Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.83 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

VŨ ĐÌNH QUỲNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN NINH BÌNH

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐẶNG VŨ TÙNG

Hà Nội – 2011


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng đã và đang là một trong những hoạt động kinh doanh chính
đem lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam. Tuy
nhiên, cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng thì lĩnh vực tín dụng
cũng là lĩnh vực có rủi ro lớn nhất. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
thường rất nặng nề: làm tăng thêm chi phí của ngân hàng, thu nhập lãi bị chậm hoặc
mất đi cùng với sự thất thoát vốn vay, làm xấu đi tình hình tài chính và cuối cùng làm
tổn hại đến uy tín và vị thế của ngân hàng.
 



Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, không thể loại bỏ

hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp để phòng ngừa hoặc
giảm thiểu thiệt hại tối đa khi rủi ro xảy ra. Đứng trên quan điểm quản lý toàn bộ hoạt
động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, một tỷ lệ tổn thất dự kiến
đối với hoạt động tín dụng phải luôn được xác định trong chiến lược hoạt động. Khi
ngân hàng kinh doanh với một mức tổn thất thấp hơn hoặc bằng mức tỷ lệ tổn thất dự
kiến thì đó là sự thành công trong lĩnh vực quản lý rủi ro. Ngân hàng phải bằng
nhiều biện pháp tác động đến hoạt động tín dụng để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng
nhằm góp phần đạt tới mục tiêu hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả trong tăng trưởng.
Thực tiễn hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình
thời gian qua cũng cho thấy rủi ro tín dụng chưa được kiểm soát một cách hiệu quả và
đang có xu hướng ngày một gia tăng. Chính vì vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là rủi ro
tín dụng phải được quản lý, kiểm soát một cách bài bản và có hiệu quả, đảm bảo tín
dụng hoạt động trong phạm vi rủi ro chấp nhận được, hỗ trợ việc phân bổ vốn hiệu quả
hơn trong họat động tín dụng, giảm thiểu các thiệt hại phát sinh từ rủi ro tín dụng và
tăng thêm lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi
thế của ngân hàng trong cạnh tranh.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, cùng với sự thay đổi
của cơ chế chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, thay đổi về lãi sất, thay đổi về tỉ lệ dự trữ bắt
buộc… cũng là nguyên nhân tiểm ẩn rủi ro đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Một ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có năng lực tài chính
mạnh và quản lý được rủi ro trong giới hạn cho phép sẽ tạo được niềm tin của khách
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

1

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

hàng và nâng cao được vị thế, uy tín đối với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng
trong và ngoài nước. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp ngân hàng đạt được mục
tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững cũng như thực hiện thành công các hoạt
động hợp tác, liên doanh liên kết trong xu thế hội nhập.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình”.
2. Mục đích và mục tiêu của đề tài
Mục đích của đề tài: góp phần giảm thiểu những thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra,
từ đó nâng cao sức cạnh tranh và uy tín của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình,
giúp Ngân hàng phát triển trở thành ngân hàng hàng đầu trên địa bàn tỉnh cũng như của
khu vực Nam sông Hồng.
Để đạt đến mục đích đó, đề tài đặt ra các mục tiêu cụ thể là:
- Xác định thực trạng rủi ro tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình.
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm giúp hạn chế rủi ro tín dụng cho
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Ninh Bình.
Phạm vi nghiên cứu: do điều kiện thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung vào nghiên
cứu hoạt động cho vay thương mại tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Ninh Bình là
mảng hoạt động chính chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động của Ngân hàng, mà
không đi vào nghiên cứu các dạng rủi ro tín dụng khác là: chiết khẩu và thuê mua. Số
liệu được thu thập tại Ngân hàng ứng với khoảng thời gian từ 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phối kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm làm rõ các
nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng tại BIDV Ninh Bình. Các phương pháp sử dụng bao gồm:
-Sử dụng phương pháp thống kê trong quá trình thu thập dữ liệu.
-Sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh trong quá trình phân tích số liệu giữa
các thời kỳ nghiên cứu.
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

2

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm những nội dung chính sau:
Chương 1 : Khái quát về tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Ninh Bình
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Ninh Bình.

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

3

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

CHƯƠNG I.
KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng; là doanh nghiệp tiến hành thường xuyên các nghiệp vụ huy
động vốn, tín dụng, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, kinh
doanh ngoại tệ, đầu tư chứng khoán, ...và cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
1.1.2. Các chức năng của Ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt và đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế. Tầm quan trọng của các NHTM được thể hiện qua các chức năng cơ bản của
nó như sau.
1.1.2.1. Chức năng làm trung gian tài chính
Trung gian tài chính là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động
làm cầu nối cho người cần vốn và người có khả năng cung cấp vốn.
Các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả các khu vực của
nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm
của dân chúng. Người gửi tiền tiết kiệm nhận được một khoản tiền thưởng dưới danh
nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi tiết kiệm ở Ngân hàng với mức độ an toàn và khả
năng thanh khoản cao. Số tiền huy động được qua hình thức tiết kiệm luôn sãn sàng
đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng
sản xuất và phục vụ các mục đích khác của cuộc sống. Phần lớn tiền gửi tiết kiệm
được huy động qua hệ thống Ngân hàng thương mại.

Ngay từ khi mới bắt đầu hình thành, các NHTM đã luôn tìm kiếm các cơ hội để
cho vay và coi đó là chức năng quan trọng nhất của mình. Trong việc tạo ra khả năng
tín dụng, các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình làm cho sản
phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống nhân dân
được cải thiện. Tín dụng NHTM có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, nó

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

4

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công thương nghiệp và nông nghiệp của nền
kinh tế.
1.1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán
NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những cơ chế thanh toán
mới. Như chúng ta đã biết, ban đầu tiền giấy có hình thái giấy nhận nợ và được các
ngân hàng đảm bảo đổi ra vàng hoặc bạc khi cần thiết. Tiếp đó séc ra đời thì phần lớn
việc thanh toán bù trừ séc được thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại.
Việc vi tính hoá công việc thanh toán bù trừ séc đã rút ngắn quá trình thanh toán này,
đồng thời giảm bớt chi phí và nâng cao độ chính xác. Rồi trong những năm gần đây
nghiệp vụ ngân hàng không séc ra đời đã cho thấy vai trò quan trọng của Ngân hàng
thương mại. Với dịch vụ ngân hàng điện tử, khách hàng có thể thực hiện rút tiền, gửi
tiền, thanh toán nợ, chuyển vốn giữa tiền gửi tiết kiệm và tài khoản séc thông qua một

máy tính được nối mạng Internet.
Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động buôn bán
quốc tế, nhưng chúng có sự khác nhau đáng kể bắt nguồn từ sự khác nhau về hệ thống
tiền tệ ở mỗi nước, năng lực tài chính của người mua và người bán thuộc các nước
khác nhau. Chính từ sự khác nhau này, các NHTM cần thiết cung ứng các nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế đối với các hoạt động ngoại thương như: chiết khấu hối phiếu, bảo
lãnh, tín dụng thư, mua và bán séc du lịch.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân hàng
thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn
tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù đã
vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Nền kinh tế cần có một số cung ứng tiền vừa đủ, phù hợp với mục tiêu khác
như lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững và tạo được việc làm. Và các NHTM
đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các chính sách này. Chúng được sử
dụng như là một kênh mà qua đó lượng tiền cung ứng tăng lên hoặc giảm xuống nhằm
đạt được những mục tiêu quan trọng nói trên.
1.1.2.4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

5

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Phần lớn các NHTM đều thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán tức là dịch vụ

lưu giữ, bảo quản và giúp khách hàng thực hiện quyền đối với chứng khoán do họ sở
hữu. Dịch vụ lưu ký chứng khoán có thể đem lại nguồn lợi đáng kể cho các NHTM có
đủ năng lực tài chính cũng như trình độ nghiệp vụ. Tuy nhiên chính phủ luôn kiểm
soát chặt chẽ sự tham gia và mức độ tham gia của các NHTM vào dịch vụ này dựa
trên cơ sở tính dụng ngân hàng vượt quá giới hạn đầu cơ chứng khoán có thể gây ra
khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng. Công nghệ ngân hàng đang tiến triển mạnh
mẽ, đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Và nghiệp vụ môi giới chứng khoán sẽ còn
là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM và nhận được nhiều tác động tích cực từ sự
đổi mới của công nghệ ngân hàng trong tương lai.
Việc thu nhập tăng lên đã tạo ra khả năng tích luỹ lành mạnh, và chính khả
năng đó đã góp phần vào việc phát triển các dịch vụ uỷ thác tài sản của ngân hàng
thương mại. Trong bối cảnh như thế mỗi cá nhân có thể tích luỹ một khối lượng tài
sản lớn, thậm chí chỉ ở mức trung bình cũng có thể xuất hiện nhu cầu muốn bảo quản
và phân chia số tài sản đó khi qua đời. Với hình thức uỷ thác tài sản, đơn vị được uỷ
thác có trách nhiệm sử dụng tài sản để đầu tư và quản lý số tài sản này, kể cả việc
phân chia tài sản theo các điều khoản của hợp đồng uỷ thác.
Nhờ ưu thế của ngân thương mại là nơi kiên cố dùng để bảo quản tiền, giấy tời
có giá và các tài sản khác của ngân hàng, các NHTM có điều kiện thực hiện chức
năng bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng. So với các chức năng khác, bảo
quản vật có giá ra đời trước ngay cả chức năng tín dụng là chức năng cơ bản và chủ
yếu của ngân hàng thương mại. Công việc bảo quản vật có giá được phân thành hai bộ
phận khác nhau trong một ngân hàng: cho thuê két sắt và ký thác, trực tiếp bảo quản
vật có giá của khách hàng.
1.1.3. Sơ lược các mặt hoạt động của Ngân hàng thương mại
Trong hoạt động, NHTM thực hiện và cụ thể các chức năng của mình thông
qua các hoạt động sau:
1.1.3.1. Huy động vốn
Đây là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng thương mại, bởi vì
để có tiền cho vay và kinh doanh trong các lĩnh vực kinh doanh khác, ngân hàng
không thể chỉ dựa vào nguồn vốn điều lệ của mình mà phải huy động vốn trên thị

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

6

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

trường. Các hình thức huy động vốn cũng rất đa dạng, thích hợp với từng loại khách
hàng như tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi
và trái phiếu ngân hàng, …
1.1.3.2. Vay các tổ chức khác
Để mở rộng nguồn vốn hoạt động hoặc đáp ứng khả năng thanh toán và chi trả
cho khách hàng, các ngân hàng có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài
nước, hoặc vay của ngân hàng trung ương dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu,
tái thế chấp,…
1.1.3.3. Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động chủ lực của ngân hàng, đem lại nguồn thu cơ bản trong tổng
thu nghiệp vụ. NHTM thường cấp tín dụng cho khách hàng dưới những hình thức
như: thấu chi, chiết khấu thương phiếu, tín dụng thế chấp, tín dụng trả góp, tín dụng
bảo lãnh, tín dụng thuê mua, …
1.1.3.4. Nghiệp vụ đầu tư
Để tăng thêm lợi nhuận và tăng tính đa dạng trong hoạt động, các NHTM còn
sử dụng nguồn vốn tự có và huy động được để đầu tư vào chứng khoán hoặc tham gia
thành lập các công ty, …
1.1.3.5. Kinh doanh ngoại tệ
Bên cạnh việc huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, các NHTM còn kinh

doanh mua bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái. Hoạt động này cũng có thể đem lại
cho ngân hàng một nguồn đáng kể lợi nhuận.
1.1.3.6. Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
Trong hoạt đông kinh doanh hiện nay của ngân hàng thương mại, hoạt động
cung cấp dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển. Đây là loại hình kinh doanh ít rủi ro
nhưng lợi nhuận thu được trên nhiều mặt: vừa thu phí dịch vụ, đồng thời lại thu hút
được khách hàng và quảng bá thương hiệu hình ảnh. Cụ thể, có các hình thức dịch vụ
chủ yếu sau: dịch vụ kiều hối, chuyển tiền liên ngân hàng, dịch vụ thẻ ATM, phát
hành thư bảo lãnh, dịch vụ ngân hàng điện tử Internet banking, Mobile banking…
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
1.2.1. Khái niệm, bản chất của tín dụng ngân hàng
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

7

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ La tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
trong quan hệ tài chính thuật ngữ này được sử dụng nhiều nhất là hoạt động của ngân
hàng.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được
hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp
và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử

dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Đây là
quan hệ tín dụng gián tiếp mà người gửi tiền tiết kiệm, thông qua vai trò trung
gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn.
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam thì: “Hoạt động tín dụng là việc tổ
chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”, và
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản
tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế, là nhân
tố trung gian góp phần đưa vốn từ người có vốn nhưng không có nhu cầu sử dụng đến
với người có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có vốn. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá
trình tập trung vốn và tập trung sản xuất bằng cách thông qua việc tập trung và ưu tiên
vốn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm, là những nơi có nhu cầu vốn
cực lớn, từ đó tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao sức mạnh, sức cạnh tranh của
nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
1.2.2.2. Là công cụ quản lý tài chính cho doanh nghiệp
- Về phía người vay vốn luôn cân nhắc giữa hiệu quả vốn vay mang lại với thời
hạn, lãi suất của vốn vay và họ chỉ vay khi có tính toán có lãi, đó chính là bản chất của
hạch toán kinh tế.

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

8

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

- Về phía ngân hàng khi cho vay cũng đòi hỏi khách hàng phải thoả mãn nhiều
điều kiện về tình hình tài chính. Điều đó buộc doanh nghiệp phải tăng cường hơn nữa
công tác hạch toán kinh doanh, quản lý tài chính và tích luỹ vốn.
1.2.2.3. Là công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ
Khi NHTM thực hiện hành vi cấp tín dụng cho nền kinh tế, với khả năng cung
ứng tiền tệ hay thu hẹp tín dụng. Chính từ khả năng này, tín dụng ngân hàng đã được
nhà nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông thông
qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như: Dữ trữ bắt buộc, Hạn mức
tín dụng, Lãi suất chiết khấu, Các công cụ của thị trường mở…giúp ổn định thị trường
tài chính cũng như nền kinh tế.
1.2.2.4. Thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng là công cụ giúp nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ,
đồng thời cũng giúp chính NHTM có một môi trường kinh doanh tốt. Với sức mua
đồng tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng, từ đó huy động được tối đa
các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thoả mãn cao nhất nhu cầu vốn mở rộng đầu tư
của nền kinh tế. Mặt khác, với hoạt động tín dụng, NHTM trở thành trung gian tài chính
đặc biệt có khả năng giảm thiểu các chi phí và rủi ro, do đó đã thoả mãn nhu cầu tiết kiệm
và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
1.2.3. Phân loại tín dụng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng
với những mục đích sử dụng khác nhau. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ phân
loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:
• Dựa vào mục đích tín dụng:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh: Trong trường hợp này ngân hàng cung
cấp vốn vay cho khách hàng bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp để bổ sung vốn cho
họat động sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như cho một khách hàng cá nhân vay vốn

để bổ sung vốn kinh doanh cửa hàng tạp hóa, cửa hàng quần áo thời trang, cho một
công ty vay vốn bổ sung vốn kinh doanh họat động xuất nhập khẩu.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: Các cá nhân có nhu cầu mua sắm các vật dụng
gia đình như xe máy, vật dụng trang trí nội thất cho căn nhà mới, thông qua ngân

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

9

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

hàng, các cá nhân này sẽ được bổ sung vốn nhất định trong một thời hạn cụ thể kèm
theo những điều kiện vay vốn nhất định.
+ Cho vay đầu tư tài sản cố định: Ngân hàng sẽ hỗ trợ cho các khách hàng vay
vốn đầu tư tài sản cố định như xe hơi, máy móc thiết bị, nhà xưởng….
• Dựa vào thời hạn tín dụng
+ Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của
loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc bổ sung vốn lưu động cho họat động
kinh doanh.
+ Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là nhằm vào tài trợ cho đầu tư vào tài sản cố định như máy móc thiết
bị, nhà xưởng.
+ Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư như tài sản cố định phục vụ
cho họat động kinh doanh hoặc các dự án xây dựng kinh doanh nhà ở.

• Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
+ Cho vay không tài sản đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng vay vốn
để quyết định cho vay. Các ngân hàng thường cấp vốn vay cho khách hàng không có
tài sản thế chấp, ngoài căn cứ vào uy tín của khách hàng, còn căn cứ vào dòng tiền về
của phương án vay vốn
+ Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền
vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào đó.
1.3. RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Có thể nói rủi ro là mối đe doạ bị tổn thất một phần nguồn vốn, không đạt được thu
nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ sung. Bất kỳ một hoạt động nào cũng không thể
tránh khỏi có quan hệ với một loại rủi ro nhất định. Trong kinh doanh thường có các loại
rủi ro khác nhau. Có loại rủi ro có mối quan hệ với tai nạn, hoả hoạn, cướp bóc và thường
xuyên được bảo hiểm, nhưng cũng có những loại rủi ro có mối quan hệ với các đe doạ khác
như rủi ro do thị trường không thừa nhận sản phẩm của ngân hàng, do phá sản chiến lược
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

10

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

đã đề ra có thể do sự thay đổi của luật pháp, v.v.. Trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, cùng với sự phát triển của tín dụng ngân hàng là sự tăng lên của rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng như sau:

Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không
thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng
với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong họat động cho
vay của ngân hàng.
Theo Hennie van Greuning –Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng được định
nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với
thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu
chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Theo Luật các tổ chức Tín dụng năm 2010: Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất
tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Từ các định nghĩa chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng như
sau: Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng
khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Khoản tín
dụng có rủi ro là khoản nợ mang đặc trưng sau đây:
- Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã
hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn tới có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Giá trị tài sản bảo đảm (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) không đủ trang trải nợ gốc và
lãi.
- Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên được coi là
nợ có vấn đề.
1.3.2. Các loại rủi ro tín dụng
1.3.2.1. Rủi ro tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình
kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Tín dụng ngắn hạn rủi ro thường xảy
Học viên: Vũ Đình Quỳnh


11

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

ra khi cán bộ tín dụng phạm phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và thiếu
cẩn trọng trong công tác thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem
xét kỹ lưỡng để đưa ra các kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nâng
cao chất lượng của công tác thẩm định.
1.3.2.2. Rủi ro tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là khoản vay với mục đích đầu tư xây dựng cơ bản, mua
sắm tài sản cố định. Tín dụng trung và dài hạn là khoản đầu tư có thời hạn thu hồi vốn dài
và có số lượng lớn. Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến
bất lợi trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian thu hồi vốn
quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật, các nhà đầu tư cần phải tính đến các biến
động về chính trị, chính sách của nhà nước (các yếu tố phi kinh tế) nếu không rất dễ dẫn tới
rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để tránh được loại rủi ro này, các nhà đầu tư cần phải tính toán, cân nhắc một cách
chính xác và tỉ mỷ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự án. Trong đó có
một số yếu tố cực kỳ quan trọng về kinh tế kỹ thuật như: nguyên nhiên vật liệu đầu vào,
khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra, các sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế hiện đang
có bán trên thị trường, xu hướng và thái độ của thị trường đối với loại sản phẩm này, lựa
chọn công nghệ phù hợp, khả năng làm chủ công nghệ của chủ đầu tư, v.v.. và các yếu tố
phi kinh tế khác như: Chính sách của Nhà nước đối với ngành nghề, sản phẩm sau đầu tư,
năng lực và uy tín của bên cung cấp thiết bị công nghệ…
1.3.2.3. Rủi ro tín dụng chiết khấu

Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua đó khách hàng chuyển
quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận về một khoản
tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và phí hoa hồng. Hình thức chiết
khấu các thương phiếu được xác lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chiết khấu. Thương
phiếu này được xác lập khi không có một quan hệ thương mại tương ứng nhằm mục đích
đánh lừa ngân hàng. Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần xem xét kỹ tính chất
pháp lý của thương phiếu, tính thương mại của thương phiếu, đánh giá khả năng trả nợ của
người ký phát.
1.3.2.4. Rủi ro tín dụng thuê mua
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

12

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời hứa sẽ
bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với giá thoả thuận.
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người cho thuê sẽ gửi
đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh toán, sau đó giao tài sản
cho người đi thuê. Có hai hình thức của tín dụng thuê mua là: thuê mua bất động sản và
thuê mua động sản. Khả năng rủi ro đối với hình thức tín dụng này là tương đối thấp.
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt
quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tài
sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối ổn định và dễ quản lý. Tuy nhiên, rủi

ro vẫn có thể xảy ra khi người đi thuê bị thiên tai, hoả hoạn gây ra thiệt hại cho tài sản thuê
mua hay sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật khiến nó trở nên lỗi thời không phù hợp với thời
đại dẫn tới khả năng sử dụng thiết bị giảm đi và làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
Dựa trên những dữ liệu đã có và tầm quan trọng của từng dữ liệu, hệ thống chỉ tiêu
đánh giá rủi ro tín dụng sẽ có một bảng định mức (có thể là khác nhau đối với mỗi ngân
hàng) thông thường gồm 6 mức hoặc 8 mức. Ví dụ: với hệ thống phân hạng 6 mức của
Trung tâm thông tin tín dụng CIC, rủi ro tín dụng được phân hạng như sau:
Bảng 1.1: Phân hạng các mức rủi ro tín dụng
Mức rủi ro

Mô tả nội dung

1. Tín dụng ít Khả năng thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng là chắc chắn, bảo đảm
rủi ro

việc trả nợ như đã thoả thuận (có thể có một số khía cạnh yếu kém về rủi
ro).

2. Tín dụng rủi Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng là vững chắc,
ro trung bình

rủi ro tín dụng chung ở mức chấp nhận được, nhưng có một số khía
cạnh yếu kém trên thực tế về rủi ro tín dụng, cần có sự giám sát và kiểm
soát.

3. Tín dụng Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách ở mức mạo hiểm do
trên mức rủi ro những yếu kém lớn trên vài khía cạnh về rủi ro tín dụng (các yếu kém
trung bình


này có dấu hiệu có khả năng sửa chữa được) - mức rủi ro tiềm tàng này
yêu cầu phải tăng việc giám sát để bảo đảm tình hình không xấu đi.

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

13

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

4. Tín dụng rủi Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dài (ví dụ: Thua lỗ trong kinh
ro cao

doanh, khó khăn trầm trọng về khả năng thanh toán) và ngân hàng đang
cố gắng cải thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ tiềm tàng.

5. Tín dụng Khách hàng có rủi ro cao, có thể bị thất thoát lãi song có thể hy vọng lấy
khó đòi lãi

lại được gốc.

6. Tín dụng Khách hàng có rủi ro cao, có thể khả năng mất cả vốn, lãi và các khoản
khó đòi gốc và chi phí sau khi đã nỗ lực hết sức trong việc áp dụng các biện pháp có
lãi

thể.


1.3.4. Thiệt hại do rủi ro tín dụng
1.3.4.1. Đối với ngân hàng
Rủi ro tín dụng sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng do ngân hàng bị mất cơ hội nhận
được thu nhập tiền lãi, tổn thất trước hết tác động đến lợi nhuận và sau đó là vốn tự có
của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy động từ tiền
gửi của khách hàng, vì vậy trong trường hợp nợ xấu quá nhiều, ngân hàng phải sử
dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào đấy,
ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ dơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến phá sản. Như vậy, rủi ro tín dụng
có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng.
1.3.4.2. Đối với nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian
tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức và cá
nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là
quyền sở hữu của những người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng
xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt mà quyền lợi của những người gửi tiền
cũng bị ảnh hưởng. Tổn thất của các ngân hàng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm
lý người gửi tiền, có thể xảy ra tình trạng đổ xô rút tiền từ ngân hàng “ bank runs”.
Bên cạnh đó, ngày nay hoạt động ngân hàng mang tính xã hội hoá cao, nên một
khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh
tế- xã hội. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng, dù chỉ ở một ngân hàng mà
không được ứng cứu kịp thời thì có thể gây ra phản ứng dây chuyền đe doạ đến tính
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

14

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

an toàn và ổn định của cả hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ gây ra những bất ổn kinh tếxã hội.
Rõ ràng, rủi ro tín dụng có thể gây ra những thiệt hại to lớn, không lường trước
được với nền kinh tế- xã hội của một quốc gia.
1.4. CÁC NGUYÊN NHÂN VÀ DẤU HIỆU NHẬN BIẾT RỦI RO TÍN DỤNG
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi
vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo
sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và
đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi
trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay
và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
1.4.1. Nguyên nhân khách quan
1.4.1.1. Môi trường kinh tế
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới là nguyên
nhân chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay. Nền kinh tế
Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ
nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu) dầu thô, may gia công vốn rất
nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới
biến động xấu. Những khó khăn do bị khống chế hạn ngạch trong ngành dệt may, hay
những vụ kiện bán phá giá trong ngành thủy sản…làm ảnh hưởng trực tiếp đến họat động
kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung.
Không chỉ xuất khẩu, những mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt
hàng sắt thép bị ảnh hưởng rất lớn bởi giá thép thế giới, việc tăng giá phôi thép làm cho
một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành cao
lớn trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả tất yếu
làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các

doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh
tranh giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

15

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

cho các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên do khách hàng có
tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng nước ngoài thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ
mới với nhiều tiện ích hơn.
1.4.1.2. Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển, ngược lại sẽ gây rủi ro nếu doanh nghiệp luôn trong tình trạng đất nước
có chiến tranh, bị cấm vận kinh tế, tệ nạn xã hội tràn lan. Từ đó cũng ảnh hưởng tới tình
hình tín dụng của ngân hàng.
1.4.1.3. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, các chính sách quản lý
kinh tế thường thay đổi đột ngột dẫn đến việc ra đời các văn bản pháp lý chưa phù hợp làm
ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam, khiến nhiều tổ chức kinh tế không
điều chỉnh kịp thời phương án kinh doanh. Ví dụ như vào thời điểm năm 2001, hoạt động
kinh doanh xe máy phát triển mạnh với các dòng sản phẩm xe từ Trung Quốc, Hàn Quốc,
rất nhiều doanh nghiệp bỏ vốn vào kinh doanh lĩnh vực này. Tuy nhiên sang năm 2002, nhà
nước ban hành quy định mỗi người chỉ được đứng tên sở hữu một xe máy, làm cho sức

mua bán xe giảm xuống đáng kể. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng kinh doanh của
các doanh nghiệp, kéo theo doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ vay ngân hàng,
thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.
1.4.1.4. Yếu tố tự nhiên  
 

Đây là những rủi ro mà cả khách hàng lẫn ngân hàng đều không lường trước đối với

khoản tín dụng của mình, khách hàng gặp khó khăn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay
ngân hàng. Đối với khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh thì cũng phải có thời gian để ổn
định lại quá trình kinh doanh thì mới có khả năng trả nợ ngân hàng, còn với các khách hàng
có tiềm lực yếu thì khoản tín dụng có khả năng rất cao lâm vào tình trạng nợ xấu. Mặc dù
lọai rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách mua bảo hiểm, tuy nhiên khi loại rủi ro này
xảy ra, khách hàng và cả ngân hàng cũng phải mất nhiều thời gian để lấy được khoản tiền
bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay ngân hàng.
1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
• Đối với khách hàng cá nhân

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

16

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Mục đích vay chủ yếu của khách hàng cá nhân là vay tiêu dùng, và nguồn trả

nợ của họ chính là thu nhập. Rủi ro tín dụng xảy ra khi:
- Khi người vay nợ thất nghiệp, họ không có thu nhập, không có nguồn để trả nợ
ngân hàng. Người vay nợ thất nghiệp có thể là do công ty của họ bị phá sản, hoặc do bản
thân họ không đảm bảo trình độ chuyên môn, không đảm bảo về phẩm chất đạo đức.
- Khi có sự cố bất thường xảy ra trong cuộc sống của cá nhân người vay vốn,
như ốm đau, tai nạn… buộc họ phải sử dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng tới việc
trả nợ ngân hàng.
- Khi có rủi ro đạo đức như: người vay sử dụng tiền sai mục đích, có vi phạm
pháp luật.
- Khi người vay hoạch định ngân quỹ không chính xác.
Những rủi ro này tương đối đơn giản vì nó chỉ liên quan đến cá nhân, không
phức tạp như khách hàng là doanh nghiệp.
• Đối với khách hàng là doanh nghiệp
Rủi ro đến với tín dụng doanh nghiệp có thể do thiệt hại từ thị trường cung cấp:
- Giá nguyên vật liệu cung ứng tăng ngoài dự kiến làm cho chi phí sản xuất
kinh doanh tăng, dẫn đến giá bán cao, doanh nghiệp không tiêu thụ hết mặt hàng sản
xuất ra, gây ứ đọng vốn. Nếu doanh nghiệp tôn trọng giá trong hợp đồng, không tăng
giá bán sẽ làm lợi nhuận của doanh nghiệp giảm hoặc thua lỗ, gây thiệt hại cho doanh
nghiệp.
- Không đảm bảo về chất lượng, quy cách phẩm chất của các nguyên vật liệu
cung ứng, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ, làm
cho việc tiêu thụ hàng hoá chậm.
- Không đủ sản lượng nguyên vật liệu, không đảm bảo thời gian cung cấp cho
doanh nghiệp dẫn đến tình trạng không đảm bảo hết công suất sản xuất của doanh
nghiệp (sản xuất dưới quy mô, công suất), ảnh hưởng đến chi phí cố định bình quân
trên 1 đơn vị sản phẩm, giá sản phẩm tăng, làm cho số người mua ít hoặc không đảm
bảo các điều khoản thoả thuận trong hợp đồng với khách hàng, không giao đủ số
lượng theo thời gian thoả thuận. Những điều này làm cho doanh nghiệp bị phạt do vi
phạm hợp đồng, ảnh hưởng đến uy tín trong kinh doanh.


Học viên: Vũ Đình Quỳnh

17

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ cũng khiến cho các doanh nghiệp gặp rủi ro tín
dụng như:
- Giá bán trên thị trường giảm, dẫn đến thu nhập giảm, lợi nhuận giảm.
- Khách hàng đã huỷ hợp đồng.
- Hệ thống phân phối không làm tốt chức năng.
- Nền kinh tế trì trệ, thu nhập bình quân của người dân giảm, sức tiêu thụ chậm.
- Sản lượng sản phẩm doanh nghiệp cung ứng trên thị trường lớn hơn nhu cầu
của thị trường do khâu đánh giá thị trường sai, không chính xác, vì vậy sản phẩm sản
xuất ra không bán được hết.
- Chất lượng sản phẩm doanh nghiệp cung ứng không đáp ứng được nhu cầu
của thị trường do khâu quản lý, khâu bảo quản hàng hoá, đóng gói không tốt.
- Có sự thay đổi bộ máy tổ chức, suy giảm về chất lượng quản lý.
Ngoài ra rủi ro tín dụng của doanh nghiệp còn xảy đến khi có những hạn chế về
chuyên môn của nhân viên như trình độ chuyên môn, tay nghề, kỷ luật lao động
không cao, thiếu đạo đức nghề nghiệp: giả mạo giấy tờ, lừa đảo…
1.4.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng do ngân hàng
• Ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng không phù hợp
Chính sách tín dụng là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Chính sách tín dụng có vai trò quan trọng thông qua các nội dung cơ bản

của nó như định hướng lĩnh vực đầu tư tín dụng, cơ cấu tín dụng; quy định chính sách
lãi suất đối với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau; quy chế nghiệp vụ đối với cán
bộ tín dụng; quy định cơ chế giám sát, quyền lợi và trách nhiệm của nhân viên tín
dụng. Những nội dung quan trọng này cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý
ngân hàng một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng
danh mục đầu tư tín dụng. Vì thế một chính sách tín dụng không thống nhất, đúng đắn
và hiệu quả sẽ tạo định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng dẫn đến sai lầm trong
quyết định tín dụng, tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn chiếm dụng vốn của ngân hàng
và gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế do nhiều nguyên
nhân mà chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý là điều khó tránh. Chính
sách tín dụng không hợp lý thể hiện:

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

18

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

- Cơ sở thiết lập cơ cấu tín dụng không hợp lý: không căn cứ trên cơ cấu kinh
tế địa bàn, không căn cứ vào khả năng cụ thể của bản thân ngân hàng…
- Quy trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ hoặc không phát huy được sự tự chủ, sáng
tạo của nhân viên tín dụng.
- Cơ chế giám sát cán bộ không phù hợp: phương thức kiểm tra không đa dạng,
thưởng phạt thiếu phân minh…
Như vậy, chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn sẽ đảm bảo cho hoạt động tín

dụng, giúp ngân hàng đứng vững, tồn tại và phát triển.
• Ngân hàng thiếu thông tin trong quá trình thẩm định
Hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp thiếu thông tin từ các báo cáo tài chính được
kiểm toán một cách chính xác kịp thời, nhiều doanh nghiệp chưa tiến hành kiểm toán,
một số doanh nghiệp tiến hành kiểm toán nhưng chậm so với thời gian NHTM cần có
thông tin để sử dụng cho quá trình phân tích. Đối với khách hàng là cá nhân, thông tin
về thu nhập cơ bản, thu nhập khác kê khai không đầy đủ làm cho việc xác định dòng
tiền thực của người vay không chính xác.
Hầu hết các NHTM sau khi thu hồi nợ gốc và lãi từ khách hàng, chỉ tiến hành
tất toán khoản cho vay và thực hiện lưu trữ hồ sơ vay theo chế độ lưu trữ văn bản
trong hồ sơ mà không lưu trữ thông tin lịch sử về quan hệ vay vốn. Thông tin tín dụng
của khách hàng trong quá khứ sẽ hết sức quý giá đối với các tổ chức tín dụng trong việc
thẩm định và xác lập quan hệ tín dụng lần đầu với khách hàng.
• Công tác thẩm định của ngân hàng không tốt
Thẩm định tín dụng là khâu quan trọng nhất vì đây là cơ sở cho việc ra quyết
định tín dụng. Thẩm định tín dụng là việc phân tích khả năng hiện tại và tương lai của
người vay về sử dụng vốn, khả năng hoàn trả vốn vay… hay các yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến tính khả thi của phương án, dự án nhằm mục đích tìm kiếm những khả
năng rủi ro có thể xảy ra với ngân hàng để từ đó dự kiến được biện pháp phòng ngừa
và hạn chế, đồng thời xác minh lại tính chính xác của nguồn thông tin do khách hàng
cung cấp và có kết luận đúng về tính khả thi của phương án, dự án để ra quyết định tín
dụng. Nhiều ngân hàng đã không thấy được bản chất của thẩm định là đánh giá điều
kiện vay vốn của khách hàng hiện tại và tương lai, quan hệ giữa các nội dung thẩm định

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

19

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

tuân thủ nguyên tắc tín dụng, luật pháp về quan hệ kinh tế. Đồng thời một khó khăn các
ngân hàng đang gặp phải là thiếu các chuẩn mực so sánh.
• Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức
Con người luôn là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động. Trong hoạt động tín
dụng cũng vậy, và ảnh hưởng của yếu tố này được thể hiện:
- Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, thể hiện ở trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh của
khách hàng. Điều này hay dẫn đến sai lầm trong giải quyết các công việc, mang đến
nguy cơ rủi ro cho ngân hàng.
- Đạo đức nghề nghiệp như: cán bộ tín dụng dựa vào quan hệ, hoặc nhận hối lộ
để cho vay khách hàng không đủ điều kiện, hoặc vay thêm vào khoản vay của khách
hàng…
• Ngân hàng gặp khó khăn trong định giá Tài sản đảm bảo
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép các NHTM tự thoả thuận
và tự chịu trách nhiệm xác định giá trị tài sản thế chấp, cầm cố của khách hàng, do đó
việc thẩm định giá trị các tài sản theo giá trị thị trường là một vấn đề khó khăn cho các
tổ chức tín dụng. Điều đó là do cán bộ tín dụng chưa được trang bị đầy đủ khả năng
chuyên môn trong việc thẩm định giá, sự thông thạo trong nhóm hoặc tài sản cần thẩm
định. Nhất là trong lĩnh vực bất động sản, cán bộ tín dụng khó xác định giá thị trường
chính xác theo từng khu vực hoặc địa phương tại một thời điểm nhất định. Thường thì
cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản bằng kinh nghiệm, cảm tính hoặc dựa theo báo
cáo Tài sản cố định của khách hàng. Ngay cả các tổ chức tín dụng đã có phòng thẩm
định giá trị tài sản thì cán bộ thẩm định cũng chưa được đào tạo bài bản, đồng thời tài
sản thẩm định chủ yếu cũng chỉ là bất động sản. Các tổ chức tín dụng phải tự gánh
chịu những rủi ro khi thẩm định giá trị tài sản có kết quả cao hơn giá trị thị trường

hoặc không đảm bảo tính pháp lý.
Bên cạnh đó các NHTM chỉ tiến hành định giá lại tài sản khi phát hiện khoản
vay có vấn đề để tiến hành thủ tục thanh lý tài sản mà chưa quan tâm việc đánh giá lại
tài sản thế chấp, cầm cố theo định kỳ nên xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn
so với giá trị thẩm định ban đầu khiến các ngân hàng không thu hồi đủ nợ và lãi vay
từ khách hàng.
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

20

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

1.4.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một đêm, do vậy mà sự thất bại đó
thường có một vài dấu hiệu báo động. Có dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt, có dấu hiệu
biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của
khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý
chúng. Nhưng các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá trình chứ
không hẳn là một thời điểm, do vậy, cán bộ tín dụng phải biết cách nhận biết
chúng một cách có hệ thống. Có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các
nhóm sau:
• Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng,
ví dụ như:

+ Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
+ Khó khăn trong thanh toán lương.
+ Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi…
- Các hoạt động cho vay:
+ Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
+ Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
+ Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn.
+ Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính:
+ Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn.
+ Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu.
+ Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ…
• Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị,
điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng biểu hiện:
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

21

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

+ Được hoạch định bởi Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay

không có kinh nghiệm.
+ Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia
quá sâu vào vấn đề thường nhật.
+ Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ…
- Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ.
- Quản lý có tính gia đình: thiếu năng lực nhưng nắm các vị trí then chốt…
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý như: hội đồng quản trị và Giám đốc
điều hành với các cổ đông khác, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay,
khách hàng chính.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn
giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân…
• Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách
hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận
nhằm đạt được hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một
sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản
phẩm dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế…
• Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm.
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật
mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: đặc biệt chú ý sự tác động của
các chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động, môi trường.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
• Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo
cáo tài chính.

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

22

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
+ Có dấu hiệu làm đẹp bảng cân đối.
+ Khả năng tiền mặt giảm.
+ Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có…
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín
dụng cũng có thể nhận biết được như:
+ Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ của nhà kinh doanh cũng biểu
hiện dấu hiệu gì đó.
+ Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu…
Trong tất cả các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là chậm thanh
toán khoản vay.
1.5. PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.5.1. Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng không những làm mất đi vai trò tích
cực của tín dụng ngân hàng mà ngược lại, nó còn gây những tác hại nghiêm trọng
không những đối với hệ thống ngân hàng, với người đi vay mà đối với cả nền kinh tế
và xã hội. Vì thế yêu cầu đảm bảo an toàn cho mỗi khoản tín dụng ngân hàng là điều
bắt buộc. Nếu không có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng thì
không thể khắc phục những tác hại to lớn sau mà rủi ro tín dụng đem lại.

- Trước hết, đối với ngân hàng thương mại: Ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng làm
mất đi cơ hội, khả năng tích luỹ vốn, làm giảm sức mạnh của ngân hàng; ở mức độ
cao, khi thiệt hại do rủi ro vượt quá giới hạn dự phòng rủi ro thì đối với NHTM (một
trung gian tài chính, nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy
động với đảm bảo rất cao về sự hoàn trả và tính thời hạn) rủi ro tín dụng có thể làm
xói mòn niềm tin vào sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Tác động tâm lý dây
chuyền sẽ tạo ra sự rút tiền ồ ạt, kéo theo sự đổ vỡ của hàng loạt thậm chí cả hệ thống
ngân hàng.
- Đối với người đi vay: Thông thường rủi ro tín dụng là hệ quả của rủi ro trong
kinh doanh của khách hàng. Với nợ quá hạn, người đi vay hoàn toàn mất nguồn tài trợ

Học viên: Vũ Đình Quỳnh

23

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn cao học QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

từ các ngân hàng, các cơ hội kinh doanh sẽ tuột mất, tài sản sẽ bị tịch thu hoặc phát
mại, người đi vay sẽ đứng trước nguy cơ phá sản.
- Đối với nền kinh tế và xã hội: Rủi ro tín dụng chứng tỏ người vay vốn đã
không thực hiện được hiệu quả đầu tư như đã đặt ra khi nhận vốn tín dụng từ NHTM
và do đó, lợi ích kinh tế - xã hội dự kiến nhận được đã không còn. Sản xuất và lưu
thông hàng hoá bị đình trệ, chức năng làm công cụ điều tiết nền kinh tế sẽ bị suy yếu,
quyền lợi của người gửi tiền không được đảm bảo, ảnh hưởng xấu đến tiết kiệm và
mở rộng đầu tư của nền kinh tế, người lao động mất việc làm, phá vỡ các kế hoạch

kinh tế xã hội của nhà nước.
1.5.2. Biện pháp phòng ngừa
Khi hoạt động kinh doanh của khách hàng xuất hiện các dấu hiệu cảnh báo có
nguy cơ phát sinh rủi ro do bất cứ một nguyên nhân nào, để phòng ngừa rủi ro có thể
xảy ra, trước hết, ngân hàng phải thực hiện các biện pháp kiểm tra giám sát bắt buộc.
Về nguyên tắc, tất cả các khoản vay có dấu hiệu rủi ro sau khi rà soát bị xếp xuống
hạng đều phải được đặt trong tình trạng theo dõi đặc biệt.
Trong tất cả các trường hợp nếu khoản vay bị xuống hạng, ngân hàng phải xem
xét và lựa chọn các biện pháp phòng ngừa.
+ Quản lý giám sát khoản vay
Thực hiện ngay việc giám sát và thu thập các báo cáo tài chính mới nhất của khách
hàng cũng như các thông tin về tình hình tài chính và các thông tin cần thiết có liên
quan khác của khách hàng để có thể giám sát khoản vay một cách chặt chẽ tình hình
người vay có dấu hiệu tiến triển tốt hơn không.
Nếu thấy xu thế bất lợi của khách hàng, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng
cung cấp các báo cáo tài chính thường kỳ hơn nữa và phải kiểm tra chi tiết các báo cáo
đó để giám sát chặt tình hình; ngay cả khi dấu hiệu bất lợi chưa rõ ràng thì vẫn phải cần
nghiên cứu và phân tích.
Khi xác định rõ xu thế bất lợi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng,
ngân hàng phải khẩn cấp xác định tính nghiêm ngặt của nó, phải xem xét đánh giá
nguyên nhân của sự bất ổn này là tạm thời hay do tài chính yếu kém; do thị trường hay
do sự yếu kém của công tác quản lý.
+ Rà soát và xem xét lại tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng
Học viên: Vũ Đình Quỳnh

24

Khoa Kinh tế và Quản lý



×