Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 107 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1

CN – TTCN

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

CPTG

Chi phí trung gian

GTNC

Giá trị ngày công

GTSX

Giá trị sản xuất

HQĐV

Hiệu quả đồng vốn

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHKT

Khoa học kỹ thuật



KT – XH

Kinh tế - Xã hội

LM

Lúa mùa

LUT

Loại hình sử dụng đất

LX

Lúa xuân

QHSDĐ

Quy hoạch sử dụng đất

TDTT

Thể dục thể thao

TNHH

Thu nhập hỗn hợp

UBND


Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

2


DANH MỤC BẢNG

3


LỜI MỞ ĐẦU
1

Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, trải
qua hàng nghìn năm với những biến động của thiên nhiên, của lịch sử xã hội loài
người, đất đã trở thành tài nguyên vô cùng quý giá. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nơi tạo ra của cải vật chất, lương thực thực phẩm phục vụ cho cuộc sống của
con người ngoài ra còn là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc
phòng, là tài sản quan trọng của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của
con người và vi sinh vật trên trái đất.
Trong nông nghiệp, đất đai là một tư liệu sản xuất không thể thay thế. Để giải
quyết nhu cầu lương thực của toàn thế giới là một nhiệm vụ khó khăn của nền nông
nghiệp hiện tại và tương lai. Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp
lý có hiệu quả theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn

đề mang tính toàn cầu. Điều mà các nhà khoa học trên thế giới quan tâm là làm thế
nào để sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm đáp ứng cho những ai có nhu cầu,
trong khuôn khổ xã hội và kinh tế có thể thực hiện được. Mục đích của sử dụng đất
là làm thế nào để nguồn tư liệu có hạn này đem lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả sinh
thái, hiệu quả xã hội cao nhất, đảm bảo lợi ích trước mắt và lâu dài. Nói cách khác,
mục tiêu hiện nay của loài người là phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp toàn
diện về kinh tế, xã hội, môi trường một cách bền vững.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vị trí
đặc biệt quan trọng của sản xuất nông nghiệp và đã có nhiều chủ trương, chính sách
trong quản lý nông nghiệp, phát huy vai trò chủ động của người nông dân, phấn đấu
đưa nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Trong
những năm gần đây, việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển mục đích sử dụng làm
diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Chính vì vậy, để đảm bảo an ninh
lương thực thì nâng cao hiệu quả sử dụng đất là tất yếu.

4


Thực tế trong những năm qua đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng đất đai như: giao quyền sử dụng lâu dài, ổn định cho người sử dụng đất,
hoàn thiện hệ thống thủy lợi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa các giống
cây trồng có năng suất cao đưa vào sản xuất, nhờ đó mà hiệu quả sử dụng đất tăng
lên rõ rệt. Trong đó, việc thay đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng giống mới với năng
suất và chất lượng cao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đất. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được thì vẫn có những hạn chế
trong việc khai thác và sử dụng đất đai. Vì vậy để sử dụng đất có hiệu quả cao nhất
là việc hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế. Cần phải có nghiên cứu khoa
học, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, nhằm phát hiện ra
những yếu tố tích cực và hạn chế, từ đó làm cơ sở để định hướng phát triển sản xuất

nông nghiệp, thiết lập các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
Khai thác tiềm năng đất đai sao cho đạt hiệu quả cao nhất là việc làm hết sức
quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng
như sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Cần phải đánh giá thực trạng hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế, từ
đó làm cơ sở để định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp , thiết lập các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Huyện Yên Mỹ là một huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Hưng Yên với tổng diện
tích tự nhiên theo số liệu thống kê đất đai năm 2015 là 9241,31 ha, chiếm 9,93 %
tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Hưng Yên, diện tích đất nông nghiệp của huyện
năm 2015 là 6037,68 ha, chiếm 65,33 % so với tổng diện tích tự nhiên của huyện.
Là một huyện thuần nông, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế xã hội của huyện. Trong những năm gần đây, kinh tế nông nghiệp,
nông thôn của Yên Mỹ tuy có nhiều bước phát triển mới xong nhìn chung vẫn còn
một số bất cập, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế chưa cao. Thêm nữa cùng
với sức ép của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự gia tăng dân số thì mục

5


tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là hết sức cần thiết cho sự phát triển
nông nghiệp bền vững.
Từ thực tế cũng như nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề đồng
thời dưới sự phân công của khoa Quản lý đất đai cùng sự quan tâm của cô Võ Diệu
Linh, tôi tiến hành nghiên cứu đè tài : Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên".
2.Mục đích, yêu cầu
2.1 Mục đích
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.

- Đánh giá hiện trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã.
- Đề xuất hướng sử dụng đất có hiệu quả cao phù hợp với điều kiện tự nhiên
kinh tế xã hội và môi trường của xã, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2.2 Yêu cầu
- Nắm chắc cách thức điều tra, nguyên tắc, quy trình và phương pháp đánh giá
hiệu quả sử dụng đất.
- Thu thập chính xác số liệu về các loại hình sử dụng đất trên địa bàn xã. Số
liệu điều tra, thu thập phản ánh trung thực, khách quan.
- Đánh giá hiệu quả của các loại hình sử dụng đất trên địa bàn xã.
- Đề xuất hướng sử dụng đất hiệu quả.
- Những đề xuất kiến nghị khả thi, phù hợp với địa phương nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.

6


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1
1
1

Một số vấn đề lý luận về sử dụng đất nông nghiệp
Khái niệm về đất, đất nông nghiệp
Khái niệm về đất
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là đá và
khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt tơi xốp của
lục địa có khả năng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là lớp phủ thổ nhưỡng,
là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của thể tự nhiên đó là do hợp
điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy quyển

và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên và thổ quyển có tính thường
xuyên và cơ bản.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm về đất.
Khái niệm đầu tiên của Nhà bác học người Nga Docutraiep (1846-1903) người đặt
nền móng đầu tiên cho khoa học đất cho rằng: “Đất là một vật thể tự nhiên cấu tạo
độc lập lâu đời do kết quả quá trình hoạt động của 5 yếu tố hình thành đất đó là: đá
mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời gian”. Tuy vậy, khái niệm này chưa đề cập
đến khả năng sử dụng đất và sự tác động của các yếu tố khác tồn tại trong môi
trường xung quanh. Do đó sau này một số học giả khác đã bổ sung các yếu tố: nước
của đất, nước ngầm và đặc biệt là vai trò của cong người để hoàn chỉnh khái niệm
về đất nêu trên. Ngoài ra, còn một số học giả khác cũng có những khái niệm về đất
như sau: “Đất là lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm của cây”
(Nhà nông học người Anh V.R William), “Đất được xem như một thể sống, nó luôn
vận động, biến đổi và phát triển” [11].
Những năm gần đây trên những tạp chí quốc tế đã xuất hiện một cụm từ mới
“land husbandry” và được hiểu là chúng ta phải nuôi dưỡng đất. Đất là một vật thể
sống cũng tuân thủ theo những quy luật sống, phát sinh, phát triển, thoái hoá và già
cỗi. Tùy thuộc vào thái độ ứng xử của con người đối với đất mà đất có thể trở nên
phì nhiêu hơn, cho năng suất cây trồng cao hơn hay ngược lại.

7


Trong đánh giá đất theo FAO, đất đai được nhìn nhận là một yếu tố sinh thái
(FAO, 1976) có thể hiểu rộng ra rằng: đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học
và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng
sử dụng đất, các thuộc tính đó bao gồm: khí hậu, dáng đất, địa hình, địa mạo thổ
nhưỡng, thực vật, thảm thực vật tự nhiên, cỏ dại trên đồng ruộng, động vật tự nhiên
và những biến đổi của đất do hoạt động của con người [5].
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận là một nhân

tố sinh thái. Với khái niệm này, đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự
nhên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử
dụng đất. Đất theo nghĩa đất đai bao gồm: khí hậu, dáng đất, địa hình địa mạo, thổ
nhưỡng, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên bao gồm cả rừng, cỏ dại trên đồng ruộng,
động vật tự nhiên, những biến đổi của đất do các hoạt động của con người.
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng
“Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” và đất đai
được hiểu theo nghĩa rộng “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao
gồm tất cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt
bao gồm: khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề
mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, động thực vật, trạng thái
định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại.
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là một khoảng không gian có giới hạn,
theo chiều thẳng đứng gồm: lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt
nước, mặt nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất theo chiều nằm ngang - trên bề
mặt đất, giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối với hoạt động sản
xuất và cuộc sống của xã hội loài người [13].
1.1.1.2 Khái niệm đất nông nghiệp
Theo quan điểm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp thường
được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn... và những loại
cây được coi là cây lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất nông

8


nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn
dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng cây lâu năm.
Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc sử dụng vào mục đích

nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất nông nghiệp người ta nói đất sử
dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp
đất đai được sử dụng vào mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó,
đất đai được sử dụng chủ yếu cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là
đất nông nghiệp, nếu không sẽ là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục
đích nào là chính)
Tuy nhiên để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai
có thể tham gia vào hoạt đọng sản xuất nông nghiệp mà không cần có đầu tư lớn
nào cả. Như vậy có thể nói: đất nông nghiệp (ký hiệu NNP) là đất sử dụng vào mục
đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông nghiệp bao gồm: đất
trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng
cây lâu năm; đất rừng sản xuất; Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi
trồng thủy sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác [10].
1.1.2. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng đất
1.1.2.1. Sử dụng đất là gì
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ người đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào
quy luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng ổn định và bền
vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng đất
hợp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới
hiệu ích sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt
động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng
đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất

9


đai. Với vai trò là nhân tố sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử

dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh
tế sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai một
cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng nông nghiệp
a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp. Bởi các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh
vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên trên cơ sở đó
xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo
N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các nước phát
triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế
giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì của đất.
Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất
nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể lợi dụng
những yếu tố đầu vào trong kinh tế, thuận lợi để tạo ra nông sản hàng hoá với giá rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt trời dựa
trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.


Yếu tố khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và phát
triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ, không khí
nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm không khí

10



chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng, ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ độ
địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng
vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5 0C, lượng mưa trung bình từ 1.500
- 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 giờ/năm. Trong khi đó, ở miền nam
khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 - 27,5 0C, lượng mưa trung
bình 1.400 - 2.400 mm, nắng trên 2.000 giờ/năm.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các loại cây
trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu như ở trung du
và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu côve, súp lơ xanh... ở
đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông có nguồn gốc ôn đới... thì ở
đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng cây đặc sản như sầu riêng, măng cụt... hay
miền Đông Nam bộ có thể trồng chôm chôm, trái bơ, và Tây Nguyên trồng cây
công nghiệp lâu năm cao su, cà phê, điều là những cây nhiệt đới điển hình.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ, nhiệt
độ thấp vào vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt, mưa phùn, thiếu ánh
sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng, ưa nhiệt nhưng
lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u thiếu ánh sáng
cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá hại mùa màng.


Yếu tố đất trồng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng với
các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, có vai trò quan
trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng, ảnh hưởng đến

hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố sinh
trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những yếu tố quan

11


trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá trình hình thành độ
phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến năng suất cây trồng. Do
vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng thích hợp trên
từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng đất cao.


Yếu tố cây trồng
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con người
hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm này cung
cấp lương thực cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những giá trị
cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược lại, nếu cây
trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những gây thất thu cho
người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển
gắn với việc tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác giống cây
trồng đã tạo cơ hội cho việc phát triển nông nghiệp hàng hoá.
b. Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội




Yếu tố con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi dân
số còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức
hạn chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các
nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn nhằm đạt
năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm,
tính bền vững tài nguyên đất kém hơn . Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo
vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, dân
số vừa là thị trường của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là nguồn cung về lao

12


động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển nếu không có thị
trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc biệt, đối với một nền sản xuất
nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có ý thức
trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.


Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói
riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Khi kinh tế phát triển là tiền đề cho quá trình sử dụng đất đạt được hiệu
quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao, nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.




Cơ chế chính sách
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành được
những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi nền kinh tế,
người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện khác nhau, đặc
biệt là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình đẳng về thu nhập. Mặt
khác, thị trường luôn hàm chứa các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến
một số người giàu lên do có những việc làm bất chính. Vì vậy, nhà nước cần can
thiệp vào thị trường thông qua những chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối
lại thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội. Các chính sách đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc
làm và xoá đói giảm nghèo, khuyến nông...thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá
trình sử dụng đất nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
người nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường, thông tin
thị trường, sức mua... hơn nữa các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông
nghiệp cũng làm cho sản xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa bãi phân hoá học

13


thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ... có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước
không khí và đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng các chính sách và pháp luật
thích hợp đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm
bảo tính bền vững của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo
ổn định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phủ đã không ngừng ban hành sửa

đổi và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục đích thúc đẩy sự
phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai sửa đổi (chính thức có hiệu
lực vào ngày 1/7/2013) đã thể chế hoá và nới rộng quyền của người sử dụng đất.
Đây là một chính sách khuyến khích người nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn,
thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm phát triển sản xuất hàng hoá một cách có hiệu quả.
Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng lâu
dài đối với đất. Người sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng lâu dài mà còn
được quyền thừa kế những đầu tư trên đất. Điều đó đã trở thành động lực quan
trọng trong phát triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên
đất, sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi thế
so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách về đất đai thông
thoáng sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất mới như thâm canh, tăng
vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử dụng để sản xuất cây
trồng có giá trị hàng hoá cao. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một cách
đầy đủ và hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành
tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình
thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu

14


biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những
dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn
chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh
vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp

hàng hoá. Theo Frank Elli và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác
động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt
ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản
xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh
dựa trên việc chuyển đổi sử dụng đất. Cho đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp
nước ta các quy trình kỹ thuật đã đóng góp đến 30% năng suất kinh tế. Như vậy
nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai
thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng cung về
hàng hoá nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa học (kiến
thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách bền vững. Thông
qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như
giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ thuật trong canh tác, trong chế biến
bảo quản…làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng
nguồn lực như đất đai, lao động, vốn.
Lựa chọn các tác động khoa học kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử
dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật sẽ đạt được mục
tiêu đề ra.
1.1.3 Vai trò của đất nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất
trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về tầm quan
trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho tàng cung cấp
các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể” (C.Mac

15


1949). Đất đai là tài nguyên của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết định sự tồn tại và

phát triển của con người, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất.
C.Mác đã nhấn mạnh lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trong sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không
thể thay thế với những đặc điểm:
- Đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm nghiệp
bởi vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá trình sản xuất.
Đất đai là đối tượng bởi lẽ nó là nơi con người thực hiện các hoạt động của mình tác
động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
- Đất đai là loại tư liệu sản xuất không thể thay thế vì đất đai là sản phẩm của
tự nhiên, nếu biết sử dụng hợp lý đúng cách sức sản xuất của đất đai ngày càng tăng
lên. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử sụng đất phải đứng trên quan điểm đúng
đắn, hoạt động có ý nghĩa của con người.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế về số lượng vì vậy cần phải tính toán kỹ để
khai thác có hiệu quả.
- Đất đai có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều giữa các vùng miền.
Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu,
nước...) điều kiện kinh tế-xã hội (dân số, lao động, giao thông, thị trường...) và có
các chất lượng đất khác nhau. Do vậy việc sử dụng đất đai phải gắn liền với việc
xác định cơ cấu cây trồng vật nuôi cho phù hợp để nhằm đem lại hiệu quả kinh tế
cao trên cơ sở nắm chắc điều kiện của từng vùng lãnh thổ.
- Đất đai được coi là một loại tài sản, người chủ sử dụng đất có quyền nhất
định do pháp luật của mỗi nước quy định: tạo thuận lợi cho việc tập trung, tích tụ và
chuyển hướng sử dụng đất từ đó phát huy được hiệu quả nếu biết sử dụng đầy đủ và
hợp lý.

16



Như vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình sản xuất
nông nghiệp. Thực tế cho thấy thông qua quá trình phát triển của xã hội loài người,
sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất, văn minh tinh thần, các
thành tựu vật chất, văn hóa khoa học đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản đó là
đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất hợp lý, có
hiệu quả là một trong những điều kiện quan trọng nhất cho nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững.
4

Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp được sử dụng hợp lý đầy đủ. Điều này có nghĩa toàn bộ
diện tích đất cần được sử dụng hết vào sản xuất với việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật
nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại đất nhằm nâng cao năng suất cây trồng, vật
nuôi đồng thời giữ gìn bảo vệ và nâng cao độ phì của đất.
- Đất nông nghiệp phải sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết quả của việc sử
dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất thông qua tính toán
hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: năng suất cây trồng, chi phí đầu tư, hệ số sử dụng
đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng đất phải
thực hiện tốt, đồng bộ các biện pháp kỹ thuật và chính sách kinh tế-xã hội trên cơ sở
đảm bảo về lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến và nông lâm sản xuất cho xuất khẩu.
- Đất nông nghiệp cần được quản lý và sử dụng một cách bền vững. Sự bền
vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có nghĩa là đất đai phải
được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà còn cho cả
tương lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với điều kiện sinh thái môi trường. Vì
vậy, các phương thức sử dụng đất nông lâm nghiệp phải gắn liền với việc bảo vệ
môi trường đất, đáp ứng được lợi ích trước mắt và lâu dài.
Như vậy, để sử dụng triệt để và có hiệu quả , đảm bảo cho quá trình sản xuất
được liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần thiết và hết sức

quan trọng với mỗi quốc gia và vùng miền.

17


5

Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người về các
sản phẩm được lấy từ đất ngày càng tăng. Mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp do chuyển sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước
ta cần hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm bảo an
ninh lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới
xuất khẩu. Sử dụng đất nông nghiệp trong sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở cân
nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội , tận dụng được tối đa lợi thế so sánh
về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những
nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài
nguyên đất đai. Do đó đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ
và hợp lý”.
*Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững:
Theo FAO, Nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên cho
nông nghiệp (đất đai, lao động...) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của cong người,
đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên , môi trường và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có hiệu quả kinh
tế, đáp ứng nhu cầu xã hội về an ninh lương thực, đồng thời giữ gìn và cải thiện tài
nguyên thiên nhiên và chất lượng của môi trường sống cho đời sau.
Hệ thống nông nghiệp bền vững là phải đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao về
ăn và mặc thích hợp cho hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn với việc tăng
phúc lợi trên đầu người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng, vì một phần sản
lượng nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong nnhuwngx thập kỷ tới.

Các quan điểm trên về nồng nghiệp bền vững có nhiều cách biểu thị khác
nhau, song về nội dung thường bao gồm 3 thành phần cơ bản:
- Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống nông
nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái và không tổn hại đến môi trường.
- Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối quan
hệ con người hiện tại và cả cho đời sau.

18


- Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông ghiệp hợp lý.
Phát triển nông nghiệp bền vũng chiếm vị trí quan trọng, nhiều khi có tính
quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Điều cơ bản nhất của phát triern
nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng đắn
về môi trường để gìn giữ tài nguyên đất đai cho thế hệ sau và điều quan trọng nhất
là phải biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, giữ vững, cải thiện chất lượng môi
trường, có hiệu quả kinh tế, năng suất cao và ổn định tăng trưởng chất lượng cuộc
sống, bình đẳng các thế hệ và hạn chế rủi ro.
*Các nguyên tắc về sử dụng đất nông nghiệp bền vững:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất
- Giảm thiểu rủi ro trong sản xuất.
- Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn suy thoái đất và nước.
- Có hiệu quả bền lâu.
- Được xã hội chấp nhận.
Năm nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất đai bền vững, nếu sử dụng
đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất đai được bảo vệ cho phát triển nông
nghiệp bền vững.
Để duy trì sự sống của con người, nhân loại đang phải đương đầu với nhiều
vần đế hết sức phức tạp và khó khăn, sự bùng nổ dân số, nạn ô nhiễm và suy thoái
môi trường, mất cân bằng sinh thái...Nhiều nước trên thế đã xây dựng và phát triển

nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp bề vững.
Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu dài. Một trong
những cơ sở quan trọng bậc nhất của nông nghiệp bền vững là thiết lập được các hệ
thống sử dụng đất hợp lý.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa đảm
bảo nhu cầu của các thế hệ tương lai. Một quan niệm khác cho rằng: Phát triển nông
nghiệp bền vững là quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Để

19


phát triển nông nghiệp bền vững ở nước tâ cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu
bền của từng mô hình, để duy trì và phát triển đa dạng sinh học.
Việc quản lý và sử dụng đất bền vững bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính
sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế-xã hội với các quan tâm về
môi trường để đồng thời:
- Duy trì nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất)
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn)
- Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hóa đất, nước (bảo bệ)
- Có hiệu quả lâu dài 9 (bền vững)
- Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận).
1.2 Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1 Phân loại hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp tổ chức
sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc phục các
khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể còn gắn
sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, gắn sản xuất
trong nước với thị trường quốc tế.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây

trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là mong muốn của
nông dân-những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, các nhà khao học đều cho rằng vấn đề đánh giá hiệu quả sử dụng đất
không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải xem xét
trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi
trường.

20


1.2.1.1 Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền sản
xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau. Vì thế, hiệu
quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo quy luật
“tiết kiệm thời gian”.
- Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết hệ thống.
- Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt
động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ các lợi ích
của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt được
là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của
nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về phần so sánh tuyệt đối và
tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế sử
dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhằm đáp

ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội”.
- Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan hệ này
là mối quan hệ hiệu số hoặc là quan hệ thương số, nên dạng tổng quát của hệ thống
chỉ tiêu hiệu quả sẽ là:
H=K-C
H = K/C
H = (K - C)/C
H = (K1 - K0)/(C1 - C0)
Trong đó:
+ H: Hiệu quả

21


+ K: Kết quả
+ C: Chi phí
+ 1, 0 là chỉ số thời gian (năm)
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường
xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử
dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng ( GTGT)
Giá trị gia tăng được tính theo công thức: GTGT = GTSX - CPTG
- Hiệu quả đồng vốn (H): H = GTGT/CPSX
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG
GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử dụng
các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.

+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu sử
dụng đất và từng cây trồng cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của người lao động.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế sử
dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội”.
1.2.1.2 Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và
tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với
nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn Duy Tính (1995), hiệu quả về
mặt xã hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo
việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.

22


Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu nhập của
nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, phát huy được
nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân. Sử dụng đất phải phù
hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử dụng đất bền vững hơn.
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng.
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
1.2.1.3 Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ
được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ môi trường
sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%) đa dạng

sinh học biểu hiện qua thành phần loài.
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và theo
chiều hướng khác nhau. Cây trồng phát triển tốt khi phù hợp với đặc tính, tính chất
của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của các hoạt động sản
xuất, phương thức quản lý của con người, hệ thống cây trồng sẽ tạo nên những ảnh
hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên gồm: hiệu quả
hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử dụng
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại giữa cây
trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu việc sử dụng hoá
chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.

23


Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt nhất tài
nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử dụng đất để đạt
được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
Theo Đỗ Nguyên Hải, (1999) chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong
quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn.
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững.
+ Đánh giá quản lý đất đai.
+ Đánh giá hệ thống cây trồng.
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo
vệ cây trồng.

+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên.
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông
nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân
tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc
đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về việc đầu tư phân bón
thuốc bảo vệ thực vật và nhận xét của nông dân đối với các loại hình sử dụng đất
hiện tại.
Khi đánh giá một kiểu sử dụng đất hay một loại hình sử dụng đất về mặt xã
hội phải xét đến những yêu cầu sau:
- Đảm bảo an ninh lương thực.
- Phải được sự chấp nhận và ủng hộ của người dân.
- Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động địa phương.
- Phải đảm bảo đời sống, tăng thu nhập cho người lao động (xét trên cơ sở: số
công lao động, giá trị ngày công lao động).
- Trình độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật: khả năng ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

24


1.2.2 Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Tuỳ theo nội dung của hiệu quả mà có những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
khác nhau ở mỗi thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Theo đa số các nhà
kinh tế cho rằng, tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ
đáp ứng nhu cầu xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí các nguồn tài nguyên, sự
ổn định lâu dài của hiệu quả.
Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có thể
xem xét ở các mặt sau:
+ Đối với nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mức đạt được các

mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường do xã hội đặt ra như: tăng năng suất cây trồng
vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thoả mãn tốt nhun cầu nông
sản cho thị trường trong nước và tăng xuất khẩu, đồng thời đáp ứng yêu cầu về bảo
vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
+ Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào, theo
nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất định, hoặc thực
hiện cực đại hoá lượng nông sản khi có mọt lượng nhất định đất nông nghiệp và các
yếu tố đầu vào khác.
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có đặc thù riêng, trên 1 đơn vị
đất nông nghiệp nhất định có thể sản xuất sẽ đạt được kết quả cao nhất với chi phí
bỏ ra ít nhất và hạn chế ảnh hưởng môi trường. Đó là phản ánh kết quả quá trình
đầu tư sử dụng các nguồn lực thông qua đất, cây trồng, thực hiện quá trình sinh học
để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường xã hội với hiệu quả cao.
+ Tiêu chuẩn đảm bảo hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong cung
cấp tư liệu sản xuất, xử lý chất thải có hiệu quả.
+ Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến những
người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải theo quan
điểm sử dụng bền vững hướng vào 3 tiêu chuẩn chung như sau:

25


×