Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh tại công ty TNHH một thành viên chế tạo động cơ (vinappro) và xây dựng một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÔNG TY
TNHH 1 THÀNH VIÊN CHẾ TẠO ĐỘNG CƠ (VINAPPRO) VÀ XÂY DỰNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ:

VÕ THẠCH NGỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. NGUYỄN ÁI ĐOÀN

HÀ NỘI 2006


MỤC LỤC
Trang
Lời cám ơn
Danh mục các bảng biểu – hình vẽ.
Phần Mở đầu.
CHƯƠNG I . CÁC CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
1.1.Khái niệm về cạnh tranh.
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Phân loại
1.2.Vai trò và chức năng của cạnh tranh
1.2.1.Vai trò cuả cạnh tranh.
1.2.2.Chức năng cuả cạnh tranh


1.3.Năng lực cạnh tranh
1.4.Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh.
1.4.1. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
1.4.2. Quy mô doanh nghiệp
1.4.3. Trình độ công nghệ
1.4.4.Chi phí sản xuất kinh doanh
1.4.5.Quản lý & tổ chức sản xuất
1.4.6.Quản lý chất lương sản phẩm
1.5.Một số các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.5.1.Các yếu tố quốc tế
1.5.2.Các yếu tố trong nước
1.6 Một số mô hình phân tích năng lực cạnh tranh.
1.6.1. Mô hình phân tích cạnh tranh trên cơ sở đánh giá
lợi thế so sánh
1.6.2. Mô hình phân tích theo quan điểm tổng thể
1.7.Sự cấn thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh
Kết luận chương I
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH & ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHẾ TẠO ĐỘNG CƠ VINAPPRO.
2.1.Giới thiệu tổng quát về công ty Vinappro
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1. Lịch sử hình thành
2.1.1.2. Quá trình phát triển
2.1.2. Sơ lược về qui trình sản xuất sản phẩm
2.2.Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty
2.2.1.Tình hình nhân sự tại công ty Vnappro
2.2.2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức
2.3.Một số kết quả hoạt động sản xuất trong thời gian qua
2.3.1.Các chỉ tiêu chủ yếu.
2.3.2.Các biểu đồ sản xuất các sản phẩm chủ yếu

trong 5 năm 2001-2005.
2.3.3.Đánh giá tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh – 2005

1
3
3
4
6
6
6
7
12
13
13
13
14
14
14
15
17
17
17
19
20
21
21
22
23
25
25

26
27
28
29


2.4.Phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của công ty Vinappro
2.4.1.Các yếu tố quốc tế
2.4.2.Các yếu tố trong nước
a/ Tỷ giá hối đoái và lãi suất cho vay
b/ Về chính trị và pháp luật, chính sách của chính phủ
c/ Yếu tố trình độ khoa học và công nghệ
2.4.3.Các đối thủ cạnh tranh
2.4.3.1. Các đối thủ trong nước
a/ Dây chuyền gia công thân máy động cơ
b/ Doanh thu và số lượng tiêu thụ động cơ trong 3 năm
từ 2003-2005
c/ Tình hình thiết bị
2.4.3.2. Các đối thủ nước ngoài
a/ Trung quốc
b/ Các nước trong khu vực
2.5.Phân tích và đánh giá thực trạng các yếu tố cấu thành năng lực
cạnh tranh của công ty chế tạo động cơ Vinappro.
2.5.1 Các yếu tố cấu thành.
2.5.1.1. Quy mô về vốn
2.5.1.2. Hoạt động nghiên cứu thị trường
2.5.1.2.1.Về thị trường động cơ (dưới 30 mã lực) trên
thế giới và khu vực
2.5.1.2.2.Về thị trưòng động cơ dưới 30 mã lực tại Việt Nam

• Đánh giá chung về thị trường Việt Nam.
• Phân tích các vùng thị trường trong nước
a/ Thị trường đồng bằng sông Cửu Long.
b/ Thị trường Tây Nguyên& miền Đông Nam Bộ.
c/ Thị trường duyên hải miền Trung.
d/ Thị trưòng miền Bắc& Bắc Trung bộ.
2.5.1.3. Quản lý chất lượng sản phẩm
2.5.1.4. Gía bán sản phẩm
2.5.1.5. Chi phí sản xuất kiunh doanh
2.5.1.6. Quản lý và tổ chức sản xuất
2.5.1.7. Thương hiệu và danh tiếng
2.5.1.8. Chất lượng công tác kỹ thuật –thiết kế công nghệ
2.5.1.9. Nghiên cứu và phát triển, đổi mới, cải tiến sản phẩm
2.5.1.10.Trình độ công nghệ
2.5.1.10.1.Xác định các chỉ số trình độ công nghệ theo phương
pháp ATLAT CÔNG NGHỆ
1/ Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
2/ Phân tích sản phẩm của doanh nghiệp và xác định sản phẩm
tiêu biểu
• Các chỉ tiêu định tính

30
30
32
32
33
34
35
35
37

37
38
40
40
40
41
41
42
43
44

47
49
50
51
54
57
58
60
61
61
61


• Các chỉ tiêu định lượng
3/ Đánh giá trình độ sản phẩm tiêu biểu
2.5.1.10.2. Xác định các chỉ số trình độ công nghệ đặc thù
1/ Bảng cho điểm về sự tưong thích, tính đồng bộ, tính tiên
tiến của sản phẩm tiêu biểu
2/ Bảng thống kê các thiết bị sản xuất sản phẩm tiêu biểu

động cơ diezel.(Phụ lục 3)
3/ Đánh giá % còn lại cuả thiết bị
2.5.1.10.3. Xác định các chỉ số trình độ công nghệ về quản trị
Kinh doanh
2.5.2. Các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của
Công ty chế tạo động cơ Vinappro
Kết luận Chương II
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CÔNG TY CHẾ TẠO ĐỘNG CƠ VINAPPRO.
3.1.Căn cứ đề xuất giải pháp
3.1.1. Mục tiêu chiến lược và quan điểm phát triển - Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ IX .
3.1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển ngành công nhiệp Việt Nam.
3.1.3. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 47/2004/CT/TTg ngày 22/
12/2004.
3.1.4. Chiến lược phát triển ngàmh cơ khí Việt Nam đến năm 2010
tầm nhìn đến năm 2020 của Bộ công nghiệp
3.1.5. Mục tiêu và kế hoạch phát triển kinh doanh 2005-2007
của công ty Chế tạo động cơ Vinappro
3.1.6. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của công ty Vinappro.
3.2. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
3.2.1. Giải pháp 1- Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 hiện nay của công ty
3.2.2. Giải pháp 2- Đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị (thành
phần T trong phân tích trình đô công nghệ.. )
3.2.3. Giải pháp 3- Nâng cao chất lượng công tác kỹ thuật –
thiết kế công nghệ 105
3.2.4. Giải pháp 4- Các giải pháp về marketing
3.2.5. Phần kiến nghị
Phần kết luận

Bảng tổng hợp lợi ích thực hiện các giải pháp
Tài liệu tham khảo
****************************

62
63
74
74
76
78
80
84
85
88

90
90
99
108
113
115
116
119


LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô khoa Kinh tế & Quản lý, Trung tâm
Sau đại học trường đại học Bách Khoa Hà Nội đã trang bị cho tôi nhiều kiến
thức, kinh nghiệm quý báu và những điều kiện hết sức thuận lợi trong suốt
thời gian theo học tại trường.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn luận văn
tốt nghiệp của tôi PGS.TS NGUYỄN ÁI ĐOÀN, người đã tận tình hướng dẫn
và đưa ra nhiều gợi ý, góp thêm nhiều ý kiến quý báu giúp cho tôi hoàn thành
được luận văn nầy., và cám ơn các bạn bè, đồng nghiệp tại công ty Chế tạo
động cơ VINAPPRO đã giúp đở tạo điều kiện trong việc thu thập các số liệu
cần thiết để hoàn chỉnh được luận văn theo yêu cầu.
Xin chân thành cám ơn.
Học viên : VÕ THẠCH NGỌC.


DANH MỤC BẢNG –BIỂU – HÌNH VẼ- ĐỒ THỊ.
Stt
1
2
3
4
5

Bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5

6

2.6

7


2.7

8
9

2.8
2.9

10 2.10
11 2.11
12 2.12
13 2.13
14 2.14
15 2.15
16

2.16

17 2.17
18 2.18
19 2.19
20 2.20
21 2.21
22 2.22
23 2.23
24 2.24
25

2.25


26 2.26

Tên gọi
Trang
Bảng tổng hợp lao động tại công ty
25
Bảng thống kê trình độ chuyên môn nghiệp vụ ,
25
Bảng phân bổ lao động tại các phòng ban, phân xưởng
25
Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh từ năm 2001-2005
27
Sản phẩm động cơ sản xuất ở các công ty thuộc tông công ty
máy động lực và máy nông nghiệp.(VEAM)
36
Năng lực gia công thân máy tại các công ty thuộc tổng công
ty VEAM.
37
Doanh thu và số lượng tiêu thụ động cơ năm 2003-2005 của
các công ty thuộc tổng công ty VEAM.
37
Thống kê thiết bị các công ty thuộc Tổng công ty VEAM.
38
Khả năng cung cấp máy động lực của các nước Đông nam Á
cho thị trường ASEAN.
43
Thị phần máy động lực của nước ngoài tại thị trường Việt Nam
Tổng chi phí sản xuất kinh doanh năm 2004-2005
51

Bảng cho điểm sản phẩm động cơ diezel
65
nt
65
Các công đoạn sản xuất sản phẩm tiêu biểu thân máy động cơ
66
Bảng cho điểm các thành phần T,H,I,O trong các công đoạn
sản xuất thân máy động cơ
67
Bảng cho điểm các thành phần công nghệ T,H,I,O trong sản
xuất kinh doanh khi so sánh kết quả thực hiện thực tế và lý
thuyết.
69
Xác định hệ số đặc trưng môi trường công nghệ λ.
73
Bảng cho điểm về tính tương thích, tính đồng bộ ,tính tiên
tiến cuả sản phẩm tiêu biểu.
75
Thống kê các thiết bị sản xuất sản phẩm tiêu biểu động cơ diezel 77
Bảng T% lạc hậu về đời máy
79
Bảng xác định H % hao mòn hữu hình thiết bị
80
Bảng biểu thị năng suất N thực tế đạt được so với thiết kế
80
Bảng đánh giá công tác quản lý chất lượng sản phẩm
80
Xác định hệ số đồng đều K và độ quan trọng 4 thành phần
công nghệ T.H.I.O
80

Thống kê nhân sự trong các công đoạn sản xuất sản phẩm
tiêu biểu đông cơ diezel.
81
Bảng tổng hợp các trị số S1,P2,S3,S4,P5
83


27 2.27
28 3.1
29 3.2
30 3.3
Hình
31 1.1
32 2.1
33 2.2
34 2.3
35 2.4
36 2.5
37 2.6
38 2.7
39 2.8
40 2.9
41 2.10
42 2.11
43
44
45
46

3.1

3.2
3.3
3.4

đ đđ đ đ đđ

Bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá trình độ công nghệ
theo phương pháp ATLAT CÔNG NGHỆ
Các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh 2005-2007 cuả
công ty Vnappro.
Bảng chỉ tiêu hiệu quả (Giải pháp 1)
Bảng kê phản ảnh sự thay đổi chi phí vào giá thành
(Giải pháp 2).
Mô hình phân tích theo quan điểm tổng thể.
Sơ đồ quy trình sản xuất .
Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty Vinappro.
Biểu đồ động cơ diezel các loại 2001-2005.
Biểu đồ máy xăng các loại 2003-2005
Biểu đồ máy xay xát các loại 2001-2005.
Biểu đồ ru lô cao su các loại 2001-2005.
Biểu đồ chu kỳ sống công nghệ
Thị phần động cơ diezel cuả nước ngoài và của tổng công ty
VEAM tại thị trường Việt Nam hiện nay .
Sơ đồ mô tả hoạt động kiểm soát tồn kho của phòng Kế hoạch
Sơ đồ kết cấu sản phẩm tiêu biểu động cơ diezel
Biểu đồ công nghệ hình thoi của động cơ diezel được đánh giá
trình độ công nghệ
Biểu đồ dạng sai hỏng Cullasse DS 105.
Biểu đồ trị số khe hở buồng đốt động cơ DS60
Biểu đồ kiểm soát X-R thân máy DF120

Biểu đồ nhân quả
*****************************

đđ
đđ
đ

đ

84
89
99
105
18
23
26
28
28
28
28
35
47
52
64
74
93
94
94
95



ĐHBK Hà Nội

1

Luận văn CH QTKD

PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhâp vào nền kinh
tế thế giới cạnh tranh đã trở thành một quy luật tất yếu, các doanh nghiệp để
tồn tại, phát triển đều phải chấp nhận và đối đầu với cạnh tranh.
Ngành chế tạo máy động lực (động cơ diezel) trong thời gian trước kia cũng
như hiện nay đã có những đóng góp nhất định vào việc cơ giới hoá nông
nghiệp, đưa máy móc vào đồng ruộng giảm thiểu sức lao động chân tay, nâng
cao năng suất lao động góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập hiện nay các doanh nghiệp
của ngành chế tạo máy động lực trong đó có Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên Chế tạo động cơ VINAPPRO đã bọc lộ ra nhiều điểm hạn chế
cho thấy năng lực cạnh tranh của công ty kém hơn các đối thủ trong nước
cũng như nước ngoài ở thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu được
thể hiện rỏ nét ở sức tiêu thụ sản phẩm động cơ giảm dần nhất là vào năm
2005 chỉ tiêu thụ được 3203 chiếc, thấp nhất từ năm năm trở lại đây.
Sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh mới trên thị trường máy động lực
nhất là các đối thủ nước ngoài có tiềm lực kinh tế tài chính mạnh công nghệ
hiện đại ., sự biến động lớn ở thị trường xuất khẩu của công ty, giá cả vật tư
nguyên vật liệu đầu vào tăng cao ...đã đưa công ty đến một nhiệm vụ vô cùng
bức thiết là phải đổi mới cơ chế hoạt động sản xuất kinh doanh nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình.Với những yêu cầu thực tiển đó nội dung :”Phân tích
thực trạng năng lực cạnh tranh tại Công ty TNHH 1 TV Chế tạo động cơ

VINAPPRO và xây dựng một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh
tranh,”đã được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp CHQTKD.
2/ Mục đích của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh, cùng với việc phân tích, đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng, cấu
thành năng lực cạnh tranh cũng như phân tích đánh giá thực trạng về quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty VINAPPRO trong thời gian vừa
qua luận văn sẽ đề xuất xây dựng một số giải pháp để nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của công ty.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứư : chủ yếu nghiên cứu những vấn đề có ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của công ty như: môi trường kinh tế vĩ mô, vi mô, và
các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh:vốn,hoạt động thị trường, công tác
quản lý chất lượng sản phẩm, trình độ công nghệ….
Phạm vi nghiên cứu : đế tài tập trung nghiên cứu phân tích thực trạng các
hoạt động chủ yếu sản xuất kinh doanh của công ty từ năm 2001- 2005 và
một số số liệu từ năm 2003-2005 của sản phẩm chính là động cơ diezel.
4/ Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp như sau : Phương pháp phân tích , tổng
hợp; So sánh trên cơ sở điều tra quan sát thực tế; Phương pháp thống kê , dự


ĐHBK Hà Nội

2

Luận văn CH QTKD

báo thông qua việc sử dụng thông tin thu thập số liệu từ thực tiễn , từ các tạp
chí chuyên ngành , tài liệu ngành thông tin nội bộ ,các báo cáo tổng kết của

công ty , Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp .Các thông tin được
tập hợp, phân loại ,hệ thống lại đánh giá tình hình một cách sát thực và rút ra
được các kết luận cần thiết giúp xây dựng các giải pháp có tính hệ thống.
- Phương pháp chuyên gia cũng được sử dụng để cho điểm đánh giá trình
độ công nghệ của công ty.
5/. Những đóng góp của luận văn .
Ngoài việc xác lập một cách có hệ thống các cơ sở lý luận về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh,luận văn sẽ phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh công ty trên một số các yếu tố chủ yếu cấu thành năng lực cạnh tranh
trong đó trình độ công nghệ của công ty là yếu tố được quan tâm nhiều nhất
bởi vì đó là yếu tố chính hiện nay quyết định đến năng lực cạnh tranh mà từ
trước đến nay chỉ đựơc đề cập đến nhưng không được xác định một cách có
cơ sở khoa học.Trên các cơ sở nầy, luận văn đề xuất một số giải pháp để
nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới.
Luận văn là một công trình nghiên cứu kết hợp giữa các cơ sở lý luận và
thực tiển về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh tại công ty Chế tạo động cơ
VINAPPRO ; tuy luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi một công ty nhưng
thiết nghĩ đây cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các công ty khác
trong ngành chế tạo máy động lực khi quan tâm đến cạnh tranh và nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình.
6/ Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm có 3 chương .
Chương I.Các cơ sở lý luận về cạnh tranh , năng lực cạnh tranh .
Chương II.Phân tích đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng và cấu thành
năng lực cạnh tranh của công ty VINAPPRO.
ChươngIII.Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranhcông ty VINAPPRO.
Do điều kiện hạn chế về thời gian, trình độ có hạn, cũng như yêu cầu bức
bách hiện nay của công ty, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu ,phân tích đánh
giá những yếu tố chủ yếu cấu thành năng lực cạnh tranh:vốn,công tác thị
trưòng ,công tác quản lý chất lượng sản phẩm ,trình độ công nghệ , chất lượng

công tác thiết kế kỹ thuật – công nghệ , công tác R&D…để phục vụ trước mắt
cho việc năng cao năng lực cạnh tranh với những giải pháp đề xuất mang tính
ngắn hạn mà thôi .
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình thực hiện luận văn nhưng chắc
chắn sẽ không thể nào tránh khỏi những thiếu sót , rất mong được sự góp ý
của các thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp để tôi có thể hoàn thiện đề tài
nghiên cứu nầy trong tương lai .


ĐHBK Hà Nội

3

Luận văn CH QTKD

CHƯƠNG I. CÁC CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH.
1.1.Khái niệm về cạnh tranh: [17,12-15]
1.1.1.Khái niệm.
Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào đều thừa nhận rằng:
cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung cầu và giá cả hàng hoá là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ
bản của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, do cách tiếp cận
khác nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh, đặc biệt là phạm vi
của ngôn ngữ này. Có thể dẫn ra sau:
Theo K. Marx “ Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Cuốn tự điển rút gọn về kinh doanh đã định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.

Theo Từ Điển Bách Khoa của Việt Nam thì “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi
quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có
lợi nhất”.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp,
quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế.
Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “ Cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường”.
Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: ” Cạnh tranh có thể được
hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố
sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để
đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể.
Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự giành giật thị trường, khách
hàng, đối tác trên cơ sở các ưu thế về chất lượng hàng hoá, giá hàng hoá, thời
hạn, sự thuận tiện và uy tín lâu dài.[15,11].
Ngoài ra còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh,song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó
mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án …). Một
loạt điều kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng …) mục đích cuối cùng
là kiếm được lợi nhuận cao.


ĐHBK Hà Nội


4

Luận văn CH QTKD

Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường,
các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh …
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể
sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản
phẩm, cạnh tranh bằng giá sản phẩm (chính sách định giá thấp; chính sách
định giá cao; chính sách ổn định giá; định giá theo thị trường; chính sách giá
phân biệt; bán phá giá); cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ
chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh
thông qua hình thức thanh toán …
Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh
tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện
sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh
doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.1.2. Phân loại. [17,16-19]
Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau:
Dưới góc độ các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, có cạnh tranh giữa
những người sản xuất (người bán) với nhau, giữa những người mua và người
bán, người sản xuất và người tiêu dùng, và giữa những người mua với nhau.
Ở đây cạnh tranh xoay quanh vấn đề: chất lượng hàng hoá, giá cả và điều kiện
dịch vụ.
• Xét theo quy mô của cạnh tranh có: cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh

của doanh nghiệp và cạnh tranh của quốc gia.
• Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh có: cạnh tranh hợp pháp
hay cạnh tranh lành mạnh (biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật pháp, tập
quán, đạo đức kinh doanh) và cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không
lành mạnh (biện pháp cạnh tranh bằng những thủ đoạn chứ không phải vươn
lên bằng sự nỗ lực của chính mình).
• Xét theo hình thái của cạnh tranh có: cạnh tranh hoàn hảo, hay thuần túy
đây là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá là không
thay đổi trong toàn bộ địa danh cuả thị trường, bởi vì người mua, người bán
đều biết tường tận về các điều kiện của thị trường; và cạnh tranh không hoàn
hảo đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở
đó người bán hàng hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối
được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Trong cạnh tranh không hoàn
hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền. Độc
quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một số ít các nhà sản
xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ
thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan trọng trong ngành đó. Cạnh


ĐHBK Hà Nội

5

Luận văn CH QTKD

tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều người bán sản xuất
ra những sản phẩm có thể dể dàng thay thế cho nhau.
• Dưới góc độ các công đoạn của sản xuất – kinh doanh, người ta cho rằng
có ba loại: cạnh tranh trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi
bán hàng. Cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và

dịch vụ.
• Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Đây là cách phân loại cạnh
tranh của K.Marx dựa trên cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường,
giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ, một loại hàng hoá
hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá
cả thị trường đồng nhất đối với hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị
xã hội của hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp
thôn tính lẫn nhau. Doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động
của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp hoạt
động kinh doanh, thậm chí bị phá sản; cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu
tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong
các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỉ suất lợi nhuận cao
hơn so với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển.
Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm
những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang
ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự
nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành nên sự phân
phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các
chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu
được lợi nhuận như nhau.
Phát triển cách phân loại trên của K.Marx, các nhà kinh tế học chia thành
hai hình thức cạnh tranh là cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Cạnh tranh
dọc là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp
nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc chỉ ra rằng: sự thay đổi giá bán và lượng bán
nói trên của các doanh nghiệp sẽ có điểm dừng. Sau một thời gian nhất định,
hình thành một giá thị trường thống nhất. Cạnh tranh dọc sẽ làm cho các
doanh nghiệp có chi phí bình quân cao bị phá sản, còn các doanh nghiệp có
chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận cao; cạnh tranh ngang là cạnh tranh giữa

các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp như nhau. Do đặc điểm đó,
trong cạnh tranh ngang không có doanh nghiệp nào bị loại khỏi thị trường,
song giá cả ở mức thấp tối đa, lợi nhuận giảm dần và có thể không có lợi
nhuận. Để hạn chế bất lợi đó, cạnh tranh ngang dẫn đến hai khuynh hướng:
hoặc là phải liên minh thống nhất giá bán cao, giảm lượng bán trên thị trường
- xuất hiện độc quyền; hoặc là các doanh nghiệp tìm mọi cách giảm được chi
phí, tức là chuyển từ cạnh tranh ngang sang cạnh tranh dọc nhằm trụ lại được
trên thị trường và có lợi nhuận cao.


ĐHBK Hà Nội

6

Luận văn CH QTKD

• Xét theo phạm vi lãnh thổ, có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc
tế. Cần lưu ý, cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ngay ở thị trường nội địa, đó là
cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước sản xuất với hàng ngoại nhập.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế là cạnh tranh kinh tế đã vượt khỏi phạm vi quốc
gia, tức là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên thị trường thế giới. Sở dĩ như
vậy, là do sự tác động của cách mạng khoa học – công nghệ, phân công lao
động quốc tế đã phát triển sâu, rộng, sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội
có tính chất quốc tế và do quá trình mở rộng thị trường trên quy mô toàn thế
giới. Chủ thể trực tiếp tham gia vào cạnh tranh kinh tế quốc tế , trước hết, là
các doanh nghiệp, bởi lẽ, doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp thực hiện việc sản
xuất hàng hoá và dịch vụ.
1.2.Vai trò và chức năng cạnh tranh.[24,8]
1.2.1. Vai trò của cạnh tranh.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động

lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò thúc đẩy phát triển
kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực có hiệu quả nhất thông qua việc kích
thích các doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực tối ưu nhất cũng như hạn chế
được những méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập một
cách có hiệu quả hơn và đồng thời góp phần nâng cao phúc lợi xã hội;
Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu
về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản nếu đứng lại, cạnh tranh buộc
các doanh nghiệp phải luôn cải tiến, đổi mới công nghệ, phương pháp sản
xuất, quản lý nhằm nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả
sản xuất và lợi nhuận, qua đó đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của
chính các doanh nghiệp.
Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự chọn lựa rộng rãi hơn,
bảo đảm cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả tùy
tiện.Với khía cạnh đó cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, quan hệ cung
cầu, góp phần hạn chế méo mó giá cả lành mạnh hoá các mối quan hệ xã hội.
1.2.2.Chức năng của cạnh tranh.
Cạnh tranh có thể mang lại lợi ích cho người này và gây thiệt hại cho
người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động
tích cực. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng sau :
• Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu. Cạnh tranh hướng việc
sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất.
• Cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến
động của cầu và công nghệ sản xuất.
• Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến phân phối thu nhập: cạnh
tranh sẽ hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lực thị trường và việc hình
thành thu nhập không tương ứng với năng suất.
• Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới.



ĐHBK Hà Nội

7

Luận văn CH QTKD

Tầm quan trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời
kỳ. Tùy theo từng thời kỳ, tùy theo việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi
chức năng, người ta xây dựng mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau. Cạnh
tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi cung của một hàng
hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa người bán là cho giá cả giảm xuống,
chỉ những cơ sở kinh doanh đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật,
phương thức quản lý và hạ giá thành sản phẩm, mới có thể tồn tại. Với ý
nghĩa đó cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học,
công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm
ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản. Đối với xã hội, phá sản
doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã
hội được chuyển sang cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách có
hiệu quả hơn. Vì vậy phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự
huỷ diệt sáng tạo. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả còn gây ra
nhiều lãng phí cho xã hội hơn là phá sản.
1.3.Năng lực cạnh tranh.[17, 21-29].
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, thực tế tồn tại rất nhiều khái niệm khác
nhau về năng lực cạnh tranh được sử dụng phổ biến trên các phương tiện
thông tin đại chúng, sách báo chuyên môn, giao tiếp hàng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các chính khách … Nhiều khi khái niệm về năng lực cạnh
tranh vừa tỏ ra rất phổ biến vừa hết sức mơ hồ. Những khái niệm về năng lực
cạnh tranh từ các góc độ khác nhau cũng có sự khác biệt nhau. Nguyên nhân
ở đây là:

• Thứ nhất, do phạm vi quá lớn để có thể tiếp cận từ mọi khía cạnh. Năng
lực cạnh tranh có thể của công ty, ngành, lĩnh vực hoặc quốc gia và bao gồm
tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thị trường như các chính sách, cơ
cấu thị trường ,nghiệp vụ kinh doanh về thương mại, đầu tư và các quy định.
• Thứ hai, do không có sự rõ ràng khi trả lời câu hỏi ai là người cạnh tranh,
các nước hay công ty.
Như vậy khái niệm này là một khái niệm phức hợp được xem xét ở nhiều
cấp độ khác nhau như:.Năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, của sản phẩm và dịch vụ. Một số tác giả như Paul
Krugman phê phán khái niệm khả năng /năng lực cạnh tranh của quốc gia vì –
theo Krugman – không có quốc gia nào bị phá sản vì năng lực cạnh tranh kém
nhưng doanh nghiệp có thể bị phá sản vì không cạnh tranh được trên thị
trường. Do đó, việc nhận biết và phân loại những khái niệm năng lực cạnh
tranh khác nhau là rất cần thiết, nếu muốn hiểu một cách đầy đủ khái niệm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
•Khái niệm về năng lực cạnh tranh của quốc gia. Theo định nghĩa của Diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF – World Economic Forum) thì năng lực cạnh tranh
của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ
sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác.


ĐHBK Hà Nội

8

Luận văn CH QTKD

Năng lực cạnh tranh của quốc gia được xác định bởi các nhóm nhân tố:
mức độ mở của nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và đầu tư (thuế
quan và hàng rào phi thuế quan, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái,

đầu tư trực tiếp của nước ngoài); Vai trò của Chính phủ (mức độ can thiệp của
Nhà nước, năng lực của Chính phủ, quy mô của Chính phủ, chính sách tài
khóa, hệ thống thuế, lạm phát); tài chính (Tỷ lệ tín dụng rủi ro tài chính, đầu
tư và tiết kiệm); Công nghệ (năng lực công nghệ nội sinh, công nghệ chuyển
giao, mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai); Cơ sở hạ tầng (chất lượng
hệ thống giao thông vận tải, mạng viễn thông, điện, nước, kho tàng và các
phương tiện vật chất); Quản lý kinh doanh, quản lý nhân lực; Lao động (số
lượng lao động, hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động); Thể chế
(chất lượng của các thể chế pháp lý),… Khái niệm này cho thấy năng lực cạnh
tranh của quốc gia được xác định trước hết bằng mức độ tăng tưởng của nền
kinh tế quốc dân, và sự có mặt (hay thiếu vắng) các yếu tố quy định khả năng
tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã thực hiện. Tuy
nhiên, khái niệm này không bao hàm được tất cả các khía cạnh về giá trị gia
tăng, chẳng hạn sự tiến bộ về giáo dục, khoa học và công nghệ,… những vấn
đề được coi là quan trọng đối với tiềm năng tăng trưởng dài hạn của một quốc
gia. Đồng thời, nó cũng không phản ánh được nguyên nhân tạo ra năng lực
cạnh tranh và kết quả của cạnh tranh.
Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc
gia dựa trên năng suất lao động M. Porter cho rằng: “Khái niệm có ý nghĩa
nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động”. Mở rộng
khái niệm này thì năng lực cạnh tranh của quốc gia gần hơn với lý thuyết về
lợi thế so sánh. Ngay trong lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ricardo, một quốc
gia có khả năng cạnh tranh hơn các quốc gia khác bởi trội hơn về một hay vài
thuộc tính. Ông cho rằng, khả năng cạnh tranh của một quốc gia là một hệ
thống gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau, có tác động qua lại và bổ sung
cho nhau. Các yếu tố này là nền móng, chỗ dựa cho các công ty, giữ vai trò
quyết định, cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên
một lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, mọi yếu tố đều có thể thay đổi và do đó, năng
lực cạnh tranh cũng có thể bị thay đổi. Trong trường hợp này, Ủy ban về
Cạnh tranh Công nghiệp trực thuộc Tổng thống Mỹ đã đưa ra khái niệm “Một

nước là cạnh tranh nếu như nước đó duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng thu
nhập thực ngang bằng với tỷ lệ đó của các nước bạn hàng trong một môi
trường thương mại tự do”. Khái niệm này tỏ ra khá mơ hồ, bởi vì nó cho rằng
tăng trưởng thu nhập của một nước có liên quan đến các nước bạn hàng như
là tính cạnh tranh là không thỏa đáng.
Đối với Fagerberg (1988) vần đề lại được xem xét ở một góc độ khác,
Fagerberg định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia như là “khả năng
của một đất nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập
trung, nhất là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà không gặp phải
các khó khăn trong cán cân thanh toán”. Đây là khái niệm vừa mang tính vĩ


ĐHBK Hà Nội

9

Luận văn CH QTKD

mô, vừa mang tính ngẫu nhiên, bởi vì, khi tính cạnh tranh được xác định như
là năng lực để duy trì thị phần có khả năng tạo ra lợi nhuận thì năng lực này
lại có triển vọng chưa rõ ràng và mang tính ngẫu nhiên.
Như vậy, những khái niệm trên chỉ là một số khái niệm về lý thuyết về
năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia và đa số các quan niệm chấp nhận năng
lực cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào khả năng khai thác cơ hội trên thị
trường. Do đó, có thể hiểu, năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng lực của
một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế
đầy biến động của thị trường thế giới.
• Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, về khái niệm này, phần
lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh doanh nghiệp với ưu thế của sản
phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn năng lực cạnh tranh với vị

trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua
khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi
phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
Trước tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm năng lực cạnh
tranh được áp dụng ở phạm vi Xí nghiệp. Một Xí nghiệp được xem là có năng
lực cạnh tranh khi xí nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường
cùng với các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị
trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản
phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc
cao hơn.
Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh
nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất
ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác
nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao.
Randall lại cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Dunning lập luận rằng, năng lực cạnh tranh là khả năng cung ứng sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị tường khác nhau mà không phân
biệt nơi bố trí của doanh nghiệp đó.
Theo Philip Lasser, năng lực cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh
vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty đó hoặc huy động được
để có thể cạnh tranh thắng lợi.
Markusen (1992) đã đưa ra khái niệm “một nhà sản xuất là cạnh tranh nếu
như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn
vị của các nhà cạnh tranh quốc tế”.
Một quan niệm khác cho rằng “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
được hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển
thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó



ĐHBK Hà Nội

10

Luận văn CH QTKD

trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp trên một thị trường mục
tiêu xác định”.
Năng lực cạnh tranh là khả năng của một công ty để đánh bại các công ty
đối thủ đang ganh đua đạt được thị phần. [12,58]
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt trội qua các đối
thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. [26,210]
Như vậy, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể, khác nhau về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song tựu chung, khi tiếp cận năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp, cần chú ý tới 4 vấn đề cơ bản sau:
• Một là, trong điều kiện kinh tế thị trường, phải lấy yêu cầu của khách
hàng là chuẩn mực đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi lẽ,
yêu cầu của khách hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sản xuất, kinh
doanh. Cùng một loại sản phẩm các nhóm khách hàng khác nhau có những
nhu cầu rất khác nhau.
•Hai là,yếu tố cơ bản tạo nên năng lực mạnh trong việc lôi kéo khách hàng
phải là thực lực của doanh nghiệp.Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ
những yếu tố nội tại của và được thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp.
• Ba là, khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so
sánh với doanh nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên
thị trường. Muốn tạo nên năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh
nghiệp phải tạo nên lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Chính nhờ lợi
thế này, doanh nghiệp có thể giữ được khách hàng của mình và lôi kéo khách

hàng của đối thủ cạnh tranh.
• Bốn là, các biểu hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ
ràng buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh khi nó có khả năng
thỏa mãn đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có
doanh nghiệp nào có được yêu cầu này, thường thì có lợi thế về mặt này, lại
có thế yếu về mặt khác. Bởi vậy, việc đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và
mặt yếu của từng doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng với việc tìm các giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Do đó, có thể hiểu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực
và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt
nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho các doanh
nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
• Năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đối với khái niệm này, cho đến nay,
các tác giả , nhà nghiên cứu kinh tế cũng chưa đưa ra một định nghĩa thống
nhất. Khái niệm mà các tác giả đưa ra dựa trên khái niệm về năng lực cạnh
tranh của quốc gia, của doanh nghiệp.
Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của
nó (về các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp
trên cùng một thị trường. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có
năng lực cạnh tranh hay không trên thị trường là xác định mức độ tin cậy của
người tiêu dùng đối với sản phẩm về giá cả, đổi mới công nghệ, dịch vụ sau


ĐHBK Hà Nội

11

Luận văn CH QTKD

bán hàng,… so với sản phẩm cùng loại mà đối thủ khác cung cấp trên cùng thị

trường, chứ không quan tâm đến việc nó có vượt trội hơn so với mọi sản
phẩm xuất khẩu tại chỗ hay không.
Một số tác giả khác lại cho rằng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là năng
lực nắm giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và
cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại của các chủ thể
sản xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường và
thời gian nhất định.
Như vậy, mặc dù vẫn chưa thống nhất khái niệm, song có thể hiểu rằng,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố, nhưng có
những yếu tố chính như: khả năng sử dụng thay thế cho công dụng kinh tế của
một loại sản phẩm khác biệt tương tự với loại sản phẩm đó; yếu tố về giá cả
của sản phẩm thường gắn liền với chủ thể sản xuất, cung ứng ra nó so với sản
phẩm của các chủ thể sản xuất và cung ứng khác có thể thỏa mãn cao hơn yêu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, được người tiêu dùng lựa chọn chấp nhận
tiêu thụ, đồng thời đem lại lợi nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất,
cung ứng; ngoài các yếu tố chính trên, còn nhiều yếu tố khác như kiểu dáng,
mẫu mã hình thức của sản phẩm, phương thức tiêu thụ,quảng cáo,bán hàng…
Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế
có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách
kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định, bộ
máy Nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là
một yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh
nghiệp rất thành công trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng
lực cạnh tranh.Như vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp - một nhân tố quan
trọng quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia. Nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là
một trong những mục tiêu của nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.


ĐHBK Hà Nội

12

Luận văn CH QTKD

1.4.Các yếu tố chủ yếu cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh
nghiêp.
1.4.1 Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp:[17,49-52]
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị chi phối bởi chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp đúng hay sai. Nếu có chiến lược đúng thì năng lực
cạnh tranh sẽ được nâng cao.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều loại chiến lược khác nhau
được phân loại theo cấp độ chiến lược và phạm vi của chiến lược, bao gồm
chiến lược kinh doanh tổng hợp và chiến lược kinh doanh theo yếu tố, bộ
phận hợp thành, đặc thù cho từng lĩnh vực, giải quyết từng vấn đề kinh doanh
để thực hiện chiến lược tổng quát.
Chiến lược kinh doanh tổng quát, đề cập những vấn đề quan trọng nhất,
bao trùm nhất và có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp
như: phương thức kinh doanh, chủng loại hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn

sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ, các mục tiêu về tài chính và các chỉ
tiêu tăng trưởng, …Dưới đây là khái quát một số chiến lược quan trọng trong
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp:
• Chiến lược phát triển thị trường mục tiêu: Việc xác định thị trường mục
tiêu (thị trường trọng điểm) của doanh nghiệp và chiến lược phát triển thị
trường mục tiêu là rất quan trọng. Có thể có ba cách tiếp cận thị trường mục
tiêu mà doanh nghiệp có thể xem xét để đưa vào chiến lược. Thứ nhất, cách
tiếp cận thị trường mục tiêu đơn giản là doanh nghiệp chọn một trong số các
thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing cho thị
trường này; Thứ hai, cách tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp, doanh
nghiệp chọn hai hay nhiều hơn trong các thị trường thành phần làm thị trường
mục tiêu và xây dựng marketing hỗn hợp cho từng thị trường mục tiêu đã
chọn; Thứ ba, cách tiếp cận thị trường mục tiêu chấp nhận được, doanh
nghiệp chọn hai hay nhiều hơn trong số các thị trường thành phần làm thành
một thị trường tương đối đồng nhất và xây dựng marketing hỗn hợp chung
cho thị trường ghép.
• Chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại: Một trong những
nội dung/chiến lược thành phần của chiến lược kinh doanh là chiến lược giữ
vững và phát triển thị trường hiện tại của doanh nghiệp. Giữ vũng và phát
triển thị trường hiện tại xuất phát từ yêu cầu của quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp trên thị trường phải nhằm tới các mục tiêu lợi nhuận vị thế và
an toàn.
• Chiến lược tiếp cận và thâm nhập thị trường mới: Để có thể tiếp cận và
thâm nhập thị trường mới, việc đầu tiên mà doanh nghiệp cần làm là nghiên
cứu thị trường mới này để xác định thị trường trọng điểm của doanh nghiệp,
để từ đó có cách ứng xử (các kích thích thông qua các công cụ của marketing
hổn hợp) phù hợp với thị trường mới. Đối với xâm nhập thị trường mới, việc
tổ chức thực hiện các công cụ của marketing hổn hợp là rất quan trọng, trong
đó doanh nghiệp cần chú trọng đặc biệt đến việc thiết kế và phát triển hệ



ĐHBK Hà Nội

13

Luận văn CH QTKD

thống kênh phân phối, cũng như thực hiện các hoạt động quảng cáo, chào
hàng khuyến mại.
• Các chiến lược marketing hổn hợp: các chiến lược marketing hổn hợp đi
vào chi tiết cụ thể những gì sản phẩm mang đến cho khách hàng; nó được
định giá như thế nào, được giới thiệu ra sao, và nó được bán ở đâu để khách
hàng có thể mua được. Đây là nguyên tắc 4P, đó là Product (sản phẩm), Price
(giá cả), Promotion (quảng cáo, giới thiệu), và Place (địa điểm).
1.4.2.Quy mô doanh nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp thực chất là giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm,
tận dụng lợi thế về quy mô sản xuất kinh doanh lớn. Cản trở về quy mô buộc
các doanh nghiệp mới xuất hiện phải tham gia vào kinh doanh với quy mô lớn
mà đó là một rủi ro đối với một doanh nghiệp mới. Trong nền kinh tế hội
nhập, yếu tố vốn đối với doanh nghiệp càng trở nên quan trọng, nó là cơ sở để
doanh nghiệp có thể tiến hành thực hiện tốt các nội dung hoạt động của mình,
là cơ sở để doanh nghiệp phát triển mở rộng quy mô tạo lợi thế cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác trong khu vực và thế giới. Còn nếu doanh nghiệp tham
gia với quy mô nhỏ thì phải chấp nhận bất lợi về chi phí, do đó rất khó có thể
cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp hiện có.
1.4.3.Trình độ công nghệ.
Trình độ công nghệ: Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có
ảnh hưởng một cách sâu sắc tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là
yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh
nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản

xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm cuả họ
nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể
nói là có năng lực cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là cả hệ thống máy móc
cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
1.4.4. Chi phí sản xuất – kinh doanh.
Trong đó bao gồm chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới
(R&D); các chi phí tiện ích (điện, nước, …); chi phí vận tải; chi phí thuê mặt
bằng sản xuất kinh doanh, … là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản
phẩm mới là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh
nghiệp muốn tồn tại, có năng lực cạnh tranh thì cần phải biết đổi mới mình.
Do đó hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là tại các nước
phát triển chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỉ trọng khá
lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới
nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc
đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng
hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị trường. Các chi phí
điện, nước … luôn là một yếu tố được xem xét khi có dự án đầu tư, nhất là
đầu tư nước ngoài. Nó cũng được xem xét đến khi so sánh năng lực cạnh


ĐHBK Hà Nội

14

Luận văn CH QTKD

tranh giữa các nước. Điều này cho thấy chi phí điện, nước … ảnh hưởng
không nhỏ đến giá thành sản phẩm trong một số ngành và nó ảnh hưởng tới

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.4.5.Quản lý và tổ chức sản xuất.[16,9]
Quản lý sản xuất có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động của 1 doanh
nghiệp. Nếu quản lý tốt, ứng dụng được các phương pháp quản lý khoa học
thì sẽ tạo khả năng sinh lời lớn cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu quản lý kém
sẽ làm cho doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có thể bị phá sản. Theo kinh
nghiệm đã được tổng kết của Mỹ thì chi phí cho khâu sản xuất, dịch vụ bao
giờ cũng chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng chi phí của một doanh nghiệp. Mặt
khác,các giải pháp tạo khả năng sinh lợi trong lĩnh vực quản lý sản xuất lớn
hơn rất nhiều so với các biện pháp giảm phí tổn trong quản lý tài chính và
tăng doanh số thông qua hoạt động tiếp thị.
1.4.6. Quản lý chất lượng sản phẩm.
Ngày nay, trong đời sống kinh tế xã hội và giao lưu kinh tế quốc tế chất
lượng sản phẩm có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách
thức to lớn đối với các doanh nghiệp và các quốc gia. Sự thắng bại trong cuộc
cạnh tranh trên thị trường phụ thuộc chủ yếu vào mức độ thích hợp của chất
lượng sản phẩm và dịch vụ, sự hợp lý về giá cả và điều kiện mua bán, giao
nhận. Để cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế, muốn
thoả mãn nhu cầu khách hàng cũng như mang lại lợi nhuận cao thì sản phẩm
cần phải có chất lượng. Một trong những lý do lớn khiến cho các sản phẩm
của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không đủ sức cạnh tranh nổi trên thị
trường trong và ngoài nước mà còn bị lấn át trên thị trường nội địa là do chất
lượng sản phẩm của chúng ta còn thấp.
Thực tiễn ngày nay cho chúng ta thấy rằng chất lượng sản phẩm đã trở
thành yếu tố cạnh tranh đối với các doanh nghiệp và quốc gia. Cuộc cạnh
tranh kinh tế toàn cầu ngày càng mạnh mẽ với quy mô hoạt động càng lớn, sự
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự thay đổi tâm lý tiêu dùng
sản phẩm ngày càng nhanh thì chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp
ngày càng có ý nghĩa lớn lao.
1.5. Một số các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.

Như đã đề cập ở trên, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh
nghiệp. Thông thường, người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố
nội tại doanh nghiệp như: quy mô, sản phẩm, năng lực quản lý, trình độ công
nghệ .. Tuy nhiên những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu
tố bên ngoài ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi phân tích các yếu tố cấu
thành và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần phải quan
tâm những nội dung sau:
1.5.1 Các yếu tố quốc tế.
• Các nhân tố thuộc về chính trị. Người ta cho rằng tổ chức chính trị quan
trọng nhất là Nhà nước chủ quyền, do nó có khả năng phát hành tiền tệ, đánh


ĐHBK Hà Nội

15

Luận văn CH QTKD

thuế và định ra các luật lệ trong một quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có
một số khía cạnh chính trị quan trọng vượt ra khỏi biên giới quốc gia và tác
động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, như:
+Mối quan hệ giữa các Chính phủ. Khi mối quan hệ trở nên thù địch, thì
sự mâu thuẩn giữa hai chính phủ có thể hoàn toàn phá hủy các mối quan hệ
kinh doanh giữa hai nước. Nếu mối quan hệ chính trị song phương được cải
thiện sẽ thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong kinh doanh.
+ Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và
vận dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành

viên. Như chính sách của Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới chịu tác
động bởi quan điểm của các nước công nghiệp phát triển, những nước có vai
trò tài trợ chính cho các tổ chức này.
+ Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả thuận được một
loạt các quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh
quốc tế. Mặc dù, có thể chúng không ảnh hưởng trực tiếp tới từng doanh
nghiệp riêng lẻ, nhưng chúng ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi
trường kinh doanh quốc tế ổn định và thuận lợi.
+ Xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá.Xu
hướng hội nhập kinh tế vùng, khu vực có ảnh hưởng quan trọng đối với các
công ty đang hoạt động trong các thị trường khu vực. Hội nhập kinh tế diễn ra
theo nhiều hình thức khác nhau, nhưng đặc biệt tập trung vào vấn đề hợp tác
kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau nhiều hơn
giữa các quốc gia, như khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA); Liên
minh châu Âu (EU), và hội nhập đầy đủ nhất đối với một quốc gia là gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
+ Đối thủ cạnh tranh quốc tế: Ngày nay sự bành trướng của các tập đoàn
đa quốc gia đang là mối đe dọa đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước
đang phát triển. Các tập đoàn này có lợi thế về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm
tổ chức sản xuất – kinh doanh, kinh nghiệm cạnh tranh trên thương trường, sẽ
có nhiều ưu thế trong cạnh tranh. Ngược lại, những doanh nghiệp nhỏ, chưa
có kinh nghiệm thường phải chịu thua thiệt và dể dẫn đến phá sản.
1.5.2.Các yếu tố trong nước.
Các yếu tố trong nước sẽ chi phối hoạt động kinh doanh, cũng như năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố khác nhau.Một số yếu
tố chính yếu là:
• Các yếu tố kinh tế: Đây là nhóm các yếu tố và điều kiện ràng buộc rất
phong phú và có ảnh hưởng quan trọng đến thách thức, nhưng đồng thời lại là
nguồn khai thác cơ hội hấp dẫn đối với mỗi doanh nghiệp. Các yếu tố này tác
động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng:

+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Nếu như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn


ĐHBK Hà Nội

16

Luận văn CH QTKD

tới năng lực mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt
cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có
khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng,
mẫu mã, …) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có năng lực
cạnh tranh cao. Trái lại, khi nền kinh tế suy thoái, các khoản chi tiêu của đại
bộ phận dân chúng bị giảm, do đó sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh và tạo ra
nhiều “nguy cơ” đối với doanh nghiệp.Trong thực tế, suy thoái kinh tế thường
gây ra các cuộc chiến tranh về giá cả trong các ngành hoạt động ở giai đoạn
bảo hoà.
+ Lãi suất: Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp
thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí
của doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh
chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói
riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá, các
doanh nghiệp trong nưóc sẽ giảm năng lực cạnh tranh ở thị trường nước
ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các
đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập

khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược
lại, khi đồng nội tệ giảm giá, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng
cả trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, vì khi đó giá bán của
các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng
hoá do nước khác sản xuất.
• Các yếu tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, pháp luật rõ
ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các
doanh nghiệp nói chung, tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm
bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và
trên mọi lĩnh vực…
• Trình độ khoa học và công nghệ: nhóm các nhân tố này quan trọng và có
ý nghĩa quyết định đối với môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai
yếu tố cơ bản nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường,
đó là chất lượng và giá bán. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá
và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế
giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng,
cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ
cao. Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo
ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái
trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây


ĐHBK Hà Nội

17

Luận văn CH QTKD


là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình.Tuy nhiên, về phía nhà nước chi phí hằng năm cho hoạt động khoa học
công nghê khoảng 1% tổng ngân sách tiêu dùng ,tương đương 0,4% GDP, so
với các nước trong khu vực là 2% GDP thì mức đầu tư nầy là quá thấp. [23,
201]
• Các yếu tố thuộc môi trường ngành: Các yếu tố này tác động đến môi
trường hoạt động của doanh nghiệp, và vì vậy ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Ngành kinh doanh là ngành hoạt động trong đó bao
gồm các doanh nghiệp cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể thay thế lẫn
nhau nhằm đáp ứng một nhu cầu căn bản nào đó của người tiêu dùng.
1.6.Một số mô hình phân tích năng lực cạnh tranh.
Có rất nhiều tiêu chí hay mô hình phân tích để xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tùy theo đặc điểm của
từng doanh nghiệp hay từng ngành, tùy theo mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố có thể có những cách đánh giá về năng lực cạnh tranh khác nhau, cách tiếp
cận khác nhau. Sau đây là hai mô hình cơ bản được sử dụng để phân tích năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.6.1Mô hình phân tích cạnh tranh trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh.
Lợi thế so sánh ở đây được hiểu là lợi thế về chi phí hoặc khả năng sinh
lợi trên một đơn vị sản phẩm. Khi doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí dẫn
đến giảm được giá thành và tăng lợi nhuận lên thì sẽ làm thay đổi lợi thế so
sánh này trong điều kiện giá cả đã được xác định. Và như vậy, chỉ số chi phí
hay khả năng sinh lợi trên một đơn vị sản phẩm cho biết năng lực cạnh tranh,
duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường.
Phân tích lợi thế cạnh tranh theo lợi thế so sánh là một mô hình phân tích
tĩnh. Có nghĩa là nó xem xét năng lực cạnh tranh chỉ dựa vào khả năng tiết
kiệm chi phí của doanh nghiệp và coi các yếu tố còn lại là không đổi. Trong
khi đó, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, thường xuyên thay đổi
theo sự biến động của môi trường. Như vậy, theo mô hình phân tích này,

doanh nghiệp sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh hay không phụ thuộc
hoàn toàn vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Nói cách khác, mô hình
này chỉ tập trung vào những tiềm năng của doanh nghiệp mà không đề cập
đến các vấn đề về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. bỏ qua các yếu tố
khác có tác động hết sức quan trọng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Do đó, có thể dẫn đến các kết luận và giải pháp sai lầm.
1.6.2. Mô hình phân tích theo quan điểm tổng thể.
Theo phương pháp này, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc
vào các yếu tố do doanh nghiệp tự quyết định nhưng cũng còn phụ thuộc vào
những yếu tố do Chính phủ quyết định và những yếu tố mà cả Chính phủ và
doanh nghiệp chỉ kiểm soát được trong một mức độ hạn chế hoặc hoàn toàn
không kiểm soát được.Mô hình phân tích nầy sẽ đưa mô hình tổng quan về
doanh nghiệp và môi trường kinh doanh của doanh nghiệp như sơ đồ hình 1.1.


18

ĐHBK Hà Nội

Luận văn CH QTKD

Hình 1.1 .Mô hình phân tích theo quan điểm tổng thể.
Cơ hội

Thử
thách

Môi trường vĩ mô:
1. Các yếu tố kinh tế
2. Các yếu tố chính phủ, luật pháp và chính trị

3. Các yếu tố công nghệ
4. Các yếu tố xã hội
5. Các yếu tố tự nhiên
Môi trường vi mô:
1. Khách hàng
2. Các đối thủ cạnh tranh
3. Các đối thủ tiềm ẩn
4. Hàng hóa thay thế
5. Người cung ứng nguyên vật liệu
6. Chính quyền địa phương, công đoàn, các tổ chức xã hội
khác
Hoàn cảnh nội bộ:
1. Sản phẩm
2. Giá cả sản phẩm
3. Hệ thống kênh phân phối
4. Marketing
5. Nề nếp (văn hóa) tổ chức

Điểm mạnh

Điểm yếu

Theo đó, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
được chia làm ba nhóm:
Các yếu tố do doanh nghiệp tự quyết định. Ví dụ như: Chiến lược phát
triển, chính sách sản phẩm, chính sách định giá, kênh phân phối, marketing.
Các yếu tố doanh nghiệp chỉ quyết định ở mức độ nhất định nào đó. Ví dụ
như: giá cả nguyên vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất,nhu cầu tiêu dùng..
Các yếu tố doanh nghiệp không quyết định được Ví dụ như: giá cả trên thị
trường cạnh tranh, điều kiện tự nhiên, các yếu tố do Chính phủ tạo ra (thuế

suất, tỉ giá hối đoái, hệ thống pháp luật, chính sách khuyến khích hay hạn chế
sản xuất một loại sản phẩm nào đó …)
Nhìn chung mô hình này có nhiều ưu điểm hơn mô hình trên do đã đề cập
được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không trong trạng thái đơn lẻ mà
trong mối quan hệ phức tạp với điều kiện bên ngoài.
Tóm lại, có rất nhiều các tiêu chí để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở các mô hình được sử dụng


×