Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Phân tích và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 85 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Huy động, sử dụng vốn đầu tư nói chung và xây dựng cơ bản nói riêng nhằm
góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế luôn là một vấn đề quan
trọng và cần được giải quyết chặt chẽ mới mang lại hiệu quả cao nhất Trong quá
trình phát triển nền kinh tế xã hội, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một trong
những vấn đề then chốt nhất.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước,
năm năm qua (2006-2010), kế thừa và phát huy những thành tựu sau gần 25 năm
đổi mới, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương với nhiều chủ trương,
định hướng có tính chiến lược; kinh tế của tỉnh Quảng Ninh tiếp tục phát triển toàn
diện, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng mạnh. Đặc
biệt, việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đặc biệt quan tâm, công tác
đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) ở tỉnh Quảng Ninh thời gian qua đã có nhiều khởi
sắc, góp phần làm cho diện mạo của đô thị ngày một đổi mới. Kết cấu hạ tầng kỹ
thuật đô thị từng bước hiện đại hoá và hệ thống "điện, đường, trường, trạm" ngày
càng được đồng bộ hoá đã tạo tiền đề cho KT-XH tỉnh không ngừng tăng trưởng,
hoà nhập chung vào sự phát triển của cả nước. Trong 05 năm 2006-2010, vốn ngân
sách đầu tư cho phát triển kinh tế đạt 48,6%, vốn đầu tư XDCB 2 năm 2009, 2010
đạt hơn 6.000 tỷ đồng, chủ yếu tập trung đầu tư cho các công trình thiết yếu phục vụ
đời sống nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc sử dụng vốn NSNN cho đầu tư
xây dựng cơ bản, còn có những tồn tại và hạn chế như: tiến độ các dự án sử dụng
vốn nhà nước rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của
nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vốn khác, đầu
tư thiếu đồng bộ; Tình trạng bố trí vốn dàn trải vẫn còn khá phổ biến; Các dự án
phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện có xu hướng tăng lên về số lượng cũng
như tỷ lệ; Công tác chuẩn bị đầu tư, chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt dự án tại

1



một số chủ đầu tư chưa tốt; công tác khảo sát, thiết kế, lập dự toán của hầu hết các
chủ đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu nên phải thay đổi, bổ sung, điều chỉnh, kéo
dài thời gian đầu tư... Vẫn còn nhiều vi phạm pháp luật đầu tư xây dựng cơ bản,
pháp luật bảo vệ môi trường, an toàn lao động... gây bức xúc trong nhân dân....dẫn
đến sủ dụng vốn đầu tư kém hiệu quả và làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước.
Tỉnh Quảng Ninh là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có
vị trí chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng của khu vực và của cả nước, Tỉnh Quảng Ninh với mục tiêu: “Phấn đấu xây
dựng Quảng Ninh thực sự trở thành một địa bàn động lực, năng động của Vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế, đến
năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại”. Với quan điểm
phát triển là: “Tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động
lực nâng cao chất lượng, hiệu quả tăng trưởng để phát triển nhanh hơn, bền vững
hơn. Tạo bước phát triển rõ nét, nâng cao vị thế chiến lược của Quảng Ninh và tạo
dựng các yếu tố cần thiết để trở thành một mắt xích quan trọng trong hợp tác Việt
Nam - ASEAN - Trung Quốc”. Với lợi thế là một trong những tỉnh tự cân đối được
thu chi ngân sách và có số thu đứng thứ 5 trên cả nước, thì một trong những nguồn
lực cơ bản đó là vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước (NSNN). Do vậy, việc tập trung
huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN là một yêu cầu tất
yếu trong phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh.
Từ những cơ sở trên đặt ra yêu cầu, cần phải phân tích và đề ra các giải pháp
sử dụng hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN, đây là vấn đề hết sức phức tạp và
khó khăn không thể giải quyết triệt để cùng một lúc. Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở
lý luận và hoàn thiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN cho đầu tư
XDCB, tác giả đã chọn đề tài "Phân tích và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh" để làm luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu tổng quát


2


Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước trên địa bản tỉnh Quảng Ninh.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những lý luận về sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.
- Lựa chọn tiêu chí và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở
tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN
ở tỉnh Quảng Ninh.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn của NSNN cho đầu tư XDCB.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB, bao gồm nhiều
nội dung và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài tập
trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN do Tỉnh Quảng Ninh quản
lý đầu tư vào xây dựng cơ bản từ năm 2006 đến 2010.
- Về không gian
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tiến hành điều tra nghiên cứu việc
sử dụng vốn ngân sách Tỉnh đầu tư cho các công trình đầu tư xây dựng trên địa bàn
Tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư
XDCB từ năm 2006 – 2010.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình thực hiện
luận văn tác giả đã sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp tổng hợp, so sánh và phân tích thống kê số liệu thứ cấp theo
thời gian
- Các phương pháp thu thập thông tin, số liệu

3


Phương pháp thu thập thông tin là khảo sát các nguồn số liệu thứ cấp gồm:
+ Xem xét các văn bản, chính sách, các báo cáo tổng kết của các cấp, các
ngành và các nguồn số liệu thống kê.
+ Tổng quan các tư liệu hiện có về lĩnh vực đầu tư XDCB đã được đang tải
trên các sách báo, tạp chí, các báo cáo tổng kết hội nghị hội thảo, kết quả của các
đợt điều tra của các tổ chức, các cuộc trả lời phỏng vấn của các nhà khoa học, nhà
quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các tài liệu đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng...
+ Báo cáo hàng năm của các BQLDA chuyên ngành; BQLDA các huyện, thị
xã, thành phố; BQL các sở, ban ngành;...
4. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Tên luận văn "Phân tích và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh".
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn
vốn NSNN.
Chương 2: Phân tích thực trạng sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2006 - 2010.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho
đầu tư XDCB ở tỉnh Quảng Ninh.


CHƯƠNG 1

4


CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN ĐẦU TƯ XDCB THUỘC NGUỒN VỐN NSNN
1.1 HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XDCB
1.1.1 Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh
tế xã hội (KT-XH) để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong
tương lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc hy sinh các nguồn lực hiện tại để
tiến hành các hoạt động nhằm thu hút được các kết quả trong tương lai lớn hơn
nguồn lực đã bỏ ra để thực hiện. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Biểu hiện của tất cả nguồn lực bỏ ra nói
trên gọi chung là vốn đầu tư (VĐT). Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường giao thông…), tài sản trí
tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực. Có
nhiều cách phân loại đầu tư, nhưng xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu
tư đem lại, người ta phân chia ra thành:
- Đầu tư tài chính: hay còn gọi là đầu tư tài sản tài chính, là loại đầu tư trong
đó người ta bỏ tiền ra cho vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và giá khi bán.
- Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và trực tiếp tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã

hội khác, là điều kiện vật chất để tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Đầu tư cơ bản: là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) đưa
vào hoạt động trong các lĩnh vực KT - XH khác nhau. Trong hoạt động đầu tư, các

5


nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng
lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm…) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện
vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động, biến đổi nó thành mục đích của mình. Xét về mặt tổng thể thì
không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các TSCĐ, nó bao gồm toàn
bộ cơ sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có thể được điều
chỉnh cho phù hợp với giá cả từng thời kỳ.
Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các
TSCĐ được gọi là đầu tư XDCB.
XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư XDCB. XDCB là các hoạt
động cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt….). Kết quả
của hoạt động XDCB là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định.
Như vậy, XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về
các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như
không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia.
Đầu tư XDCB là hoạt đồng đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục
đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB là một hoạt động kinh tế.
1.1.2 Vai trò, đặc điểm và nội dung của đầu tư XDCB
1.1.2.1 Vai trò của đầu tư XDCB
Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung đóng một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, là động lực để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng

trưởng. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển.
Một là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà
nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung
cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng…mà các
thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư

6


từ NSNN được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt nhất đảm bảo cho nền KT
- XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến
tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
cầu. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ
cấu tổng cầu của các nước trên thế giới. Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng
cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Đầu tư còn có mối quan hệ
chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
cho thấy, nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9 - 10%) thì phải tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra đầu tư còn
có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá
đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị…
của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho vùng khác. Đầu tư
tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các
nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư
ít nhất phải đạt từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Hai là, đầu tư XDCB có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó
tạo ra các TSCĐ. Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất,
đặc biệt là tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh
tế chỉ tăng nhanh khi có đầu tư XDCB, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng

năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Đầu tư XDCB nhằm xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư
mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư XDCB sẽ tạo điều kiện để phát
triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp. Đầu tư XDCB sẽ
góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư
XDCB góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ
sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các địa phương nghèo, vùng sâu và vùng xa,

7


phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác
động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của
vùng để vươn lên phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân
đối vùng miền, ngành nghề, khu vực và phân bổ hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi
thế so sánh.
Ba là, đầu tư XDCB của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò hết sức quan
trọng, bởi vì vốn dành cho đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong
tổng vốn đầu tư XDCB của toàn xã hội. Đầu tư XDCB của Nhà nước góp phần
khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải
quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, đầu tư XDCB của Nhà nước được tập trung vào
những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh
đến đời sống KT - XH. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư XDCB của Nhà
nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém
hiệu quả hơn là đầu tư XDCB từ các nguồn vốn khác.
Bốn là, sản phẩm của đầu tư XDCB có ý nghĩa lớn về mặt chính trị – xã hội,
về mặt nghệ thuật và an ninh quốc phòng.

- Về mặt chính trị – xã hội: cơ cấu đầu tư XDCB thể hiện đường lối phát triển
kinh tế đất nước trong từng giai đoạn.
- Về mặt nghệ thuật: Đầu tư xây dựng cơ bản góp phần mở mang đời sống văn
hóa tinh thần làm phong phú thêm nền kiến trúc của đất nước.
- Về mặt quốc phòng: đầu tư xây dựng cơ bản góp phần tăng tiềm lực quốc
phòng của đất nước.
1.1.2.2 Đặc điểm của đầu tư XDCB
Bất kỳ nền kinh tế nào thì đầu tư XDCB cũng mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: đầu tư XDCB là khâu mở đầu của mọi quá trình sản xuất và tái sản
xuất nhằm tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đầu tư XDCB chính là một
phần tiết kiệm những tiêu dùng của xã hội thay vì những tiêu dùng lớn hơn trong
tương lai.

8


Để tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế, là những điều kiện kỹ thuật cần thiết
đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế: xây dựng hệ thống hạ tầng, các
nhà máy và mua sắm các thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại…đầu tư
XDCB cần một lượng vốn lớn.
Muốn đáp ứng được điều đó, các quốc gia phải phát huy mọi tiềm năng nguồn
lực trong nước như: tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong
các tầng lớp dân cư, đồng thời phải tìm mọi giải pháp để thu hút các nguồn lực nước
ngoài như: vốn ODA, FDI, NGO…
Xuất phát từ đặc điểm này đòi hỏi chúng ta trong việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư XDCB phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, nếu
không giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa đầu tư và
tiêu dùng.
Thứ hai: quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một thời gian lao động rất dài
mới có thể đưa vào sử dụng được, thời gian hoàn vốn lâu vì sản phẩm XDCB mang

tính chất đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo dây chuyền hàng loạt mà mỗi
công trình dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự
nhiên, địa điểm hoạt động lại thay đổi liên tục và phân tán. Thời gian khai thác và
sử dụng lâu dài, thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính
chất dự án.
Quá trình đầu tư XDCB gồm 3 giai đoạn: xây dựng dự án, thực hiện dự án và
khai thác dự án.
Xây dựng dự án và thực hiện dự án là hai giai đoạn có thời gian dài nhưng lại
không tạo ra sản phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa đầu tư và
tiêu dùng. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn
nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Muốn nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư XDCB cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm, nhằm đưa
nhanh các dự án đầu tư vào khai thác sử dụng.
Khi xét hiệu quả vốn đầu tư XDCB cần quan tâm xem xét cả 3 giai đoạn của
quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự

9


án, tức là việc đầu tư vào xây dựng các dự án mà không chú ý thời gian khai thác dự
án. Việc coi trọng hiệu quả kinh tế do đầu tư XDCB mang lại là hết sức cần thiết
nên phải có phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự XDCB. Chính vì chu kỳ
sản xuất kéo dài nên việc hoàn vốn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, phải lựa
chọn trình tự bỏ vốn cho thích hợp để giảm đến mức tối đa thiệt hại do ứ động vốn
ở sản phẩm dở dang.
Thứ ba: đầu tư là lĩnh vực có mức độ rủi ro lớn và mạo hiểm, đầu tư chính là
việc đánh đổi những tiêu dùng chắc chắn của hiện tại để mong nhận được những
tiêu dùng lớn hơn nhưng chưa thật chắc chắn trong tương lai, “Chưa thật chắc chắn”
chính là yếu tố rủi ro mạo hiểm. Vì vậy có nhà kinh tế đã nói rằng đấu tư là đánh
bạc với tương lai.

Rủi ro trong lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu do thời gian của quá trình đầu tư
kéo dài. Trong thời gian này các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưởng
sẽ gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự án.
Các yếu tố bão lụt, động đất, chiến tranh có thể tàn phá các công trình được đầu tư.
Sự thay đổi chính sách như quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất, thay đổi chính sách
thuế, mức lãi suất, sự thay đổi thị trường, thay đổi nhu cầu sản phẩm cũng có thể
gây nên thiệt hại cho nhà đầu tư.
Đặc điểm này chỉ ra rằng, muốn khuyến khích đầu tư cần phải quan tâm đến
lợi ích của các nhà đầu tư. Lợi ích mà các nhà đầu tư quan tâm nhất là hoàn đủ vốn
đầu tư cho họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế và tránh được rủi ro. Vì vậy
các chính sách khuyến khích đầu tư cần quan tâm đến là ưu đãi, miễn giảm thuế,
khấu hao cao, lãi suất vốn vay thấp, cơ chế thanh toán vốn nhanh, kịp thời…
Thứ tư: sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình xây dựng như nhà máy,
công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển… có tính cố định gắn liền
với đất đai. Vì thế nên trước khi đầu tư các công trình phải được quy hoạch cụ thể, khi
thi công xây lắp thường gặp phải khó khăn trong đền bù giải toả giải phóng mặt bằng,
khi đã hoàn thành công trình thì sản phẩm đầu tư khó di chuyển đi nơi khác.

10


Sản phẩm của đầu tư XDCB là những TSCĐ, có chức năng tạo ra sản phẩm và
dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do
nhiều cơ quan đơn vị khác cùng tạo ra.
Sản phẩm của đầu tư XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp, sản xuất không
theo một dây chuyền mà có tính cá biệt. Mỗi công trình đều có điểm riêng nhất
định. Ngay trong một công trình kết cấu các phần cũng không hoàn toàn giống
nhau. Với những công trình công nghệ cao, có vòng đời thay đổi công nghệ ngắn
như: công trình bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử… thì việc thay
đổi công nghệ, kiểu dáng luôn xảy ra.

Giá thành sản phẩm XDCB rất phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng
giai đoạn. Sản phẩm đầu tư XDCB không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn
mang tính nghệ thuật. Sản phẩm đầu tư XDCB phản ánh trình độ kinh tế, trình độ
khoa học kỹ thuật và trình độ của từng giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước.
Quá trình XDCB bị tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên như tình hình địa chất
thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất. Trong đầu tư XDCB
chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy, chọn công trình
để bỏ vốn thích hợp nhằm giảm mức tối đa thiệt hại do công trình xây dựng dở dang
là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.
Nơi làm việc và lực lượng lao động không ổn định là điều bất lợi cho quá trình
XDCB, dẫn đến thời gian ngừng làm việc nhiều, năng suất lao động thấp, dễ gây tâm lý
tạm bợ, tuỳ tiện trong làm việc và sinh hoạt của cán bộ công nhân công trường.
Để thực hiện một dự án đầu tư XDCB phải trải qua nhiều giai đoạn, có rất
nhiều đơn vị tham gia thực hiện. Trên một công trường có thể có hàng chục đơn vị
làm các công việc khác nhau, nhưng các đơn vị này cùng hoạt động trên một không
gian và thời gian, vì vậy trong tổ chức thi công cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau
bằng các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy vậy hiện nay cách thức giao nhận
thầu chưa được cải tiến, giá bán được định trước khi chế tạo sản phẩm. Tức là trước
khi nhà thầu biết giá thành thực tế của mình, việc ước lượng đúng đắn giá cả và

11


phương tiện thi công rất khó khăn vì phải dựa trên những giả thiết mà rất có thể khi
thi công thực tế bị phủ định.
Điều phụ thuộc này buộc nhà thầu phải nắm chắc dự toán và kiểm tra thường
xuyên trong quá trình thi công.
Ngoài những đặc điểm của đầu tư XDCB nói chung thì đầu tư XDCB của
NSNN còn có đặc điểm riêng, đó là quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư
XDCB bị tách rời nhau.

Vốn đầu tư XDCB của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là
chủ thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB
và là người đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt
thiết kế dự toán (tổng dự toán). Song, quyền sử dụng vốn đầu tư XDCB Nhà nước
lại giao cho một tổ chức bằng việc thành lập các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án.
Chủ đầu tư và các Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách nhiệm trực
tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn đầu tư XDCB của NSNN dễ
bị thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh
thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đáp ứng yêu cầu quản lý;
Nhà nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính
sách ràng buộc trách nhiệm thì thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB thuộc vốn
NSNN là không thể tránh khỏi.
1.1.2.3 Các bước của quá trình đầu tư XDCB
Trình tự đầu tư
Dự án đầu tư được hình thành và phát triển với nhiều giai đoạn riêng biệt,
nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau, thậm chí đan xen nhau theo một tiến trình lôgic.
Mặc dù vậy, có thể nghiên cứu chúng một cách tương đối độc lập và trên các góc độ
khác nhau để hiểu chúng một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn. Trên cơ sở quy
hoạch đã được phê duyệt, trình tự thực hiện dự án đầu tư bao gồm 8 bước công
việc, phân thành hai giai đoạn theo sơ đồ sau:

12


Qua sơ đồ ta thấy: bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau, giai đoạn
trước là cơ sở thực hiện giai đoạn sau. Tuy nhiên, do tính chất và quy mô của dự
án mà một vài bước có thể gộp vào nhau như ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đối với
dự án vừa và nhỏ thì có thể không cần phải có bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và
bước nghiên cứu dự án tiền khả thi mà xây dựng luôn dự án khả thi, thậm chí chỉ

cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đối với những dự án quá nhỏ và những dự án
có thiết kế mẫu.
Sơ đồ 1.1 Trình tự trong hoạt động đầu tư
Giai đoạn I
Chuẩn bị đầu tư

Nghiên cứu cơ
hội đầu tư

Nghiên cứu dự
án tiền khả thi

Nghiên cứu dự
án khả thi

Thẩm định và
phê duyệt dự án

Giai đoạn II
Thực hiện đầu tư

Thiết kế, lập
tổng dự toán,
dự toán

Ký kết HĐ:
xây dựng, thiết
bị

Thi công xây

dựng, đào tạo,
CN,CBKT,QL

Chạy thử
nghiệm thu,
quyết toán

Đưa vào khai thác sử dụng
Khi bước trước đã thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện bước tiếp
theo phải kiểm tra và đánh giá đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của
bước đó, nếu đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn, quy phạm (nếu có) cho bước đó và
được cấp có thẩm quyền chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo. Đáng lưu ý
nhất là thực hiện trình tự theo giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư dự án.

13


- Nội dung công việc thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm:
+ Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
+ Tiến hành thăm dò, xem xét thị trường để xác định nhu cầu tiêu thụ; tìm
nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư
và lựa chọn hình thức đầu tư.
+ Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
+ Lập dự án đầu tư.
+ Gửi hồ sơ dự án và văn bản của cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư,
tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan có chức năng thẩm quyền lập dự án đầu tư.
- Nội dung công việc ở giai đoạn thực hiện dự án bao gồm:
+ Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước, mặt biển và thềm
lục địa.
+ Chuẩn bị mặt bằng xây dựng.

+ Tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế giám định kỹ thuật và chất lượng công trình.
+ Phê duyệt, thẩm định thiết kế và tổng dự toán, dự toán hạng mục công trình.
+ Tổ chức đấu thầu thi công xây lắp, thiết bị.
+ Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có).
+ Ký kết hợp đồng kinh tế với nhà thầu đã trúng thầu.
+ Thi công xây lắp công trình.
+ Kiểm tra giám sát thực hiện các hợp đồng.
Phân loại dự án đầu tư
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và
thời hạn. Do vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu và quản lý mà người ta có thể phân
loại dự án đầu tư theo các tiêu thức khác nhau.
* Theo tính chất của dự án: người ta có thể chia dự án đầu tư thành các loại
dự án: dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển KT - XH, dự án
đầu tư nhân đạo.

14


* Theo nguồn vốn đầu tư: có dự án đầu tư bằng vốn trong nước, vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài, vốn ODA, vốn đầu tư của Chính phủ, vốn đầu tư của khu
vực tư nhân, vốn liên doanh và vốn cổ phần…
* Theo ngành, lĩnh vực đầu tư: dự án thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, kết cấu hạ tầng dịch vụ…
* Theo quy mô: dự án đầu tư quy mô lớn, dự án đầu tư quy mô vừa và nhỏ.
Phân loại dự án theo yêu cầu phân cấp quản lý của Nhà nước thì trong luật
Xây dựng và Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ về
quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình đã phân dự án thành ba nhóm A, B, C
(theo phụ lục 1)
1.1.3 Chức năng của đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư với tư cách là làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ thực hiện

một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng nhất thường được chú ý:
Một là, chức năng năng lực
Chức năng năng lực là chức năng tạo ra năng lực mới của đầu tư XDCB. Các
năng lực mới cho đầu tư XDCB tạo ra có giá trị sử dụng cá thể và thông qua đó các
nhu cầu cá thể được thoả mãn. Vì vậy chức năng năng lực được tạo ra khả năng
đảm bảo duy trì hoặc phát triển sản xuất sản phẩm dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu
cuối cùng hoặc khả năng bảo vệ và cải tạo môi trường nhằm hạn chế khắc phục
những ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng năng lực được coi là chức năng đầu tiên của đầu tư XDCB. Các
chức năng khác được suy ra hoặc hỗ trợ chức năng này.
Hai là, chức năng thay thế
Chức năng thay thế của đầu tư XDCB biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp
các nhân tố sản xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố này do kết quả
của quá trình đầu tư XDCB. Tuy nhiên, ý nghĩa của chức năng thay thế phải được
biểu hiện ở tiết kiệm chi phí, ở các khu vực sản xuất vật chất nhờ quá trình đầu tư
XDCB thay thế hợp lý các nhân tố sản xuất mà đảm bảo tiết kiệm các chi phí sản
xuất. Tương tự như vậy đầu tư XDCB vào khu vực dịch vụ, trước hết là dịch vụ

15


tiêu dùng cũng đảm bảo hợp lý các nhân tố tiêu dùng cuối cùng nhằm thoả mãn nhu
cầu này với chi phí xã hội ít hơn.
Vai trò, chức năng thay thế đầu tư XDCB ngày càng tăng lên cùng với sự phát
triển khoa học kỹ thuật (vì bản chất của nó chính là việc sử dụng vật liệu và công
nghệ mới, cao cấp hơn thay thế các vật liệu cũ và công nghệ hiện đang dùng) và với
việc hướng dần nền kinh tế vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay
thế có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
Ba là, chức năng thu nhập và sinh lời
Chức năng thu nhập và sinh lời của đầu tư XDCB được xác định bởi khả năng

tạo ra thu nhập và sinh lời do quá trình đầu tư XDCB mang lại. Chức năng thu nhập
và sinh lời ở đây chính là sự kết hợp của chức năng năng lực và chức năng thay thế
để tạo điều kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc gia. Đặc trưng
kết quả thu nhập là ở chỗ đánh giá công dụng của đầu tư XDCB về phương diện
ảnh hưởng của nó, tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền kinh tế. Do đó
chức năng thu nhập và sinh lời của đầu tư XDCB chính là tác động của nó trong
việc tạo ra và phân phối thu nhập quốc dân. Nói một cách chính xác hơn là tạo ra và
tăng thu nhập của từng chủ thể trong hệ thống kinh tế, mà trước hết là ảnh hưởng
đến tăng thu nhập của các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đầu tư, làm ảnh
hưởng đến việc tăng lợi nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các
tầng lớp dân cư trong nền kinh tế.
1.1.4 Hiệu quả sử dụng vốn NSNN vào đầu tư XDCB
1.1.4.1 Vốn NSNN
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu
nhập trong tương lai. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là
vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư.
Theo Luật Đầu tư (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005): Vốn nhà nước là vốn
đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.

16


Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến hành
được đều phải có VĐT, VĐT là nhân tố quyết định để kết hợp các yếu tố trong sản
xuất kinh doanh. Nó trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả các
dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng,
chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và

các chi phí khác ghi trong tổng dự toán”.
Theo nghĩa chung nhất thì VĐT XDCB bao gồm: chi phí cho việc khảo sát,
quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm
và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được
sử dụng cho hoạt động đầu tư XDCB được gọi là VĐT XDCB từ NSNN.
NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước tham gia
huy động và phân phối VĐT thông qua hoạt động thu, chi ngân sách.
- Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, VĐT XDCB từ
NSNN được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn vốn thu trong nước (thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ bán, cho thuê
tài sản, tài nguyên của đất nước…và các khoản thu khác).
+ Nguồn vốn từ nước ngoài (vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn
viện trợ phi Chính phủ).
- Phân cấp quản lý ngân sách chia VĐT XDCB từ NSNN gồm:
+ VĐT XDCB của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu
của ngân sách trung ương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia.
Nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT XDCB của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu
ngân sách địa phương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa
phương đó. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương
(tỉnh, huyện, xã) quản lý thực hiện.
- Mức độ kế hoạch hoá, VĐT từ NSNN được phân thành:

17


+ VĐT xây dựng tập trung: nguồn vốn này được hình thành theo kế hoạch với
tổng mức vốn và cơ cấu vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho từng bộ,
ngành và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

+ VĐT XDCB từ nguồn thu được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội: thu từ
thuế nông nghiệp, thu bán, cho thuê nhà của Nhà nước, thu cấp đất, chuyển quyền
sử dụng đất…
+ VĐT XDCB theo chương trình quốc gia.
+ VĐT XDCB thuộc NSNN nhưng được để lại tại đơn vị để đầu tư tăng cường
cơ sở vật chất như: truyền hình, thu học phí...
Nguồn VĐT XDCB từ NSNN phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các dự án
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung cho
nền KT - XH mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn
tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát không hoàn lại này từ NSNN có tính chất bao
cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong
nguồn vốn NSNN thì phải loại nguồn vốn không được đưa vào kế hoạch và cấp
phát theo kế hoạch của Nhà nước (vốn để lại tại đơn vị), khả năng quản lý, kiểm
soát của Nhà nước gặp khó khăn hơn. Vốn ngoài nước thường phụ thuộc vào điều
kiện nhà tài trợ đặt ra, cũng làm cho việc quản lý bị chi phối. Đối với viện trợ không
hoàn lại thường do phía nước ngoài điều hành nên giá thành cao.
- VĐT từ ngân sách Nhà nước được đầu tư cho các dự án sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT - XH, quốc phòng - an ninh không có khả
năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát
triển.
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước theo Quy định của pháp luật.
+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát lập quy hoạch tổng thể phát triển KT XH vùng, lãnh thổ; quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Chính phủ
cho phép.
1.1.4.2 Khái niệm hiệu quả VĐT XDCB

18


Do nguồn lực khan hiếm có hạn nên nhu cầu đầu tư luôn luôn cao hơn khả năng

đầu tư của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi VĐT phải được sử dụng có hiệu quả nhằm
trong một thời gian nhất định với một khối lượng VĐT có hạn nhưng lại có thể thoả
mãn tốt nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thoả mãn tối đa nhu cầu xã hội.
Như vậy hiệu quả VĐT là một phạm trù kinh tế khách quan. Nó tồn tại là do
sự khan hiếm, có hạn của nguồn lực. Yêu cầu sử dụng hiệu quả nguồn lực nói
chung, sử dụng hiệu quả VĐT nói riêng càng trở nên bức thiết đối với nền kinh tế.
Hiệu quả VĐT XDCB hiểu một cách chung nhất biểu hiện mối quan hệ so
sánh giữa các lợi ích của VĐT XDCB và khối lượng VĐT XDCB bỏ ra nhằm đạt
được những lợi ích đó. Lợi ích của VĐT XDCB thể hiện ở mức độ thoả mãn nhu
cầu xã hội của sản phẩm do VĐT XDCB bỏ ra, bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã
hội.
Lợi ích kinh tế của VĐT XDCB thể hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu
kinh tế của quá trình đầu tư XDCB nhằm thoả mãn chủ yếu các nhu cầu vật chất
của xã hội. Do đó lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi cán cân thương mại,
ở mức độ lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất…
Lợi ích xã hội của VĐT XDCB, ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh tế nói
trên còn thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh
quốc phòng, văn hoá xã hội…Theo đó lợi ích xã hội của VĐT XDCB còn bao gồm
những sự thay đổi về điều kiện sống và điều kiện lao động, về môi trường, về
hưởng thụ văn hoá, phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng…Dựa
vào quá trình quản lý đầu tư XDCB ta thấy: từ khi có VĐT, tiến hành thực hiện đầu
tư sẽ tạo một khối lượng tài sản cố định. Khi các TSCĐ này được sử dụng (giai
đoạn khai thác dự án) sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhất
định. Lợi ích của VĐT chỉ xuất hiện khi mà sản phẩm hàng hoá dịch vụ được sử
dụng thoả mãn nhu cầu theo mục tiêu đã định.
1.1.4.3 Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT xây dựng cơ bản
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về tiêu chuẩn hiệu quả VĐT, có thể
phân thành 3 nhóm quan niệm chính như sau:

19



Nhóm 1: coi tiêu chuẩn hiệu quả là một mức hiệu quả nào đó (ví dụ hiệu quả
định mức Hd) và dựa vào đó để kết luận VĐT có hiệu quả hay không. Nếu H>Hd có
thể kết luận VĐT có hiệu quả. Ngược lại HNhóm 2: cho tiêu chuẩn hiệu quả VĐT là một mức cao nhất có thể đạt được
trong điều kiện nhất định (H max). Theo quan niệm này, hiệu quả VĐT thực đạt
được (H) thường nhỏ hơn hoặc bằng (Hmax). Theo đó H càng tiến lại gần (Hmax)
vốn đầu tư càng có hiệu quả.
Nhóm 3: cho rằng “Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả VĐT là do quy luật kinh tế
cơ bản quyết định”. Quan niệm này đã gắn mục tiêu của nền kinh tế với phương tiện
để đạt được mục tiêu đó và trong thực tế quan niệm này được sử dụng rất rộng rãi.
Các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT có thể phân thành hai loại:
a. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa.
b. Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu.
Tiêu chuẩn lợi ích tối đa được xem xét trong điều kiện khi đánh giá hiệu
quả dự án có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức VĐT như nhau
phương án nào có lợi ích KT - XH tối đa thì được coi là tối ưu, hiệu quả nhất nên
được lựa chọn.
Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu cũng được xem xét trong điều kiện hiệu quả dự án
đầu tư có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức lợi ích KT - XH định
trước, phương án nào có chi phí VĐT ít nhất được coi là hiệu quả nhất nên được
chọn để thực hiện đầu tư.
Hai loại tiêu chuẩn hiệu quả trên nhìn chung kết quả tương tự nhau và đưa đến
những kết luận như nhau. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa tạo điều kiện sử dụng đầy đủ các
nguồn lực hiện có làm cho hiệu quả từng bộ phận thống nhất với hiệu quả toàn bộ nền
kinh tế. Trong khi đó tiêu chuẩn chi phí tối thiểu chưa quan tâm đầy đủ đến việc tận
dụng các nguồn lực hiện có do đó hiệu quả cục bộ đã không dẫn đến hiệu quả toàn
bộ. Loại hình tiêu chuẩn lợi ích tối đa được coi là cơ bản nên được sử dụng phổ biến.
1.1.4.4 Các chỉ tiêu sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng VĐT XDCB


20


Nền kinh tế luôn luôn tồn tại mâu thuẫn, một bên là nhu cầu xã hội có tính vô
hạn và một bên là nguồn lực khan hiếm, có hạn để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội.
Việc đo lường đánh giá hiệu quả VĐT trở nên rất cần thiết đặc biệt là đối với
nền kinh tế kém phát triển có mức thu nhập thấp như nước ta.
Lợi ích của VĐT mang lại bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Biểu hiện
của lợi ích kinh tế là tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống làm thay đổi cơ
cấu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, từ đó làm tăng thu ngân sách Nhà nước, đẩy
mạnh xuất khẩu, giảm chi phí, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, bảo vệ môi
trường…
Lợi ích xã hội biểu hiện lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh chính trị trật tự
an toàn xã hội, phát triển văn hoá, tăng cường sự bình đẳng và quyền lợi của các
quốc gia dân tộc.
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang
được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là
những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh
tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác
động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công
nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân
tố quan trọng nhất. Đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít, mà
quan trọng hơn là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp.
Để đánh giá hiệu quả của hoạt đồng đầu tư, người ta thường sử dụng các nhóm
chỉ tiêu sau:
Phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có nhiều chỉ tiêu, nhưng tổng hợp nhất
là hệ số ICOR. Hệ số này đã được đề cập trên các phương tiện thông tin đại chúng,

nhưng về chính thống thì chưa được ngành Thống kê tính toán và công bố chính
thức (theo VnEcon.vn)

21


a) Chỉ tiêu hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn
/sản lượng tăng thêm).
* Phương pháp tính hệ số ICOR:
- Theo VnEcon.vn, hiện nay ở nước ta có 3 phương pháp tính hệ số ICOR.
+ Phương pháp thứ nhất được tính bằng công thức:
ICOR

IV (%)

=

(lần)

IG (%)

Trong đó:
IV: Tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển so với GDP (tính theo giá thực tế)
IG: Tốc độ tăng GDP (tính theo giá so sánh)
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để GDP tăng 1% đòi hỏi tỷ
lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP phải đạt bao nhiêu %?
+ Phương pháp thứ hai được tính bằng công thức:
ICOR
=


(lần)

Vt1
Gt1 - Gto

Trong đó:
Vt1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của năm báo cáo;
Gt1: GDP tính theo giá thực tế của năm báo cáo;
Gto: GDP tính theo giá thực tế của năm trước.
+ Phương pháp thứ ba được tính theo công thức sau:
ICOR
=

(lần)

VS1
GS1 - GS0

Trong đó:
VS1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá so sánh;
GS1: GDP tính theo giá so sánh của năm báo cáo;
GS0: GDP tính theo giá so sánh của năm trước.
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để GDP tính theo giá so
sánh tăng 1 đồng đòi hỏi phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
tính theo giá so sánh?

22


Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để tính GDP tính theo giá

thực tế tăng 1 đồng đòi hỏi phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội?
Như vậy, ba phương pháp tính đã đưa đến kết quả khác nhau: Hệ số ICOR tính
theo phương pháp hai có mức thấp nhất, tính theo phương pháp ba có mức cao nhất
và phương pháp một có mức trung bình.
- Theo TS. Nguyễn Văn Sử (2011), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB thống
kê, Hà Nội.
k = s/g
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của sản lượng đầu ra.
s: Tỷ lệ tiết kiệm
k: Hệ số vốn - đầu ra (hệ số ICOR)
* Ý nghĩa của hệ số ICOR:
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư (mô hình
Harrod - Domar). Tính hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:
+ Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động
được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
+ Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo
một hệ số cố định.
Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó
phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất;
ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở
mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát
triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản
xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm
cận với đường sản lượng tiềm năng.

23



Hệ số ICOR cho biết trong thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm 1 đồng GDP thì cần
bao nhiêu đồng VĐT. Hệ số này càng thấp thì hiệu quả VĐT càng cao. Nếu hệ số
ICOR không đổi thì tỷ lệ giữa VĐT(I) so với GDP sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng
kinh tế, (tỷ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng càng cao và ngược lại).
Hệ số ICOR đóng vai trò rất quan trọng trọng việc xây dựng các kế hoạch kinh
tế. Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất trong việc tính toán nhu cầu VĐT
theo các mô hình kinh tế.
Thông qua việc sử dụng hệ số ICOR chúng ta thấy rõ sự gia tăng VĐT đặt
trong mối quan hệ với sự gia tăng GDP. Chỉ tiêu ICOR ở mỗi nước phụ thuộc vào
nhiều nhân tố như: cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh
thổ, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông
thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp; ICOR trong giai đoạn
chuyển đổi cơ chế chủ yếu phụ thuộc vào việc tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở
các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
b) Chỉ tiêu Hiệu suất VĐT: Hiệu suất VĐT biểu hiện mối quan hệ so sánh
giữa GDP và VĐT trong kỳ được xác định theo công thức:
Hi = GDP/I
Trong đó:
Hi: Hiệu suất vốn đầu tư trong kỳ.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ.
I: Tổng mức VĐT trong kỳ
c) Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư
Các kết quả đạt được do thực hiện đầu tư
Hiệu quả hoạt động đầu tư =
Tổng VĐT thực hiện
Công thức này phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống nhân dân của tổng VĐT đã bỏ ra trong một
thời kỳ so với thời kỳ khác (hoặc so với định mức chung). Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận
với kết quả thu được, kết quả đầu ra nhiều thì hiệu quả đạt được cao. Nó có thể


24


được định lượng thông qua các chỉ tiêu như: Giá trị TSCĐ tăng thêm, số km đường,
số nhà máy nước, điện, số m2 nhà tăng thêm…
d) Chỉ tiêu hệ số thực hiện VĐT: Để tính hiệu quả VĐT TSCĐ tăng thêm,
phản ánh mối quan hệ giữa lượng VĐT bỏ ra với các TSCĐ (kết quả của VĐT)
được đưa vào sử dụng có thể dùng công thức
H = FA/I
Trong đó:
H: Hệ số thực hiện VĐT.
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ.
I: Tổng số VĐT trong kỳ.
Theo cách tính này hệ số thực hiện VĐT càng lớn biểu hiện hiệu quả VĐT
càng cao
e) Chỉ tiêu Hiệu suất TSCĐ: biểu hiện sự so sánh giữa khối lượng tổng sản
phẩm quốc nội được tạo ra trong kỳ (GDP) với khối lượng giá trị TSCĐ trong kỳ
(FA) được tính theo công thức:
H (fa) = GDP/FA
Trong đó:
H(fa): Hiệu suất TSCĐ.
FA: Khối lượng TSCĐ trong kỳ.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội tạo ra trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ nào đó, một đồng giá trị TSCĐ sử dụng sẽ tạo
ra bao nhiêu đồng sản phẩm quốc nội.
TSCĐ là kết quả do VĐT tạo ra, do đó hiệu suất TSCĐ phản ánh một cách
khái quát hiệu quả VĐT trong kỳ. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong phân
tích kinh tế vĩ mô.
1.1.4.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ngân sách vào
đầu tư XDCB

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VĐT thuộc NSNN
Một là, công tác quy hoạch và kế hoạch đề ra

25


×