Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Đánh giá tình hình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.81 KB, 104 trang )

Sinh viên : Đặng Minh Thắng
MSV: DH00300986
Lớp: ĐH3QN
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Trần Minh Tiến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kýhiệu

Chú giải



Nghịđịnh

CP

Chínhphủ

TW

Trungương

ADB

Ngân hàng phát triển Châuá

WB

Ngân hàng thếgiới


UBND

Uỷ ban nhândân

QĐ-UBND

Quyết định của uỷ ban nhândântỉnh

TT-BTC

Thông tư Bộ tàichính

HĐBT

Hội đồng bộ trưởng

BTNMT

Bộ tài nguyên môi trường

GPMB

Giải phóng mặt bằng

TĐC

Tái định cư

CNH


Công nghiệp hoá

HĐH

Hiệnđại hoá

HSĐC

Hồ sơ địachính

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

QSDĐ

Quyền sử dụng đất


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn xây dựng và phát
triển dân sinh, kinh tế sản xuất, an ninh quốc phòng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chương II điều 18 đã xác định "Nhà nước thống nhất quản lý đất
đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài".
Ngày nay, với sự phát triển ngày càng nhanh của dân số, cùng quá trình đô thị
hóa,sự gia tăng không ngừng của các lĩnh vực đặc biệt là ngành công nghiệp, nhu cầu
về sử dụng đất ngày càng tăng lên cả về chất lượng và quy mô đất đai. Trong khi đó

quỹ đất của mỗi địa phương có hạn, điều đó làm cho giá trị đất đai tăng lên, đi cùng
với nó sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quá trình sử dụng đất. Chính vì thế nên
công tác quản lý nhà nước về đất đai trở nên cần thiết.
Để thực hiện được vai trò quản lý Nhà nước về đất đai, Nhà nước đã ban hành
luật đất đai năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 1999), luật đất đai năm 2003 (sửa đổi bổ
sung năm 2009), Luật đất đai 2013, các thông tư, nghị định về công tác thu hồi đất ,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm đảm bảo cho việc quản lý của Nhà nước và cơ
quan có thẩm quyền, quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của chủ sử dụng.
Thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằngđể giải phóng mặt bằng là khâu then
chốt, quan trọng. Bồi thường giải phóng mặt bằng là điều kiện ban đầu và tiên quyết
để triển khai các dự án.
Có thể nói "Giải phóng mặt bằng nhanh là đã hoàn thành được 1/3 đến 1/2 dự
án". Bồi thường giải phóng mặt bằng là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, nó tác
động tới mọi vấn đề đời sống kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng của cộng
đồng dân cư. ảnh hưởng trực tiến đến Nhà nước, Chủ đầu tư, đặc biệt là đối với người
dân có đất bị thu hồi.
Hiện nay trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ đã triển khai các dự án bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố, nâng cao đời sống nhân dân . Song công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư của
thành phố còn gặp nhiều những vấn đề khó khăn, khó giải quyết .


Từ thực tế cũng như nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề, đồng
thời được sự phân công của khoa Quản lý đất đai cùng với sự hướng dẫn tận tình của
thầy giáo: Trần Minh Tiến - giảng viên khoa Quản lý đất đai - Trường Đại học Tài
Nguyên và Môi Trường, em đã tiến hành nghiên cứu đềtài:
“Đánh giá tình hình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn
thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên“.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu các quy định pháp lý về vấn đề bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

được áp dụng trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại thành
phố Điện Biên Phủ - tỉnh Điện Biên
- Tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất 2 dự án của thành phố Điện Biên Phủ - tỉnh Điện Biên
Đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ - tỉnh Điện Biên
3. Yêu cầu
- Nắm vững chính sách, pháp luật đất đai, chính sách bồi thường giải phóng mặt
bằng và các văn bản có liên quan đã được ban hành.
- Các số liệu, tài liệu điều tra phản ánh đúng quá trình thực hiện các chính sách
bồi thường giải phóng mặt bằng qua một số dự án đã được thực hiện trên địa bàn
nghiên cứu có độ tin cậy và chính xác. Các số liệu điều tra thu thập phải được phân
tích, đánh giá một cách khách quan khoa học.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn nghiên cứu.
4. Cấu trúc của đề tài
Cấu trúc của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, còn có:
- Chương I: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
- Chương II: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
- Chương III: Kết quả nghiên cứu công tác thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất tại 2 dự án trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ - tỉnh
Điện Biên


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu

hồiđất

1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
a. Thu hồi đất :
Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013, Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất
hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
b. Bồi thường :
- Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất thu hồi cho người sử dụng đất. (khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai 2013)
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất : đất và tài sản.
c. Hỗ trợ :
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu
hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển. (khoản 14 Điều 3 Luật Đất đai 2013)
d. Giải phóng mặt bằng :
- Là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di dời nhà cửa , cây cối,
các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất nhất định được quy
hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình mới. Quá trình giải
phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hội đồng giải phóng mặt bằng đến khi giải
phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá trình đa dạng và phức tạp thể
hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên quan đến lợi ích trực tiếp của các bên tham
gia và của cả xã hội .
e. Tái định cư :
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống
và làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước
thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
Tái định cư (TĐC) được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài
sản; di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu
nhập, cơ sở vật chất tinh thần tại đó.



Theo ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) : tái định cư là xây dựng khu dân cư
mới, có đất để sản xuất và đủ cơ sở hạ tầng công cộng tại một địa điểm khác.
-

Các hình thức tái định cư gồm :
+ Tái định cư tập trung
+ Tái định cư tại chỗ
+ Tái định cư xen ghép ( phân tán )
Chính sách tái định cư là chính sách bồi thường thiệt hại cho chủ sử dụng nhà,
đất ở là đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện quyết định thu hồi đất và phải giải
phóng mặt bằng.
+ Tái định cư bằng nhà ở chung cư cao tầng đối với hộ gia đình cá nhân bị thu
hồi nhà ở, đất ở mà phải di chuyển chỗ ở tại khu vực đô thị.
+Tái định cư bằng đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi nhà ở, đất ở mà
phải di chuyển chỗ ở tại khu vực nông thôn.
+ Bồi thường, hỗ trợ bằng tiền mặt để hộ gia đình, cá nhân tự lo chỗ ở mới.
Tái định cư là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong
chính sách GPMB.

1.1.2. Bản chất của công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Phát triển công nghiệp và đô thị là một tiến trình tất yếu trên toàn thế giới. Và thu
hồi đất nông nghiệp là cách thức thường được thực hiện để xây dựng khu công nghiệp
và đô thị. Quá trình thu hồi đất đặt ra rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cần được giải
quyết kịp thời và thỏa đáng. Để có thể hài hòa được lợi ích của xã hội, tập thể và cá
nhân, mỗi quốc gia có cách làm riêng của mình.
Về mặt hành chính thì đây là một quá trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế
và đòi hỏi sự “hy sinh”. Không chỉ là một sự đền bù ngang giá tuyệt đối.
Từ những nhận thức trên có thể bản chất của công tác đền bù giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng trong quá trình hiện nay không chỉ đơn thuần là sự đền bù vè
mặt vật chất mà còn phải đảm bảo lợi ích của người dân phải di chuyển. Đó là họ phải
có được chỗ ở ổn định, điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn chỗ cũ, nhưng chắc chắn phải
tốt hơn nơi cũ về mọi mặt thì mới tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.

1.1.3.

Trình tự, nguyên tắc và thẩm quyền thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.


1.1.3.1. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được
quy định cụ thể tại Điều 74, Điều 88 Luật Đất Đai 2013, hướng dẫn thực hiện tại Nghị
định 47/2014/NĐ-CP.
a. Nguyên tắc bồi thường
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trong Luật Đất đai năm 2013 được quy định tại 2 điều (Điều 41, 42 và 43) và trên thực
tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang tính nguyên tắc để thực hiện
thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi
thường về đất, hỗ trợ và tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn
chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc
bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất
thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88). Trong đó quy định cụ thể các nguyên
tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất
khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào
đó thống nhất thực hiện. Nội dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:
“Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng

với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo
giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm
quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan,
công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”.
Nguyên tắc trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà
người dân có đầy đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại. Quy định trên phù hợp với nguyên tắc dân sự được quy định trong Bộ
luật dân sự 2005. Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không
có đất cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này
xuất phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường
để mua được một thửa đất tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình


trạng người bị THĐ đòi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ
việc chuyển mục đích SDĐ hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại.
Việc bồi thường phải dân chủ khách quan, tức là phải đảm bảo khi người dân bị
thu hồi đất mà có các đủ điều kiện nhận bồi thường, họ phải được bồi thường. Đây là
quyền liên quan tới lợi ích chính đáng mà không một ai hay tổ chức cá nhân nào không
cho họ thực hiện.
“ Điều 88. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh khi
Nhà nước thu hồi đất
1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị
thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất,
kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại”.
Đây là môt điểm mới của luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về
đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trên thực
tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và

nguồn sống của con người. Vì đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên nhà
đầu tư ngoài việc bồi thường giá trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập,
sinh kế cho người mất đất. Nếu chỉ là khoản hỗ trợ trong một thời gian nhất định thì
coi như đã phó mặc việc tìm sinh kế mới cho người mất đất. Do đó, thay vì phó mặc
gánh nặng hỗ trợ đào tạo nghề đối với người mất đất cho Nhà nước, nhà đầu tư cần
phải được yêu cầu cùng bàn bạc với người mất đất về cơ hội tìm sinh kế mới cho họ;
đồng thời, nhà đầu tư phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với
mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới
và theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư
không thể trì hoãn. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng đất
đai trong bài toán đầu tư để chi phí ít nhất, chính quyền địa phương cũng khó đánh đổi
mọi giá cho sự phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và
bảo vệ được nguồn lực đất đai.
b. Nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư


Đây cũng được coi là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013. Khoản 1, Điều
83 quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:
“1. Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo
quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng
quy định của pháp luật.”
Thứ nhất, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho
hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường
Thứ hai, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu nhập
chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển
chổ ở.

Thứ ba, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, tái định cư. Nhằm khắc
phục tình trạng một số khu vực tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng bộ về cơ
sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn nơi ở cũ.
Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa bàn nên nhiều
dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án mà
người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bồ trí vào
khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án tái định
cư, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở .
Tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật
Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
đều đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai minh bạch,
dân chủ, đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các
quy định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, vừa
là cơ chế để kiểm soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự,
thủ tục…bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy
định. Việc thực hiện công khai minh bạch, dân chủ được thể hiện như sau:


- Quy định cụ thể những trường hợp Nhà nước THĐ do lỗi của người SDĐ gây
ra hoặc những trường hợp THĐ vì lý do đương nhiên; Trên cơ sở đó, Nhà nước thực
thi chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC không giống nhau đối với các trường hợp
THĐ: (i) trường hợp THĐ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế thì người bị THĐ được Nhà nước
bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi. Đối với
trường hợp thu hồi đất ở (THĐƠ), người bị THĐ ngoài việc được Nhà nước bồi
thường về đất và tài sản gắn liền với đất bị thu hồi còn được hưởng chính sách TĐC.
Trường hợp THĐ nông nghiệp của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không có
đất để giao cho họ tiếp tục sản xuất, người bị THĐ nông nghiệp ngoài việc được bồi
thường về đất và tài sản trên đất còn được Nhà nước hỗ trợ trong việc ổn định cuộc
sống, đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp; (ii) trường hợp THĐ do lỗi của người SDĐ gây

ra thì người bị THĐ không được bồi thường về đất mà chỉ được bồi thường thiệt hại về
tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.
- Quy định cụ thể thời hạn thông báo cho người bị THĐ biết về quyết định THĐ
nhằm tạo điều kiện để họ chủ động trong việc thu hoạch mùa màng, thu dọn đồ đạc, di
chuyển chỗ ở để sớm bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư Quy định cụ thể các trường
hợp Nhà nước THĐ để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế và trường hợp người
sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy
ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và
tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục
để người sử dụng đất thực hiện.
- Quy định cụ thể điều kiện được bồi thường khi Nhà nước THĐ tại Điều 75 Luật
Đất Đai 2013. Điều này góp phần làm giảm những tranh chấp, khiếu kiện không cần
thiết xung quanh việc bồi thường khi Nhà nước THĐ.
- Pháp luật đất đai hiện hành quy định rõ ràng trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc lập và thực hiện các dự án
TĐC trước khi THĐ để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị THĐƠ mà phải di
chuyển chỗ ở. Khu TĐC được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn
và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ


- Các quy định hiện hành về bồi thường, GPMB được công bố rộng rãi cho mọi
người dân biết thông qua những hình thức luật định.
1.1.3.2. Trình tự, thẩm quyền thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư


Trình tự :
Trên cơ sở các Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất, kế hoạch sử dụng đất
hàng năm (đã được phê duyệt) của cấp huyện và tiến độ sử dụng đất của Dự án, cơ
quan có thẩm quyền (UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện tùy trường hợp) chuẩn bị

các thủ tục cần thiết để thu hồi đất.
Bước 1. Thông báo thu hồi đất:
Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông
nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Nội dung thông báo thu hồi
đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.
Thông báo thu hồi đất phải được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến
đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin
đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Sau khi thông báo thu hồi đất theo đúng thủ tục nói trên, nếu người sử dụng đất
trong khu vực thu hồi đất đồng ý thì UBND cấp có thẩm quyền có thể ra Quyết định
thu hồi đất và thực hiện các chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà không cần
chờ hết thời hạn thông báo
Bước 2. Thu hồi đất:
UBND cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích
của xã, phường, thị trấn; đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.


UBND cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất đối với đất của hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư; đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở
tại Việt Nam.
Trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng
đất thì UBND cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy
ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất
Bước 3. Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất:
Sau khi có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền, UBND cấp xã có trách
nhiệm phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai

thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Người sử dụng
đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với
tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo
đạc, kiểm đếm thì UBND cấp xã, Ủy ban MTTQVN cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để
người sử dụng đất thực hiện.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử
dụng đất vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Người có
đất thu hồi có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người
có đất thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế
theo quy định tại Điều 70 của Luật đất đai 2013.
Việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc được thực hiện khi có
đủ các điều kiện sau đây: người có đất thu hồi không chấp hành quyết định kiểm đếm
bắt buộc sau khi UBND cấp xã, Ủy ban MTTQVN cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục; Quyết


định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc đã được niêm yết công khai
tại trụ sở UBND cấp xã, tại địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu
hồi; Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc đã có hiệu lực thi
hành; người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng
mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì UBND cấp xã lập biên bản.
Trình tự, thủ tục thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc được quy
định như sau: tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại

với người bị cưỡng chế; trường hợp người bị cưỡng chế chấp hành quyết định cưỡng
chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành và
thực hiện điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Trường hợp người bị cưỡng chế không
chấp hành quyết định cưỡng chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế thi hành
quyết định cưỡng chế.
Bước 4. Lập phương án bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, tái định cư:
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia định bị
thu hồi đất, trên cơ sở tổng hợp số liệu kiểm kê, xử lý các thông tin liên quan của từng
trường hợp; áp giá tính giá trị bồi thường về đất, tài sản trên đất.
Phương án tái định cư: UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ
chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. Khu tái định cư tập trung
phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù
hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. Dự án tái định cư được
lập và phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải bảo
đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
thu hồi đất. Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở trong khu
tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với
các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư.
Bước 5. Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân


Sau khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức
lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là:tổ
chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết
công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm
sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện
UBND cấp xã, đại diện Ủy ban MTTQVN cấp xã, đại diện những người có đất thu

hồi.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp
ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không
đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối
hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý
kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương
án trình cơ quan có thẩm quyền.
Bước 6. Hoàn chỉnh Phương án:
Trên cơ sở ý kiến góp ý của các đối tượng có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền,
đoàn thể ở cơ sở, tổ chức bồi thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trình cơ quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Bước 7. Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện:
Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau: UBND cấp có thẩm quyền quy định
tại Điều 66 của Luật đất đai năm 2013 quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp
với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của


khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng
người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái
định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà
hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt; trường hợp người có đất thu hồi không
bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì UBND cấp

xã, Ủy ban MTTQVN cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện,
nếu họ vẫn không chấp hành việc bàn giao đất thì bị cưỡng chế theo quy định tại Điều
71 của Luật đất đai 2013.
Bước 8. Tổ chức chi trả bồi thường:
Theo quy định tại Điều 93 Luật đất đai 2013, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người
có đất thu hồi.
Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi
thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ
trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt
thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm
nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm
trả. Trường hợp người có đất thu hồi không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tiền bồi
thường, hỗ trợ được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước.
Người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện
nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ
đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường để hoàn
trả ngân sách nhà nước. Về vấn đề này, Nghị định 47/2013/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của


Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng quy định rõ tại Điều 30, cụ thể là: khoản tiền
chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
phải nộp cho Nhà nước nhưng đến thời điểm thu hồi đất vẫn chưa nộp; số tiền chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính này được xác định theo quy định của pháp luật về thu tiền
sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Trường hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa
vụ tài chính đến thời điểm có quyết định thu hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường,

hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó; nếu hộ gia
đình, cá nhân được bố trí tái định cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ vào số
tiền để được giao đất ở, mua nhà ở tại nơi tái định cư mà số tiền còn lại nhỏ hơn số
tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số
tiền chênh lệch đó.
Lưu ý: tiền được bồi thường để trừ vào số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính
gồm tiền được bồi thường về đất, tiền được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại
(nếu có). Không trừ các khoản tiền được bồi thường chi phí di chuyển, bồi thường
thiệt hại về tài sản, bồi thường do ngừng sản xuất kinh doanh và các khoản tiền được
hỗ trợ vào khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Trường hợp diện tích đất thu hồi đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất mà
chưa giải quyết xong thì tiền bồi thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất đang tranh
chấp đó được chuyển vào Kho bạc Nhà nước chờ sau khi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết xong thì trả cho ngươi có quyền sử dụng đất.
Bước 9. Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất
Sau khi nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; người bị thu hồi đất phải bàn
giao mặt bằng sạch cho chủ đầu tư. Trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao
mặt bằng thì bị cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013, khi
có đủ các điều kiện: người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau
khi UBND cấp xã, Ủy ban MTTQVN cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục; Quyết định cưỡng chế
thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã,
địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Quyết định cưỡng chế


thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành; người bị cưỡng chế đã nhận
được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng
mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì UBND cấp xã lập biên bản.
Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất: trước khi tiến hành cưỡng chế,

Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế; Ban thực
hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế; nếu người bị
cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành.
Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì Ban thực
hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế; Ban thực hiện cưỡng chế có quyền buộc
người bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự
chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; nếu không thực hiện thì Ban thực hiện
cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan cùng
tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản
thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo
quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản.


Thẩm quyền thu hồi đất :
Theo quy định tại Điều 66 Luật đất đai 2013 quy định: Thẩm quyền thu hồi đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau
đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam.


3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền

cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Như vậy:
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:



Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ

a)

chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau



đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam
So với Luật Đất Đai 2003, Luật đất đai 2013 đã có điểm mới đó là trường hợp
trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân
cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Như vậy, nếu có quyết định thu hồi đất đối với cả tổ chức và cá nhân thì quyết
định thu hồi thuộc UBND cấp tỉnh.

1.2.
Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở một số
1.2.1.1.

nước trong khu vực và các tổ chức quốc tế.
Trung Quốc
Ở Trung Quốc chủ trương xuyên suốt trong việc bồi thường GPMB là hạn chế
ñến mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị ảnh
hưởng để thực hiện các dự án đầu tư. Do việc thu hồi đất là không thể tránh khỏi nên
phương án đền bù phải đảm bảo tối đa các lợi ích cho những người bị thu hồi đất để họ
có thể cải thiện mức sống, đảm bảo cuộc sống so với trước khi bị thu hồi đất.


Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì người nào
sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Người bị thu hồi đất được thanh toán
tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp về tái định cư và tiền bồi thường hoa màu trên đất.
Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo tổng giá trị
tổng sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền bồi thường
cho hoa màu, cho các loại tài sản trên đất ñược tính theo giá cả hiện tại.
Cũng như ở Việt Nam, mức bồi thường cho giải phóng mặt bằng được thực hiện
theo nguyên tắc đảm bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ.
Việc quản lý giải phóng mặt bằng được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất đai ở
địaphương.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi giải phóng mặt bằng, phương thức chủ
yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính ba khoản sau: Một là, giá cả
xây dựng lại, chênh lệch giữa giá xây dựng lại nhà mới và nhà cũ; Hai là, giá đất tiêu
chuẩn; Ba là, trợ cấp về giá cả. Ba khoản này cộng lại là tiền bồi thường về nhàở.
Việc bồi thường nhà ở cho dân ở thành phố khác với việc bồi thường cho dân ở
nông thôn, bởi có sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai ở thành thị và nông thôn.
Đối với nhà ở của người dân thành phố, nhà nước bồi thường bằng tiền là chính,
với mức giá do thị trường bất động sản quyết định qua các tổ chức trung gian để đánh

giá, xác định giá. Với người dân nông thôn, nhà nước thực hiện theo những cách thức
rất linh hoạt, theo đó, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có cách bồi thường khác nhau: tiền
bồi thường về sử dụng đất đai; tiền bồi thường về hoa màu; bồi thường tài sản tập thể.
Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở dĩ Trung Quốc có những
thành công nhất định trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là do thứ nhất, đã
xây dựng các chính sách và thủ tục rất chi tiết, ràng buộc đối với các hoạt động tái
định cư, đảm bảo mục tiêu tạo cơ hội phát triển cho người dân tái định cư, tạo các
nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư. Thứ hai, năng lực thể chế của các
chính quyền địa phương khá mạnh. Chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm hoàn toàn
trong việc thực hiện chương trình bồi thường hỗ trợ tái định cư. Thứ ba, quyền sở hữu
đất tập thể làm cho việc thực hiện bồi thường hỗ trợ tái định cư có nhiều thuận lợi, đặc
biệt là ở nông thôn. Tiền đền bù cho đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia đình mà
được cộng đồng sử dụng để tìm kiếm, phát triển đất mới hoặc mua của các cộng đồng


sở tại hay dùng để phát triển kết cấu hạ tầng. Chính quyền thôn, xã chịu trách nhiệm
phân chia cho các hộ bị ảnh hưởng.
Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm;
tốc độ tái định cư chậm, thiếu đồng bộ, thực hiện giải phóng mặt bằng trước khi xây
xong nhà tái định cư
I.2.1.2.

Inđônêxia
Vấn đề di dân tái định cư, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích phát triển của xã hội tại Inđônêxia từ trước đến nay vẫn được coi là sự “hy sinh”
mà một số người phải chấp nhận vì lợi ích của cộng đồng. Các chương trình bồi
thường, tái định cư chỉ giới hạn trong phạm vi bồi thường theo luật cho đất bị dự án
chiếm dụng hoặc một số ít trường hợp bị thu hồi đất để xây dựng khu tái định cư;
Tái định cư được thực hiện theo ba tiêu chí:

+ Bồi thường tài sản bị thiệt hại, nghề nghiệp và thu nhập bị mất;
+ Hỗ trợ di chuyển, bố trí nơi ở mới với các dịch vụ và phương tiện phù hợp;
+ Trợ cấp khôi phục để ít nhất người bị ảnh hưởng có được mức sống đạt hoặc
gần đạt so với mức sống trước khi có dự án;
Việc lập kế hoạch, thiết kế nội dung là yếu tố không thể thiếu của việc lập dự án
đầu tư có di dân tái định cư và những nguyên tắc chính gồm:

* Nghiên cứu kỹ phương án khả thi của các dự án ñể giảm thiểu việc di dân bắt buộc,
nếu không thể tránh được khi triển khai dựán;

* Người bị ảnh hưởng phải ñược bồi thường và hỗ trợ để triển vọng kinh tế, xã hội của
họ nói chung ít nhất cũng thuận lợi như trong trường hợp không có dựán;

* Cácdựánvềtáiđịnhcưphảiđạthiệuquảởmứccàngcaocàngtốt;
* Người bị ảnh hưởng được thông báo đầy đủ, được tham khảo ý kiến chi tiết về các
phương án bồi thường tái địnhcư.

* Các chủ đầu tư đặc biệt chú ý đến tầng lớp những người nghèo nhất, trong đó có
những người không hoặc chưa có quyền lợi hợp pháp về đất đai, tài sản, những hộ gia
đình do phụ nữ làmchủ;
1.2.1.3.Thái Lan
Ở Thái Lan, cũng giống như ở nhiều nước khác trong khu vực châu Á, quá trình
đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, mọi giao dịch về đất đai đều do cơ chế thị trường điều


tiết. Tuy nhiên, với những dự án do Chính phủ quản lý, việc đền bù được tiến hành
theo trình tự: tổ chức nghe ý kiến người dân; định giá đền bù. Giá đền bù phụ thuộc
vào từng khu vực, từng dự án. Nếu một dự án mang tính chiến lược quốc gia thì nhà
nước đền bù với giá rất cao so với giá thị trường. Nhìn chung, khi tiến hành lấy đất của
dân, nhà nước hoặc cá nhân đầu tư đều đền bù với mức cao hơn giá thị trường.

1.2.1.4.

Ngânhàngthếgiới(WB)vàNgânhàngpháttriểnchâuÁ(ADB)
Mục tiêu chính sách bồi thường tái định cư của Ngân hàng thế giới (WB) và
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) là việc bồi thường tái định cư sẽ được giảm thiểu
càng nhiều càng tốt và đưa ra những biện pháp khôi phục để giúp người bị ảnh hưởng
cải thiện hoặc ít ra vẫn giữ được mức sống, khả năng thu nhập và mức độ sản xuất như
trước khi có dự án, phải đảm bảo cho các hộ di chuyển được bồi thường và hỗ trợ sao
cho tương lai, kinh tế và xã hội của họ được thuận lợi tương tự như trong trường hợp
không có dự án.
Các biện pháp thu hồi được cung cấp là bồi thường theo giá thay thế nhà cửa và
các kết cấu khác, bồi thường đất nông nghiệp là lấy đất có cùng hiệu suất và phải thật
gần với đất đã bị thu hồi, bồi thường đất thổ cư có cùng diện tích được người bị ảnh
hưởng chấp thuận, giao đất tái định cư với thời hạn ngắn nhất.
Đối với đất đai và tài sản được bồi thường chính sách của WB và ADB là phải
bồi thường theo giá xây dựng mới đối với tất cả các công trình xây dựng và quy định
thời hạn bồi thường tái định cư hoàn thành trước một tháng khi dự án triển khai thực
hiện.
Khôi phục thu nhập là một yếu tố quan trọng của tái định cư khi những người bị
ảnh hưởng bị mất cơ sở sản xuất, công việc kinh doanh, việc làm thay thế những
nguồn thu nhập khác, bất kể là họ có mất nơi ở haykhông.
WB và ADB quy định các thông tin về dự án cũng như chính sách bồi thường tái
định cư của dự án phải được thông báo đầy đủ, công khai để tham khảo ý kiến, hợp tác
và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu chính đáng của người bị thu hồi trong suốt quá trình
lập kế hoạch bồi thường tái định cư cho tới khi thực hiện công tác lập kế hoạch.
Việc lập kế hoạch cho công tác bồi thường tái định cư được WB và ADB coi là
điều bắt buộc trong quá trình thẩm định dự án. Mức độ chi tiết của kếhoạch phụ thuộc
vào số lượng người bị ảnh hưởng và mức độ tác động của dự án. Kế hoạch bồi thường
tái định cư phải được coi là một phần của chương trình phát triểncụthể,cungcấp



đầyđủnguồnvốnvàcơhộichocáchộbịảnhhưởng.Ngoài ra còn phải áp dụng các biện pháp
sao cho người bị di chuyển hào nhập được với cộng đồng mới. Để thực hiện các biện
pháp này, nguồn tài chính và vật chất cho việcdidânluônđượcchuẩnbịsẵn.

1.2.1.5. Một số bài học về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của một số
nướcvàtổchứcquốctế trên.
- Chính sách bồi thường hỗ trợ tái định cư đối với những người bị ảnh hưởng bởi
các dự án thu hồi đất của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế tuy có những điểm
khác biệt nhưng nhìn chung đều phải hướng tới mục tiêu là đền bù thoả dáng, đảmbảo
cho người bị thu hồi đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước khi bị thu hồi đất (về
chỗ ở, việc làm, thu nhập, môi trường, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xãhội).
- Phạm vi đối tượng được bồi thường, hỗ trợ trong các dự án không chỉ giới hạn
trong số người bị thu hồi ñất mà phải mở rộng cho cho tới tất cả những
ngườikhôngbịthuhồiđấtnhưngbịtácđộngtiêucựcbởicácdựánthuhồiđất.
- Sự minh bạch hóa và sự tham gia của những người bị ảnh hưởng bởi dự án bị
thu hồi đất vào việc thực hiện chính sách, xây dựng phương án, thực hiện phương án
bồi thường, hỗ trợ tái định cư là việc hết sức cần thiết bảo đảm ñược lựa chọn được
những chính sách, giải pháp, phương án tốt nhất, nhân văn nhất và có tính khả thicao.
-Chính sách của nhiều nước và tổ chức quốc tế hướng tới việc tránh các phương
án thu hồi đất phải di dân, tái ñịnh cư. Trong trường hợp không tránh khỏi thì phải hạn
chế tới mức thấp nhất dân số phải di dời, đồng thời đảm bảo cho người tái định cư
không những ổn định về kinh tế mà còn phải đảm bảo cho họ hòa nhập nhanh chóng
vào cộng đồng dân cư mới về mọimặt.


* Nhận xét, đánh giá
Để phục vụ lợi ích Quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế,
mục đích an ninh, quốc phòng, các nước đều phải sử dụng quyền lực Nhà nước thông
qua các chính sách Pháp luật khác nhau để thu hồi đất hoặc trưng thu đất của người

đang sở hữu hoặc sử dụng đất đai và được thể hiện ở các nội dung sau:
Trách nhiệm bồi thường: Có thể do Nhà nước hoặc người được sử dụng đất thu
hồi;
Đối tượng được bồi thường: Tất cả những người có đất bị ảnh hưởng bởi dự án
đều có quyền được bồithường;
Phương thức bồi thường: Việc thực hiện bồi thường ñược thực hiện bằng tiền
hoặc hiện vật do thiệt hại về đất đai;
Giá trị đất bị thu hồi hoặc trưng thu: Được tính trên cơ sở giá trị thực của đất trên
nguyên tắc là giá thị trường hoặc giá thaythế;
Chính sách hỗ trợ: Các khoản hỗ trợ cho người bị thu hồi đất hoặc trưng thu đất
nhằm tạo điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định sản xuất, thu nhập và cải thiện
đờisống;
Thông qua việc ban hành và thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái ñịnh cư
khi nhà nước thu hồi đất của các nước và một số tổ chức ngân hàng quốc tế, rút ra các
kinh nghiệp mà Việt nam cần quan tâm được thể hiện ở một số điểmsau:
- Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về đất đai nói chung và chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng đảm bảo tính ổn
định, thống nhất và phù hợp. Tập trung quan tâm vấn đề giá đất và định giá đất; vấn đề
tuyên truyền và phổ biến chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng tới mọi tầng lớp
nhân dân trong xãhội;
- Rà soát, bổ sung chính sách hỗ trợ người bị thu hồi đất ổn định sản xuất, đời
sống, cải thiện thu nhập. Đặc biệt, đối với thu hồi đất sản xuất nông nghiệp,
đốitượngbịảnhhưởnglàhộnghèo,chưađếntuổivàquátuổilaođộng;


1.2.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư ở Việt Nam sau khi Nhà nước thu hồi

đất quacác thời kỳ

1.2.2.1. Thời kỳ trước khi có Luật đất đai1988

Trong thời kỳ các triều đại phong kiến trị vì đất nước, chính sách bồi thường cho
người bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã ñược xác lập và chủ yếu tập trung vào
bồi thường ruộng đất canh tác. Hình thức bồi thường chủ yếu bằng tiền, mức bồi
thường này được quy định chặt chẽ, tương xứng với thiệt hại của người bị thu hồiđất.
Giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngoài một số hiệp ước bất bình đẳng
để chiếm hữu đất, Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 17 tháng chạp năm
1913 là văn bản chính thức định ra những nguyên tắc nhượng địa, núp dưới hình thức
mua bán để chiếm đoạt đất đai.
Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, năm 1946 nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đã ban hành Hiến pháp đầu tiên, trong đó chỉ rõ:” Nhiệm vụ của dân tộc ta
trong giai đoạn này là phải bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết
quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Ngày 14/12/1953, Luật Cải cách ruộng đất ra đời đã
thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và tay sai ở Việt Nam, xóa bỏ
chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu
ruộng đất của nông dân.
Ngày 14/4/1959, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 151/TTg quy định
thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất. Đây có thể coi là văn bản pháp quy đầu tiên
liên quan đến việc bồi thường và tái định cư bắt buộc ở Việt Nam. Ngày 06/7/1959,
Liên bộ Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số
1424/TTLB hướng dẫn thi hành Nghị định 151/TTg với các nguyên tắc cơ bản như
những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần
thiết

được

giúp

giải

quyết


công

ăn

việc

làm;chỉđượctrưngdụngsốruộngđấtthậtcầnthiết,hếtsứctiếtkiệmruộngđất cày cấy, trồng
trọt; hết sức tránh những nơi dân cư đông đúc, nghĩa trang liệt sỹ, nhà thờ, chùa, đền.
Cách bồi thường tốt nhất là vận động nông dân điều chỉnh hoặc nhượng ruộng đất cho
người bị trưng dụng để họ tiếp tục sản xuất. Trường hợp không thực hiện được như
vậy, về đất sẽ được bồi thường bằng tiền từ 1 đến 4 năm sản lượng thường liên của
ruộng ñất bị trưng dụng. Mức bồi thường căn cứ thực tế ở từng nơi, đời sống nhân dân
cao hay thấp, ruộngít hay nhiều, tốt hay xấu mà định. Đối với ruộng đất bị đào để tu bổ


đường sá, làmđậpthìtuỳtheođất bị đào sâu haynông,sảnlượng bị giảmnhiềuhayítmà
địnhmứcbồithườngkhôngquá2nămsảnlượngthườngniên...
Ngày 11/01/1970 Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư 1792/TTg quy định
một số điểm tạm thời về bồi thường thiệt hại nhà cửa, đất đai, cây cối hoa màu cho
nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố trên nguyên tắc “Phải
đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của nhândân”.
Về mức bồi thường, Thông tư 1792/TTg quy định:
+ Đối với nhà cửa thì căn cứ vào giá trị sử dụng, diện tích mà định giá bồi
thường.
+ Đối với đất đai, vùng đồng bằng chia làm 4 loại, vùng trung du đồi núi chia
làm 5 loại, mỗi loại có giá tối thiểu và giá tối đa.
+ Đối với các loại cây lưu niên, việc bồi thường các cây ăn quả dài ngày và ngắn
ngày phải căn cứ vào sản lượng thu hoạch hàng niên và thời hạn trồng, hoa lợi của mỗi
loại cây để quy định giá bồi thường.

Về thể thức bồi thường: trước hết là các ngành cơ quan xây dựng phải liên hệ với
chính quyền các cấp để tiến hành công khai chính sách bồi thường với nhân dân, rồi
căn cứ vào tài sản hiện có (nhà cửa, sản lượng thu hoạch thường niên và thời hạn
hưởng lợi hoa màu) công sức bỏ ra khai phá và phân loại đất đai của địa phương mà
định giá bồi thường cho phù hợp.
Sau khi thống nhất đất nước 1975, Hiến pháp 1980 ra đời, tại điều 19 quy định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Pháp luật không quy định đất đai có giá, tại Quyết định
số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ quy định “ không được phát canh
thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất dưới bất kỳ hình thức nào, không được
dùng đất để thu những khoản lợi không do lao động mà có...” Nhà nước cấp đất không
thu tiền sử dụng đất, quan hệ đất đai là quan hệ đơnthuần.
1.2.2.2.

Thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1993
Luật đất đai năm 1988 ra đời dựa trên quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý. Tại Khoản 4 ðiều 48 quy định: “ Đền bù thiệt hại thực tế
cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho mình, bồi hoàn thành quả lao động
và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của phápluật.”
Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 186-HĐBT ngày 31/5/1990, về bồi
thường thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác. Căn cứ


×