đặc biệt là thông qua dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam
thế kỷ XV đến thế kỉ XIX. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn và giải quyết vấn đề này
trong các chương tiếp theo của đề tài.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: là phát triển năng lực tự học cho học sinh qua
dạy học các chủ đề lịch sử ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài đi sâu tìm hiểu quá trình phát triển năng lực cho học sinh trong dạy
học chủ đề lịch sử Việt Nam thế kỉ XV đến thế kỉ XIX ở trường THPT.
- Do hạn chế về mặt thời gian, nên chúng tôi chỉ tiến hành thực nghiệm sự

phạm qua chủ đề lịch sử Việt Nam thế ki XV đến thế kỉ XIX ở trường THPT
Chuyên Nguyễn Thiện Thành - tỉnh Trà Vinh qua bài nội khóa ở trên lớp.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích: Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc phát triển
năng lực tự học cho học sinh qua dạy học các chủ đề lịch sử, đề tài đề xuất một số
biện pháp sư phạm để phát triển năng lực tự học cho học sinh khi dạy học các chủ
đề lịch sử tại trường THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành – tỉnh Trà Vinh.
4.2. Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ:
18


- Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc dạy học chủ đề lịch sử theo hướng phát
triển năng lực tự học cho học sinh ở trường THPT Chuyên.
- Tìm hiểu nội dung, chương trình, sách giáo khoa lịch sử lớp 10
- Điều tra thực trạng việc phát triển năng lực tự học cho học sinh qua tổ
chức dạy học các chủ đề lịch sử ở trường THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành –
tỉnh Trà Vinh hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh qua tổ
chức dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam thế kỉ XV đến thế kỉ XIX ở trường THPT
Chuyên Nguyễn Thiện Thành - Trà Vinh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của các biện
pháp đề xuất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của đề tài
Dựa trên lí luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục và giáo dục lịch sử.
Lí luận về giáo dục học, tâm lí học phương pháp dạy học của các nhà khoa
học giáo dục, giáo dục lịch sử trong nước và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên,
chúng tôi xác định một số phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp quan sát: nhằm để quan sát, dự giờ, mức độ tham gia thảo
luận nhóm, hợp tác, giải quyết vấn đề trong một tiết học chủ đề, từ đón có những
nhận xét xác đáng về tinh thần, thái độ học tập của học sinh lớp thực nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm: được sử dụng nhằm kiểm chứng tính khả thi và
hiệu quả của các biện pháp đề xuất về việc phát triển năng lực tự học của học sinh
trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam thế kĩ XV đến thế kĩ XIX. ở trường THPT
chuyên Nguyễn Thiện Thành- tỉnh Trà Vinh.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: được sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn
đề, lí thuyết về dạy học chủ đề, về năng lực tự học, tổng hợp các vấn đề có liên
quan đến phương pháp dạy học chủ đề trong bộ môn lịch sử.

19


Nghiên cứu các nguồn tư liệu của các tác giả kinh điển của Chủ nghĩa Mác
– Lênin, đương lối của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục.
6. Giả thuyết khoa học
Việc thực hiện các biện pháp để phát triển năng lực tự học cho học sinh
trong dạy học các chủ đề lịch sử mà đề tài đề xuất sẽ phát huy được sức sáng tạo
của giáo viên và năng lực tự học của học sinh, từ đó nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử ở trường THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành – tỉnh Trà Vinh.
7. Đóng góp của đề tài
- Khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học cho học
sinh trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam thế kỉ XV đến thế kỉ XIX.
- Phản ánh đúng thực trạng của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh
trong dạy học chủ đề lịch sử ở trường THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành, tạo
những điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng học tập.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy
học chủ đề lịch sử Việt Nam thế kỉ XV đến thế kỉ XIX ở trường THPT Chuyên
Nguyễn Thiện Thành – tỉnh Trà Vinh.

- Góp phần thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục sau năm 2015 theo hướng
dạy học tích hợp, chuẩn bị cho GV và HS có bước tiếp cận ban đầu, sẵn sàng và
chủ động trong dạy và học theo yêu cầu mới.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài làm phong phú thêm lí luận về phương pháp dạy học lịch sử về vấn
đề phát triển năng lực tự học và dạy học chủ đề và vận dụng năng lực tự học vào
việc dạy học chủ đề lịch sử Việt nam thế kỉ XV đến thế kỉ XIX. nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp các giáo viên giảng dạy học
lịch sử ở trường trung học phổ thông có nhận thức mới về dạy học chủ đề nhằm
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
9. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung gồm 2 chương:
Chương 1. Phát triển năng lực tự học cho học sinh ở trường THPT qua dạy
học các chủ đề lịch sử - Lí luận và thực tiễn
20


Chương 2. Một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh trường
THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành- tỉnh Trà Vinh qua dạy học các chủ đề lịch
sử Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX
Chương 1. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA DẠY HỌC CÁC CHỦ ĐỀ
LỊCH SỬ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở xuất phát
Việc phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh qua dạy học các chủ đề
xuất phát từ những lí do sau:
* Từ mục tiêu giáo dục. Phát triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh ở
trường THPT cần phải bám sát mục tiêu giáo dục và mục tiêu môn học. Mục tiêu
giáo dục phổ thông Việt Nam được Luật giáo dục sửa đổi năm 2009 xác định là:

Giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo dục THCS, hoàn thiện
học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Mục tiêu môn học được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục, mục tiêu
của cấp học, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về sử học và giáo dục. Mục
tiêu môn học lịch sử còn được xây dựng căn cứ vào nội dung, đặc trưng của hiện
thực lịch sử và nhận thức lịch sử, yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng
hiện nay. Mục tiêu môn học lịch sử cụ thể hóa mục tiêu giáo dục chung cần phải
đạt mục tiêu trên 3 mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ:
Về kiến thức: cung cấp những kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát
triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người trên cơ sở củng cố, phát triển
nội dung kiến thức lịch sử đã học ở bậc THCS.
Về kĩ năng: rèn luyện kĩ năn tư duy, phân tích, tổng hợp, khái quát, xem xét,
đánh giá các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử trong mối quan hệ về không gian,
thời gian; rèn luyện các kĩ năng thực hành bộ môn như, lập bảng biểu, sơ đồ, quan
sát tranh ảnh, sử dụng bản đồ… Qua đó sẽ bồi dưỡng năng lực phát hiện, đề xuất,
21


giải quyết các vấn đề lịch sử hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu các nguồn
tài liệu khác nhau. Môn lịch sử cũng như các môn học khác ở trường THPT còn
hướng đến rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào đời sống và phát triển
các kĩ năng sống cho học sinh.
Về thái độ: hướng đến giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các
dân tộc đấu tranh cho độc lập tự do, văn minh và tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ,
niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân tộc. Đồng
thời giáo dục cho học sinh ý thức làm nghĩa vụ công dân, hình thành những phẩm
chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng.

Các mục tiêu trên được thể hiện qua mục tiêu chương trình lịch sử ở từng
cấp học, lớp học, là cơ sở xác định mục tiêu cụ thể cho từng bài học trong chương
trình và định hướng việc dạy học đạt kết quả cao nhất. Việc hình thành và phát
triển năng lực tự học lịch sử cho học sinh cần nhắm đến việc đạt mục tiêu chung
cũng như mục tiêu cụ thể của từng chương, từng bài, góp phần vào việc giáo dục
toàn diện học sinh.
* Đặc trưng môn học lịch sử với việc phát triển kĩ năng tự học.
Đặc trưng môn học lịch sử ở trường THPT tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển năng lực tự học của học sinh. Bộ môn lịch sử ở trường THPT có vai trò
quan trọng nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, có hệ thống về
lịch sử dân tộc và thế giới. Trên cơ sở đó rèn luyện kĩ năng tư duy và thực hành
bộ môn, hình thành cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Môn lịch sử là
môn khoa học xã hội, mỗi con người Việt Nam chỉ có thể phát triển mọi năng lực
sẵn có trên nền tảng tri thức về lịch sử và văn hóa dân tộc. Môn học lịch sử có ưu
thế và sở trường thực hiện nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
giáo dục và rèn luyện đạo đức con người Việt Nam. Như vậy, dạy học môn lịch
sử ở trường THPT không chỉ trang bị vốn kiến thức cần thiết về lịch sử dân tộc và
lịch sử thế giới, mà còn góp phần quan trọng bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất
nước, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần tôn trọng các giá trị lịch
sử văn hóa nhân loại, hình thành nhân cách và bản lĩnh con người Việt Nam, bồi
22


dưỡng ý thức trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, hiện nay bộ môn lịch sử lại chưa thực sự được coi trọng như vốn
cần phải có đúng như giá trị mà môn học đem lại. Có nhiều nguyên nhân:
Về phương pháp dạy và học tập bộ môn. Thực trạng dạy và học bộ môn hiện
nay cho thấy hầu hết học sinh học lịch sử theo kiểu học thuộc bài và trả lời các
câu hỏi một cách máy móc. Kiến thức trong sách giáo khoa, giáo viên lên lớp đọc
cho học sinh chép, sau đó các em về nhà học thuộc lòng và sẽ được kiểm tra vào

buổi học sau. Đây thực sự là một phương pháp không mang lại hiệu quả cao. Học
sinh sẽ thấy không cần phải tư duy, không cần sáng tạo gì khi học môn lịch sử,
đều này dẫn đến kiến thức lịch sử vốn rất hay lại trở nên nhàm chán và sáo rỗng.
Về thời gian dành cho môn học. Cấp THPT, học sinh được học 4 tiết lịch sử
một tuần. Lượng thời gian này quá ít để học sinh có thể ngấm và yêu thích môn
học. Ví như, với nội dung nghệ thuật truyền thống của dân tộc trong các thế kỉ XV
đến thế kỉ XIX, theo đúng chương trình thì chỉ có khoảng 10 - 15 phút trên lớp,
giáo viên không thể hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu hết được cái hay cái đẹp của
các công trình kiến trúc, của các tác phẩm điêu khắc, hay những họa tiết tạo hình
vô cùng tinh xảo trên gốm của các nghệ nhân thời phong kiến, giáo viên cũng không
thể có thời gian giúp học sinh tìm hiểu điệu chèo, bài hát tuồng, bài ca trù, hay âm
thanh của những nhạc cụ đặc sắc của dân tộc với ngần ấy thời gian. Do vậy, giúp
học sinh phát triển năng lực tự học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THPT
phổ thông sẽ giúp giáo viên khắc phục nhược điểm này. Khi học sinh được trang bị
về kiến thức, về phương pháp tự học, được truyền cảm hứng yêu thích về nghệ thuật
dân tộc các em sẽ có khả năng tự học, tự tìm hiểu về lĩnh vực này.
* Đặc điểm nhận thức của học sinh trường Chuyên Nguyễn Thiện Thành,
Trà Vinh
Học sinh THPT Chuyên Nguyễn Thiện Thành Trà Vinh nằm trong độ tuổi
từ 15 đến 18, đây là giai đoạn phát triển gần với người trưởng thành. Đa số các
em là những học sinh khá, giỏi từ các trường THCS trong Tỉnh và được thi tuyển
vào THPT chuyên, theo từng môn chuyên, so với độ tuổi THCS các em có nhiều
chuyển biến về mặt tâm sinh lí cũng như nhận thức. Ở lứa tuổi này các em cũng
23


×