Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.72 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghệ thông tin (CNTT) là một thành tựu lớn của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật. Hiện nay, nó thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu
khoa học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo và các hoạt động
chính trị, xã hội khác. Trong giáo dục - đào tạo, công nghệ thông tin được sử dụng
vào tất cả các môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Hiệu quả rõ rệt là
chất lựơng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết và thực hành. Vì thế, nó là chủ đề
lớn được tổ chức văn hóa giáo dục thế giới UNESCO chính thức đưa ra thành
chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI và dự đoán “sẽ có sự
thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của công
nghệ thông tin”.
Ở nước ta, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo
được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học có
sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn
kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã thể hiện
rõ điều này, như:
- Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị 58/CT - TW ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh
ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.
- Chính phủ (1993), Nghị quyết số 49 ngày 4/8/1993 về phát triển CNTT ở
nước ta trong những năm 90.
- Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục - Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng
cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục
giai đoạn 2001 - 2005.
- Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục - Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012;
- Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở
giáo dục.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội (CĐCNMTTHN


hoặc HICT) đã đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ thông tin như: máy tính, máy
1


chiếu (projector) và đặc biệt là các phần mềm chuyên ngành, phần mềm mô
phỏng… phục vụ công tác đào tạo trong trường. Tuy nhiên, hoạt động ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học của trường còn hạn chế như: có tới 76,9% giáo
viên không thường xuyên soạn bài giảng điện tử (tr.46), sử dụng máy tính, máy
chiếu chưa thường xuyên, chỉ sử dụng trong các buổi dự giờ, thi giáo viên giỏi; giáo
viên, học sinh chưa khai thác, tham khảo tài liệu tại thư viện điện tử; tài liệu điện tử
(sử dụng phần mềm mô phỏng trong dạy thực hành giúp học sinh quan sát thao tác
mẫu trong quá trình luyện tập) chưa đầy đủ…
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ứng dụng các hình thức công
nghệ thông tin vào dạy học chưa hiệu quả đó là công tác quản lý hoạt động này của
trường còn lỏng lẻo, tự phát, không theo kế hoạch, thiếu kiểm tra đôn đốc.. Hơn
nữa, cho đến thời điểm này ở trường HICT chưa có nghiên cứu nào đánh giá công
tác quản lý việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại trường.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài:
“Biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại
trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực trạng quản lý hoạt động ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại
trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học

trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số biện pháp quản lý phù hợp với cơ sở khoa học và
đặc thù riêng của trường sẽ góp phần nâng cao được chất lượng đào tạo tại trường
Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.

2


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã xác định đề tài sẽ giải quyết các vấn đề sau:
5.1. Cơ sở lý luận của quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà
Nội.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu luận cứ khoa học và các biện pháp quản lý hoạt
động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại trường Cao đẳng Công nghiệp
Dệt May Thời trang Hà Nội.
- Về không gian: Tác giả nghiên cứu tại 3 đơn vị của trường: Khoa Công
nghệ May, khoa Thiết kế thời trang, Trung tâm Thực hành may (sau đây gọi chung
là trường) của trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
- Về thời gian: Các số liệu phục vụ cho luận văn được giới hạn từ năm 2010
đến nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa… các tài liệu, các văn bản có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như: sách, tài liệu về giáo dục, về quản lý giáo dục, về công

nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin; chủ trương, đường lối, nghị quyết,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, của Tổng cục Dạy nghề về công nghệ thông tin và quản lý việc ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Điều tra, khảo sát, phỏng vấn: Điều tra, phỏng vấn cán bộ, giáo viên trường
Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội.
7.2.2. Phương pháp thống kê, tổng hợp, xử lý số liệu: Thống kê, tổng hợp và xử lý
số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt
May Thời trang Hà Nội.

3


7.2.3. Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của trường Cao đẳng Công nghiệp
Dệt May Thời trang Hà Nội.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy học tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội
- Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội

4


CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ỨNG

DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quản lý - Quản lý nhà trường
1.1.1.1. Quản lý
Quản lý xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài
người. Ở đâu có hoạt động chung, ở đó cần đến sự quản lý, như Các - mác đã nói
một cách rất hình tượng rằng: Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Có thể tiếp cận khái niệm quản lý theo những cách sau:
Theo quan niệm truyền thống: “Quản lý là quá trình tác động có ý thức của
chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu cho bộ
máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác định”
[8,5].
Theo tác giả Mai Quang Huy: “Thuật ngữ quản lý gồm hai quá trình tích hợp
nhau: Quá trình quản gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái ổn định;
quá trình lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa vào thế phát triển” [11,4].
“Quản lý phải làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù
hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác giữa các nhân tố bên
trong và các nhân tố bên ngoài. Như vậy, quản lý là tác động có định hướng, có chủ
đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong tổ chức, làm cho tổ chức đó
vận động và đạt được mục tiêu của tổ chức” [15,4].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản lý)
nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [15,14].
Như vậy quản lý là một yêu cầu tất yếu của một tổ chức; là tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới khác thể quản lý nhằm đạt mục tiêu đề
ra. Để quản lý tốt, nhà quản lý - chủ thể quản lý phải thực thi những biện pháp cụ
thể, khoa học và hợp quy luật. Đó là thực hiện tốt bốn chức năng của quản lý:
a. Chức năng hoạch định (lập kế hoạch)
- Vạch ra mục tiêu cho bộ máy.

5


- Xác định các bước đi để đạt mục tiêu.
- Xác định các nguồn lực và các biện pháp để đạt tới mục tiêu.
Để vạch ra được mục tiêu và xác định được các bước đi cần có khả năng dự
báo. Vì thế, trong chức năng hoạch định bao gồm cả chức năng dự báo.
b. Chức năng tổ chức: Chức năng này bao gồm hai nội dung:
- Tổ chức bộ máy: Sắp xếp bộ máy đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu và
các nhiệm vụ phải đảm nhận. Nói khác đi phải tổ chức bộ máy phù hợp về cấu trúc,
cơ chế hoạt động để đủ khả năng đạt được mục tiêu, phân chia thành các bộ phận
sau đó ràng buộc các bộ phận bằng các mối quan hệ.
- Tổ chức công việc: Sắp xếp công việc hợp lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng
để mọi người hướng vào mục tiêu chung.
c. Chức năng điều hành (chỉ đạo): Tác động đến con người bằng các mệnh lệnh, làm
cho người dưới quyền phục tùng và làm việc đúng với kế hoạch, đúng với nhiệm vụ
được phân công. Tạo động lực để con người tích cực hoạt động bằng các biện pháp
động viên, khen thưởng kể cả trách phạt.
d. Chức năng kiểm tra: Là thu thập thông tin ngược để kiểm soát hoạt động của bộ
máy nhằm điều chỉnh kịp thời các sai sót, lệch lạc để bộ máy đạt được mục tiêu
[8,4-5].
Như vậy quản lý là quá trình tác động có định hướng, có lựa chọn các tác
động phù hợp với đối tượng và môi trường nhằm hướng đối tượng trong thế vừa ổn
định, vừa phát triển theo mục tiêu đề ra. Quản lý được thực hiện thông qua các hoạt
động lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.1.1.2. Quản lý nhà trường
“Nhà trường là một thiết chế xã hội, là đơn vị cấu trúc cơ bản của hệ thống
giáo dục quốc dân” [16,150]. Do đó, quản lý nhà trường là quản lý thiết chế của hệ
thống giáo dục, đó chính là quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô, cấp độ một đơn vị cấu
trúc cơ sở trong và ngoài nhà trường biến các quan điểm, đường lối, chủ trương,

chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ
chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác huy
động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong
nhà trường [14,135].
6


Theo tác giả Mai Quang Huy: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh” [11,4].
Các chủ thể quản lý nhà trường:
- Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục các cấp: thực hiện các nội dung
quản lý theo sự phân cấp, theo qui định của pháp luật.
- Các chủ thể quản lý bên trong nhà trường: Lãnh đạo nhà trường (Hiệu
trưởng và Ban Giám hiệu), tổ trưởng chuyên môn, nhà giáo. Mỗi chủ thể nói trên
khác nhau về vị trí, vai trò trong bộ máy quản lý nhà trường nên họ tiến hành quản
lý giáo dục với nội dung khác nhau.
1.1.2. Dạy học - Quản lý quá trình dạy học
1.1.2.1. Dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm trong bất cứ loại hình nhà trường
nào, dưới góc độ giáo dục học. Dạy học là một quá trình toàn vẹn có sự thống nhất
giữa hai mặt của các chức năng hoạt động dạy và hoạt động học.
Dạy học gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng: hoạt động dạy học của
giáo viên và hoạt động của học sinh. Trong đó dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển
của giáo viên, người học tự giác, tích cực tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập
của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. Trong hoạt động dạy học, hoạt động
của giáo viên giữ vai trò chủ đạo, hoạt động học của học viên có liên hệ tác động
lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động thì việc dạy học không diễn ra.

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quá trình dạy học là quá trình dưới sự lãnh
đạo, tổ chức điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động
tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thực hiện
những nhiệm vụ dạy học” [2,139].
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh: “Hoạt động dạy học là hoạt động chuyên
biệt của người giáo viên nhằm tổ chức, điều khiển, triển khai, điều chỉnh quá trình
lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và kỹ xảo trong hoạt động học tập của học sinh
từ đó giúp các em không chỉ lĩnh hội mà còn biết các lĩnh hội tri thức (dạy cái và
dạy cách) tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách” [14].

7


Như vậy, chúng ta thấy: sự điều khiển tối ưu hóa quá trình học sinh chiếm
lĩnh khái niệm khoa học và bằng cách đó phát triển và hình thành nhân cách. Dạy và
học có những mục đích khác nhau, nếu học nhằm vào việc chiếm lĩnh khái niệm
khoa học thì dạy có mục đích điều khiển sự học tập.
1.1.2.2. Quản lý quá trình dạy học
Theo tác giả Phan Thị Hồng Vinh: “Quản lý các hoạt động dạy học và giáo
dục là những hoạt động có mục đích, có kế hoạch của hiệu trưởng đến tập thể giáo
viên, học sinh và những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy
động họ tham gia, cộng tác, phối hợp trong các hoạt động của nhà trường giúp quá
trình dạy học và giáo dục vận động tối ưu tới các mục tiêu dự kiến” [18].
Nội dung quản lý hoạt động dạy học:
- Lập kế hoạch: Xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch hoạt động của các tổ,
nhóm chuyên môn, các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh.
- Tổ chức: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, huy động các nguồn nhân lực, vật lực,
tài lực để thực hiện kế hoạch.
- Chỉ đạo: Việc thực hiện mục tiêu, chương trình dạy học, hoạt động bồi
dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên, xây dựng nề nếp dạy học, đổi mới phương

pháp dạy học.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học và việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch
dạy học.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), trong công trình nghiên cứu
về vai trò lãnh đạo nhà trường, đã kiến nghị về ba giai đoạn khác nhau của quá trình
đổi mới, canh tân giáo dục trong nhà trường. Ba giai đoạn này được thể hiện như
sau:
a) Dẫn nhập canh tân: Lãnh đạo phải tranh thủ sự ủng hộ bên trong và bên
ngoài nhà trường, phải kiểm tra lại các nguồn lực của đổi mới. Trong việc đổi mới
chương trình, sách giáo khoa chẳng hạn, lãnh đạo phải tạo sự nhất trí về nhận thức
trong tập thể sư phạm và các lực lượng xã hội ngoài nhà trường về sự cần thiết, mục
đích yêu cầu của đổi mới.
b) Phát động canh tân: Phát động canh tân theo kế hoạch đã vạch ra với các
phương tiện có sẵn. Chú ý đến tiềm lực của đội ngũ giáo viên, tiềm lực của các tổ
chức, cá nhân bên ngoài nhà trường. Phát động ý thức trách nhiệm, cộng đồng trách
8


nhiệm của tác tổ chức, các cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhà
trường, góp phần thúc đẩy đổi mới giáo dục có hiệu quả.
c) Thể chế canh tân: Là giai đoạn cuối cùng của canh tân. Những qui định
của nhà trường tỏ ra có hiệu lực trong thực tế phải làm cho nó trở thành luật lệ
không thể không thực hiện. Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở phổ
thông có nhiều việc đặt ra đối với nhà trường và từng giáo viên. Đương nhiên sẽ có
rất nhiều việc mới, nhiều quyết định mới của lãnh đạo. Thực tế sẽ kiểm nghiệm tính
hiệu quả của chúng. Đó là cơ sở để chế biến chúng trở thành luật lệ của nhà trường.
Trong thực tế, 3 giai đoạn trên đây có lúc phải tiến hành xen kẽ, cũng có lúc
phải tiến hành đồng thời. Một biện pháp mới mà tốt, ta muốn nó sống lâu song khi
nó trở thành lề thói cũ kỹ thì sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển. Theo lý
thuyết 3 giai đoạn của việc canh tân giáo dục như đã trình bày ở trên, những biện

pháp quản lý tương ứng với từng giai đoạn như sau:
* Giai đoạn dẫn nhập:
- Điều trước tiên phải tạo sự thống nhất về nhận thức trong tập thể sư phạm
về sự cần thiết và tầm quan trọng của đổi mới giáo dục phổ thông. Nhưng Jean
Ruddock (1998) đã từng nói: “Thầy giáo phải hiểu nguyên nhân dẫn đến những
quan điểm mới về môn học và phương pháp giảng dạy mới (ví dụ dạy học theo
quan điểm tích hợp, dạy học định hướng dạy môn tự chọn, dạy các môn phân học
trong nhà trường phân ban…), giáo viên phải có sự cảm nhận về quyền sở hữu. Sự
thay đổi vì quyền lợi của học sinh. Đồng thời người thày giáo phải thấy rằng đổi
mới là phù hợp và có thể áp dụng được trong điều kiện cụ thể của họ. Nghĩa là phải
thấy được triển vọng của đổi mới.
- Điều quan trọng tiếp theo là người lãnh đạo phải đánh giá được khả năng
điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ giáo viên và từng giáo viên trong giảng dạy giáo dục chuẩn bị cho đổi mới.
- Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải đặt nhiệm vụ tuyên truyền trong nhân
dân, trong cộng đồng và cha mẹ học sinh về sự cần thiết, ý nghĩa, mục đích, nội
dung của đổi mới. Điều đặc biệt quan trọng là định hướng cho các lực lượng xã hội,
cho cha mẹ học sinh trách nhiệm cụ thể tham gia đổi mới cùng với nhà trường.
* Giai đoạn phát động:

9


- Để cho việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa thành công, nhân tố có
tính quyết định là chất lượng bồi dưỡng giáo viên. Phương thức chủ yếu là bồi
dưỡng tại chỗ, tại trường, tập trung vào việc bồi dưỡng thực hiện chương trình và
sách giáo khoa mới, bồi dưỡng ngay trong hoạt động dạy và học của giáo viên và
học sinh.
- Việc bồi dưỡng giáo viên chuẩn bị cho đổi mới phải tuân thủ một số
nguyên tắc, đó là:
+ Nguyên tắc phù hợp với điều kiện và khả năng chủ quan của giáo viên.

+ Nguyên tắc dễ áp dụng đối với mọi giáo viên.
+ Nguyên tắc cụ thể hóa: Cho từng loại đối tượng giáo viên, cho từng loại
nội dung.
* Giai đoạn thể chế hóa:
Trước khi thể chế hóa một vấn đề nào đó (Ví dụ thể chế hóa việc sinh hoạt tổ
chuyên môn) cần tổ chức rút kinh nghiệm để thấy mặt được, mặt chưa được của tập
thể sự phạm đều nhất trí về nội dung của những qui định có tính chất thể chế. Như
vậy việc thực hiện của giáo viên sẽ mang tính chất tự giác và có hiệu quả
1.1.3. Công nghệ thông tin (CNTT) - Quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học
1.1.3.1. Khái niệm công nghệ, CNTT
a) Khái niệm công nghệ:
Theo quan điểm truyền thống: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, qui
trình, kỹ năng, kỹ thuật, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành
sản phẩm”.
Theo quan điểm hiện đại: Công nghệ là tổ hợp của bốn thành phần có tác
động qua lại với nhau, cùng thực hiện bất kỳ quá trình sản xuất và dịch vụ nào:
- Thành phần trang thiết bị, bao gồm: các thiết bị, máy móc, nhà xưởng…
- Thành phần kỹ năng và tay nghề: Liên quan đến các bí quyết, các quá trình,
các phương pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế.
- Thành phần thông tin: Liên quan đến các bí quyết, các quá trình, các
phương pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế.
- Thành phần tổ chức: Thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp và tiếp thị.

10


b) Khái niệm CNTT
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: CNTT (tiếng Anh là: Information
Technology gọi tắt là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin,

là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ,
xử lý, truyền và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết số
49/CP của Chính phủ ký ngày 04/8/1993 về “Phát triển CNTT ở nước ta trong
những năm 90”: CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và
công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ
chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội [7].
Theo luật CNTT số 67/2006/QH11 ngày 29/6/2006 điều 4 giải thích: CNTT
là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để
sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số [13].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu “CNTT là một hệ thống các phương pháp
khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng
truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai
thác, sử dụng có hiệu quả các thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội,
văn hóa… của con người”.
CNTT được phát triển trên nền tảng của các công nghệ Tin học - Điện tử Viễn thông và Tự động hóa. CNTT nghiên cứu về các khả năng và các giải pháp,
tức là nghiêng về công nghệ theo nghĩa truyền thống. Khi nói “CNTT” là hàm ý
muốn nói tới nghĩa kỹ thuật công nghệ. Còn Tin học thì nghiên cứu về cấu trúc và
tính chất, vì thế tin học gần gũi với cách hiểu là môn khoa học, hay môn học. CNTT
là lĩnh vực khoa học rộng lớn nhưng có nhiều chuyên ngành hẹp. Như trong toán
học có các phân môn số học, đại số, hình học phẳng, hình học không gian… Trong
vật lý có các phân môn nhiệt học, cơ học, điện học, quang học và lượng tử… thì tin
học cũng có các phân môn là khoa học máy tính, kỹ thuật máy tính, công nghệ phần
mềm, mạng máy tính…
Có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của CNTT và đặc biệt là của mạng
Internet hiện nay vừa tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi đồng thời cũng là một
đòi hỏi cấp thiết đối với giáo dục và đào tạo nói chung, phương pháp dạy học trong
11



mỗi nhà trường, của mỗi thày cô giáo nói riêng phải đổi mới mạnh mẽ theo hướng
tích hợp và sử dụng triệt để những thế mạnh của CNTT vào dạy học.
1.1.3.2. Quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học
Ứng dụng CNTT trong quản lý dạy học là việc sử dụng CNTT trong quản lý
dạy học một cách có mục đích, có kế hoạch của người quản lý tác động đến tập thể
giáo viên, học sinh và những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm
huy động họ tham gia, cộng tác, phối hợp trong các hoạt động của nhà trường giúp
quá trình dạy học, giáo dục vận động tối ưu các mục tiêu đề ra.
Việc ứng dụng CNTT vào quản lý dạy học là công việc, là nhiệm vụ của các
nhà quản lý giáo dục nói chung và của mỗi nhà quản lý, các cơ sở giáo dục đào tạo
nói riêng. Quản lý là lãnh đạo, chỉ đạo, điều khiển một tổ chức bằng cách vạch ra
mục tiêu cho tổ chức đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ
chức sao cho tổ chức ấy đạt được mục tiêu đề ra. Chức năng và nhiệm vụ quản lý
phải làm chính là thuộc tính của nó, quản lý gồm 3 chức năng chính sau đây:
- Lập kế hoạch: Là vạch ra mục tiêu cho bộ máy, sắp xếp các bước đi, các
công việc phải làm để tiến tới mục tiêu.
- Tổ chức, điều hành: Là thiết kế bộ máy, sắp xếp công việc, sắp xếp con
người, ai làm gì và làm như thế nào, điều khiển tác động vào con người và các mối
quan hệ để con người tích cực hoạt động.
- Kiểm tra: Là giám sát hoạt động của cấp dưới để điều chỉnh kịp thời các
công việc quản lý.
Khi nói đến ứng dụng CNTT vào nhà trường nghĩa là:
- Tăng cường đầu tư cho việc giảng dạy môn tin học cho cán bộ, giáo viên và
học sinh.
- Sử dụng CNTT làm công cụ hỗ trợ việc dạy và học các môn học.
- Ứng dụng CNTT trong công tác quản lý của nhà trường về các mặt: quản lý
nhân sự (cả giáo viên và học sinh), quản lý tài chính, quản lý thi…
1.2. Sự phát triển CNTT và ứng dụng CNTT vào dạy học
1.2.1. Các giai đoạn phát triển CNTT

Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển CNTT, trong đó một số nhà
khoa học như GS. Đặng Hữu, GS.TSKH Phan Đình Diệu, GS.TS Nguyễn Quang A,

12


PGS.TS Chu Hảo đều thống nhất với tác giả Đặng Danh Ánh là đến nay CNTT đã
phát triển qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Máy tính điện tử (MTĐT) ra đời vào năm 1943 trên cơ sở kết
hợp các thành tựu của nhiều ngành khoa học và kỹ thuật khác nhau, đặc biệt là của
Toán học và kỹ thuật điện tử - bán dẫn. Đó là giai đoạn khởi đầu của CNTT. Vì thế
trong những năm 50 - 60 của thế kỷ 20, khoa học máy tính thường có hai nội dung
tách biệt: Toán học tính toán và kỹ thuật máy tính. Sự phát triển trong những năm
60 và 70 đã dẫn đến quan điểm kết hợp một cách liên tục và nhất quán kiến thức về
phần cứng và phần mềm, đồng thời khái niệm “tính toán” được mở rộng theo nghĩa
“xử lý thông tin” để hình thành một ngành khoa học thống nhất.
- Giai đoạn 2 - Giai đoạn tin học hóa: Những năm 70 và 80 của thế kỷ 20 bắt
đầu phát triển MTĐT - Giai đoạn tin học hóa các ngành kinh tế quốc dân và xã hội
được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng. Nhờ có tin học hóa mà công việc quản lý,
điều hành và tổ chức các quá trình sản xuất hết sức tinh vi, phức tạp đã được tự
động hóa với độ chính xác cao. Cũng như vậy, công tác tổ chức, quản lý, điều hành
toàn bộ xã hội và đất nước chỉ đạt được hiệu quả cao khi toàn bộ các khâu ấy đã
được tin học hóa. Không có MTĐT thì trong công nghệ sinh học không giải mã
được bộ gien người. Ứng dụng MTĐT vào y học để đo nhiệt độ, áp suất của máy
khi lấy mẫu phân tích, để nghiên cứu hoạt động của dạ dày, của bộ não, của tim…
Tất cả mọi phép đô đạc đó được tiến hành rất nhanh chóng và rất quan trọng đối với
các ca phẫu thuật. Ứng dụng MTĐT vào nông nghiệp, đưa nông nghiệp đến gần
công nghiệp, ít phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu, làm cho năng suất và chất lượng
tăng vọt, giá thành hạ và việc thường xuyên của người nông dân ở các nước phát
triển chỉ là “nhấn chuột” của máy tính. MTĐT số có khả năng giải quyết một khối

lượng khổng lồ các phép tính toán theo chương trình định sẵn nhanh và chính xác
hơn con người rất nhiều. Những bài toán trước kia cần hàng trăm người bỏ sức ra
tính toán hàng tháng trời mới xong thì nay chỉ cần một số giây. MTĐT được ứng
dụng vào ngành Khí tượng - Thủy văn để tiến hành những phép tính cần thiết cho
dự báo thời tiết. MTĐT ứng dụng vào lĩnh vực dịch vụ - những ngành huyết mạch
của kinh tế thị trường như: ngân hàng, tài chính, thương mại, các hoạt động quản lý
kinh doanh… làm cho các ngành này phát triển mạnh mẽ không chỉ trong quốc gia
mà còn cả quốc tế. Ứng dụng MTĐT vào các cơ quan hành chính sự nghiệp của các
13


bộ, ngành, các tổ chức xã hội không chỉ giảm được các khoản chi cho công tác quản
lý mà còn cho phép nâng cao trình độ và hiệu quả của công tác hành chính, loại trừ
thủ tục giấy tờ rườm rà chậm trễ. Hiện nay tại nhiều quốc gia, người ta đã xây dựng
những hệ thống thông tin điện tử (HTTTĐT) thống nhất trong toàn quốc được trang
bị những MTĐT số tối tân để điều hành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng, các cơ quan Bộ, Ngành trung ương và địa phương, các tổ chức nghiên
cứu khoa học… tức là toàn bộ nền kinh tế và xã hội.
- Giai đoạn 3 - Giai đoạn Internet hóa: Từ thập niên 90 của thế kỷ 20 đến nay
công nghệ MTĐT và Công nghệ viễn thông phát triển và tiến bộ nhanh chóng, tạo
nên một kết cấu hạ tầng mới gọi là kết cấu hạ tầng thông tin trong từng quốc gia
cũng như trên phạm vi toàn cầu với các mạng thông tin được kết nối bởi các “Siêu
xa lộ thông tin” liên kết toàn cầu lại với nhau thành một mạng giao thông khổng lồ
ngày đêm vận chuyển các loại thông tin - tri thức. Những thông tin đó không của
riêng ai, nó mang tính toàn cầu và đòi hỏi một thị trường toàn cầu hóa. Siêu sa lộ
thông tin là gì? Đó là Internet, thương mại điện tử, chính phủ điện tử, rồi truy cập
các trang Web, thực hiện thư điện tử, fax… thực hiện điện tử hai chiều, ở đâu cũng
nhận được, gửi đi được bất cứ nơi nào và đến bất cư đâu mà ta mong muốn [1,198207].
Chúng ta hãy tìm hiểu sơ lược về Internet, thương mại điện tử (TMĐT) và
Chính phủ điện tử.

Internet là gì và có tự bao giờ? Internet là một sa lộ thông tin lớn chạy khắp
toàn cầu, trên sa lộ đó có nhiều “ga” đó là ký hiệu của các trang web. Internet có tự
bao giờ? Các nhà sử học trả lời đó là sau chiến tranh thế giới thứ II, khi mạng và
CNTT ra đời. Các nhà tài chính cho rằng đó là vào năm 1998 bởi đó là mốc đánh
dấu những công ty hoạt động trên Internet bắt đầu thu về những lợi nhuận đầu tiên.
Còn các nhà kinh tế thì đề xuất vào những năm 90 của thế kỷ 20 bởi vì thời kỳ này
các công ty lớn nhất đều có mối liên hệ mật thiết với công nghệ mới. Mặc dầu chưa
thu được lợi nhuận, nhưng giá trị của chúng trên thị trường chứng khoán bắt đầu
tăng vọt khủng khiếp. Người ta ví Internet có vai trò quan trọng như than và máy
hơi nước trong cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất (cuối thế kỷ 18), như điện
và ô tô trong cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ hai (cuối thế kỷ 19). Internet
thúc đẩy sự hợp tác, liên kết khu vực và liên kết toàn cầu, giúp các doanh nghiệp
14


nhỏ bình đẳng với doanh nghiệp lớn. Ngày nay, Internet đã thực sự trở nên thông
dụng, mỗi ngày hàng triệu người gửi đi những thông tin điện tử, góp phần mở rộng
các trang Web, tham gia vào các diễn đàn và đưa lên những thông tin của mình. Do
đó hoàn toàn không phải mua bán thông tin như thể đó là một loại hàng hóa.
Các quốc gia phát triển vẫn dẫn đầu về mật độ cũng như lượng thuê bao
Internet: Hoa Kỳ quê hương của Internet có 50% số dân sử dụng mạng, cụ thể tính
tới tháng 9/2001 có 143 triệu người (tương đương 54% dân số) kết nối mạng
Internet), 66% số dân sử dụng máy tính. Các nước EU tăng số người truy cập
Internet lên 50% số dân so với 20% hiện nay. Thụy Điển 40% hộ gia đình truy cập
mạng. Nước Anh phấn đấu đến năm 2005 mọi người dân đều có cơ hội sử dụng
Internet. Nhật Bản hiện có 31 triệu người sử dụng Internet và đến 2004 sẽ là 100
triệu. Hàn Quốc đến cuối năm 2001, số người sử dụng Internet là 20 triệu, các mạng
Internet không dây được mở ra, cung cấp cho các thuê bao khả năng lựa chọn kết
nối với các trung tâm không dây, với sự cải thiện đáng kể về truy cập.
Bắt đầu từ 1/7/2003 ở Việt Nam đã có điện thoại Internet (Internet phone).

Chúng ta chỉ cần có 01 máy tính là có thể kết nối máy điện thoại nói chuyện với
người thân ở nước ngoài, nếu ta lắp thêm Webcam nữa là có thể nhìn thấy nhau.
Việt Nam, về mặt công nghệ được xếp vào loại tiên tiến trên thế giới, lúc đầu
mức độ phát triển thị trường Internet còn nhỏ, dịch vụ nghèo nàn, tính đến năm
2002 cả nước mới có 175.000 thuê bao Internet. Song chỉ sau 8 năm, tốc độ phát
triển mạng Internet rất nhanh chóng, CNTT (tính đến cuối tháng 7/2010) đạt được
kết quả vô cùng to lớn: cả nước có 157,8 triệu thuê bao điện thoại trong đó có 140,4
triệu điện thoại di động, còn về Internet, đã có 3,4 triệu thuê bao với 25,1 triệu
người sử dụng (Báo Lao động ngày 1/8/2010), đến năm 2014 khoảng 31 triệu người
sử dụng Internet.
Thương mại điện tử (TMĐT) là gì? TMĐT là phương thức quảng cáo, giao
dịch, buôn bán trên mạng Internet. Theo dự báo đến năm 2004, kim ngạch TMĐT
trên toàn thế giới là 6,4 nghìn tỉ USD, chiếm 30% giao dịch thương mại toàn cầu.
Sau đây là những mốc quan trọng của TMĐT:
- Năm 1996 Liên hiệp quốc chính thức khuyến nghị các Chính phủ, các tổ
chức quốc tế phổ biến rộng rãi và áp dụng định luật mẫu về TMĐT.

15


- Năm 1997 EU ra tuyên bố cấp bộ trưởng ủng hộ TMĐT. Mỹ đã ấn định các
nguyên tắc cơ bản về TMĐT tại nước mình và chính thức dùng chữ ký điện tử trong
giao dịch. Nhật Bản đã tuyên bố sẽ trở thành một quốc gia điện tử, Hạ nghị viện
Nhật đã thông qua dự thảo luật CNTT nhằm tạo điều kiện cho Internet trở nên phổ
cập đối với 120 triệu dân Nhật.
- Giữa tháng 11/2001 Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 8 của diễn đàn Hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) họp tại Brunei đã thống nhất: Tới năm
2005, APEC sẽ phấn đấu tăng gấp đôi hay gấp ba số người có khả năng truy cập
Internet so với 2001. Các nước APEC sẽ thực hiện MTĐT vào năm 2005 đối với
các nước phát triển, năm 2010 đối với các nước đang phát triển.

Ngày 24/11/2001 tại Singapore, Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức
lần thứ 4 đã ký hiệp định khung về TMĐT trong đó khẳng định: Các nước phát triển
mạnh hơn sẽ giúp các nước còn lại nhằm biến ASEAN thành một thị trường không
biên giới với 500 triệu dân. Lộ trình như sau: Thực hiện TMĐT vào năm 2003 đối
với các nước mạnh, vào năm 2008 đối với các nước còn lại: Việt Nam, Lào,
Campuchia, Miama.
Chính phủ điện tử là gì? Là TTTĐT của Chính phủ nhằm thỏa mãn tối đa
nhu cầu tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ công của bất cứ người dân nào, bất kỳ ở
đâu, bất kể lúc nào… HTTTĐT của Chính phủ bao gồm 2 mảng chính: Thứ nhất là
mảng nội bộ đảm bảo công việc điều hành của Chính phủ đối với các cơ quan Công
quyền từ trung ương đến địa phương. Thứ hai là đảm bảo các mảng dịch vụ công
gồm: Đăng ký hộ khẩu, đăng ký kinh doanh, mở mang giáo dục, chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, thông tin các chủ trương, chính sách, luật lệ mới liên quan đến công
dân…
Ngày nay, CNTT biến đổi không ngừng, mỗi ngày một khác. Hiện có nhiều
câu hỏi đang đặt ra: Các bộ óc của các nhà khoa học lớn đang chuẩn bị cho một
bước ngoặt Công nghệ mới sau MTĐT là gì? Phải chăng là đa phương tiện không
dây. Từ điện thoại di động 3G, 4G phát triển lên truyền thông đa phương tiện gọn
nhẹ, nhanh chóng. Nhiều công nghệ mới đang được nghiên cứu và đầy hứa hẹn như
máy tính lượng tử, máy tính sinh học, truyền thông với tốc độ siêu ánh sáng; các
kiểu kiến trúc tính toán mới như tính toán mạng, tính toán song song… Tất cả

16


những điều đó chắc chắn đòi hỏi nhiều phát triển mới của CNTT - Công nghệ tin
học trong tương lai [1,198-207].
1.2.2. Những lĩnh vực CNTT được ứng dụng vào giáo dục - đào tạo (GD - ĐT)
Ứng dụng CNTT vào GD - ĐT được thể hiện ở hai lĩnh vực là: Quản lý và
dạy học.

1.2.2.1. Ứng dụng CNTT vào quản lý
Hiện nay, CNTT đang hiện diện và đóng vai trò quan trọng không thể thiếu
trong quá trình quản lý ở tất cả các lĩnh vực như quản lý nhà nước, quản lý doanh
nghiệp và đặc biệt trong quản lý GD - ĐT.
Ứng dụng CNTT trong quản lý GD - ĐT là việc sử dụng CNTT trong quản
lý nhà nước về giáo dục mà còn trong quản lý dạy học một cách có mục đích, có kế
hoạch của người quản lý tác động đến tập thể giáo viên, học sinh và những lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ tham gia, cộng tác,
phối hợp trong các hoạt động của nhà trường giúp quá trình dạy học, giáo dục vận
động tối ưu các mục tiêu đề ra.
Việc ứng dụng CNTT vào quản lý dạy học là công việc, là nhiệm vụ của các
nhà quản lý giáo dục nói chung và của mỗi nhà quản lý các cơ sở giáo dục đào tạo
nói riêng. Quản lý là lãnh đạo, chỉ đạo, điều khiển một tổ chức bằng cách vạch ra
mục tiêu cho tổ chức đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ
chức sao cho tổ chức ấy đạt được mục tiêu đề ra. Chức năng và nhiệm vụ quản lý
phải làm chính là thuộc tính của nó, quản lý gồm 3 chức năng chính sau đây:
- Lập kế hoạch: Là vạch ra mục tiêu cho bộ máy, sắp xếp các bước đi, các
công việc phải làm để tiến tới mục tiêu.
- Tổ chức, điều hành: Là thiết kế bộ máy, sắp xếp công việc, sắp xếp con
người, ai làm gì và làm như thế nào, điều khiển tác động vào con người và các mối
quan hệ để con người tích cực hoạt động.
- Kiểm tra: Là giám sát hoạt động của cấp dưới để điều chỉnh kịp thời các
công việc quản lý.
Khi nói đến ứng dụng CNTT vào nhà trường nghĩa là:
- Tăng cường đầu tư cho việc giảng dạy môn tin học cho cán bộ, giáo viên và
học sinh.
- Sử dụng CNTT làm công cụ hỗ trợ việc dạy và học các môn học.
17



- Ứng dụng CNTT trong công tác quản lý của nhà trường về các mặt: quản lý
nhân sự (cả giáo viên và học sinh), quản lý tài chính, quản lý thi…
1.2.2.2. Các hình thức ứng dụng CNTT vào dạy học
Theo luật CNTT số 67/2006/QH11, ngày 29/6/2006: “Ứng dụng CNTT là
việc sử dụng CNTT vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả của các hoạt động này” [13].
Ứng dụng CNTT trong Giáo dục và đào tạo là một yêu cầu đặt ra trong
những chủ trương chung của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Ứng dụng CNTT trong giáo
dục còn là một điều tất yếu của thời đại, như ông Peter Van Gils, chuyên gia dự án
CNTT trong giáo dục và quản lý nhà trường (ICTEM) khẳng định: Chúng ta đang
sống trong một xã hội mà ta gọi là một xã hội tri thức thay một xã hội thông tin.
Điều này có nghĩa rằng những sản phẩm đầu ra mang tính công nghiệp cho xã hội
của chúng ta đã mất đi tầm quan trọng của nó. Thay vào đó là những “dịch vụ” và
“những sản phẩm tri thức”. Trong một xã hội như vậy, thong tin đã trở thành một
loại hàng hóa cực kỳ quan trọng. Máy vi tính và những vấn đề liên quan đã đóng
một vai trò chủ yếu trong việc lưu trữ và truyền tải thông tin và tri thức. Thực tế này
yêu cầu các nhà trường phải đưa các kỹ năng công nghệ vào trong chương trình
giảng day của mình. Một trường học mà không có CNTT là một nhà trường không
quan tâm gì tới các sự kiện đang xảy ra trong xã hội.
Hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học không chỉ cần có đội ngũ giáo viên
có trình độ về tin học mà còn cần có điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và
những phương tiện kỹ thuật liên quan đến công nghệ thông tin để thực hiện mỗi
buổi học thông qua 5 hình thức sau đây:
- Dạy học bằng giáo án điện tử hay bài giảng điện tử. Đây là hình thức dạy
học được trình bày sẵn trên máy tính và trình chiếu theo sự định trước. Sử dụng
hình thức này, giáo viên cần có máy tính, máy chiếu projector, bản mềm của giáo án
hay bài giảng điện tử.
- Khai thác thông tin, tổ chức học tập tìm hiểu kiến thức qua mạng Internet

phục vụ dạy học. Đây là hình thức hướng dẫn người học tìm hiểu kiến thức thông
qua mạng Internet có sự hướng dẫn, định hướng của giáo viên. Để phục vụ dạy học
18


theo hình thức này, giáo viên và học sinh cần sử dụng máy tính được nối mạng
Internet.
- Dạy học tại phòng học máy tính, qua các phần mềm. Đây là hình thức dạy
học bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại, các phần mềm trợ giúp giảng dạy. Vì vậy,
cần có phòng học máy tính cài phần mềm trợ giúp giảng dạy như Net off School,
các phần mềm chuyên ngành, các máy tính trong phòng được nối mạng Lan để kết
nối với nhau, thuận tiện cho quá trìn hướng dẫn của giáo viên.
- Kiểm tra, đánh giá học sinh bằng CNTT/máy tính. Đây là hình thức kiểm
tra đánh giá mang tính khách quan có độ chính xác cao. Để thực hiện hình thức này,
cần có phòng học máy tính được kết nối với máy chủ, được cài phần mềm thi/kiểm
tra trực tuyến.
1.3. Nội dung quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại
các trƣờng Cao đẳng chuyên nghiệp (CĐCN)
Quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học tại các trường
CĐCN là quản lý theo chức năng.
1.3.1. Nhiệm vụ, chức năng của các trường CĐCN (xem Phụ lục 1)
1.3.2. Lập kế hoạch, lập kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có
thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất
để thực hiện một mục tiêu cuối cùng được đề ra. Lập kế hoạch giúp tư duy quản lý
sẽ có hệ thống hơn để tiên liệu được các tình huống sắp xảy ra. Người quản lý sẽ
phối hợp được mọi nguồn lực của cá nhân, tổ chức để tạo nên một sức mạnh tổng
hợp, có thể giữ vững “mũi tiến công” vào mục tiêu cuối cùng của mình muốn
hướng đến. Bên cạnh đó, sẽ dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện công việc
được lập kế hoạch. Để lập kế hoạch cho công việc đạt hiệu quả, người lập kế hoạch

cần:
- Xác định mục tiêu, yêu cầu công việc
- Xác định nội dung công việc
- Xác định địa điểm, thời gian, đối tượng thực hiện
- Xác định cách thức thực hiện
- Xác định phương pháp kiểm soát và kiểm tra
- Xác định nguồn lực thực hiện
19


Trong các nhà trường, khi các nhà quản lý lập kế hoạch ứng dụng CNTT vào
dạy học cũng cần xác định rõ ràng các nội dung đã nêu trên. Tuy nhiên cũng cần
xác định thực trạng cơ sở vật chất, trình độ tin học của đội ngũ cán bộ, giáo viên,
công nhân viên, thực trạng việc ứng dụng CNTT trong nhà trường để từ đó xác định
mục tiêu, các bước đi cụ thể trong các việc: Huy động nguồn lực đầu tư cơ sở vật
chất cho ứng dụng CNTT; đào tạo bồi dưỡng đội ngũ; tổ chức các hoạt động ứng
dụng CNTT cho phù hợp.
1.3.3. Tổ chức, chỉ đạo, thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học

Trong quá trình tổ chức, chỉ đạo, thực hiện hoạt động ứng dụng CNTT vào
dạy học cần giám sát chặt chẽ kế hoạch đã lập ra. Quản lý việc thực hiện theo lộ
trình (tiến độ) hoặc theo nội dung công việc để đảm bảo hoạt động được đúng kế
hoạch.
Phân công cán bộ, chuyên viên chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch
đã đề ra cũng như việc phối kết hợp trong công tác chỉ đạo các hoạt động ứng dụng
CNTT vào dạy học. Tổ chức đội ngũ tham gia vào việc đào tạo, bồi dưỡng cho giáo
viên và cán bộ quản lý về CNTT và ứng dụng CNTT trong dạy học. Tổ chức các
hoạt động thi đua trong ứng dụng CNTT vào dạy học.
1.3.4. Kiểm tra, đánh giá hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và dạy học
Hoạt động kiểm tra, đánh giá là dựa vào kế hoạch và thực tế thực hiện, đối

chiếu với kết quả tương ứng, người quản lý có sự đôn đốc, nhắc nhở, biểu dương
phù hợp, kịp thời tránh xảy ra những thiếu sót, thực hiện không đúng kế hoạch,
không đảm bảo được mục tiêu đề ra, cũng như kích thích tinh thần làm việc của đội
ngũ thực hiện.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các nội dung đã thực hiện để
có những quyết định và những điều chỉnh kịp thời và phù hợp.
1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông
tin của các trƣờng Cao đẳng chuyên nghiệp
1.4.1. Yếu tố khách quan
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước nhất là chỉ thị 58CT/UW của Bộ Chính trị ngày 07 tháng 10 năm 2001 về việc đẩy mạnh ứng dụng
CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ rõ trọng tâm của
ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT
20


trong công tác giáo dục và đào tạo, đây là nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ đã
giao cho ngành giáo dục giai đoạn 2001 - 2005 thông qua quyết định số
81/2001/QĐ-TTg.
Hiện nay, các trường Cao đẳng chuyên nghiệp đều trang bị phòng học máy
tính từ cơ bản đến chuyên ngành, phòng đa năng, nối mạng LAN, mạng Internet và
Tin học được giảng dạy chính thức, một số trường còn trang bị thêm thiết bị ghi âm,
chụp hình, quay phim (Sound Recorder, Camera, Camcoder), máy quét hình
(Scanner) và một số thiết bị khác, tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho giáo viên sử dụng
vào quá trình dạy học của mình. CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới
các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp
cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn
đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy
học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi
trường công nghệ thông tin và truyền thông. Chẳng hạn, cá nhân làm việc tự lực với
máy tính, với Internet, dạy học theo hình thức lớp học phân tán qua mạng, dạy học

qua cầu truyền hình. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao
cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển
cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan
tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay
chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc
chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở
nên dễ dàng hơn.
Mặt khác, công nghệ phần mềm phát triển mạnh, trong đó các phần mềm
giáo dục cũng đạt được những thành tự đáng kể như: bộ Office, Cabri, Crocodile,
Sketch

Pad/Geomaser

SketchPad,

Maple/Mathenatica,

ChemWin,

LessonEditor/VioLet… hệ thống WWW, Elearning và các phần mềm đóng gói, tiện
tích khác. Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi người
đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm
dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung
bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường
học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo
viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử
21


mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm

được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần
“bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với
những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học
sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi
gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả
năng mới mẻ và ưu việt này của công nghệ thông tin và truyền thông đã nhanh
chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan
trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Do đó, mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng
cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo
dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thày đọc, trò chép” như
kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm
kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.
Do đó, ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin
so với phương pháp giảng dạy truyền thống là:
- Môi trường đa phương tiện kết hợp với những hình ảnh vieo, camera… với
âm thanh, văn bản, biểu đồ… được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn
nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.
- Kỹ thuật đồ họa nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội trong con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra
trong điều kiện nhà trường.
- Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện những
công việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những lĩnh vực
khác nhau.
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với
người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet… có thể được khai thác để
tạo nên những điều kiện cực kỳ thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học sinh
học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực
hiện động lập trong giao lưu.
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh

chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có
22


lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những qui luật mới. Đây là
một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình đổi mới
phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi trường CNTT và truyền thông
chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này
làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.
1.4.2. Yếu tố chủ quan
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa CNTT và truyền thông
ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả
quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng
mắc và những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực
hiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng
trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên
hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Đó là chưa kể đến trang bị cơ sở vật chất còn
thiếu thốn ở các nhà trường thuộc vùng khó khăn do không có kinh phí hỗ trợ.

23


KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Ở chương I sau khi khái quát hóa tình hình nghiên cứu, ứng dụng CNTT vào
dạy học, tác giả đã nêu lên các chủ trương, quan điểm của Đảng, Chính phủ, Bộ
Giáo dục và Đào tạo về CNTT, đồng thời nêu lên từng cặp đôi khái niệm về quản lý
- quản lý nhà trường; dạy học - quản lý quá trình dạy học; CNTT - quản lý hoạt
động ứng dụng CNTT vào GD - ĐT.
Phần trọng tâm của chương này đã nêu lên sự phát triển CNTT và ứng dụng

CNTT vào GD - ĐT phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng mà ngành giáo dục
phải triển khai thực hiện với những bước đi thích hợp.
Ứng dụng CNTT vào dạy học ở các trường học nói chung và trường Cao
đẳng chuyên nghiệp nói riêng chủ yếu thông qua 5 hình thức:
- Dạy học bằng giáo án điện tử hay bài giảng điện tử
- Khai thác thông tin qua mạng Internet phục vụ dạy học
- Tổ chức học tập, tìm hiểu kiến thức qua mạng Internet
- Dạy học tại phòng học máy tính, qua các phần mềm
- Kiểm tra, đánh giá học sinh bằng CNTT/máy tính
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả ứng dụng CNTT, các trường cần làm tốt
công tác quản lý, đó là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện
đó.
Sự phát triển CNTT hiện nay một mặt tạo ra những cơ hội và hình thức học
tập thuận lợi cho người học, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đổi mới và nâng
cao chất lượng dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học có thể được thực hiện
với nhiều hình thức và mức độ rất khác nhau: CNTT như một công cụ hỗ trợ dạy
học, học tập bằng phương tiện CNTT, học trong môi trường CNTT...
Để phát huy tối đa những lợi thế mà CNTT đem lại cho việc dạy và học
trong thời đại của thông tin và hội nhập hiện nay thì các biện pháp quản lý việc ứng
dụng CNTT vào dạy học của các chủ thể quản lý là yếu tố quyết định.

24


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY HỌC TẠI TRƢỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHIỆP DỆT MAY THỜI TRANG HÀ NỘI
2.1. Khái quát nhiệm vụ, chức năng và quá trình phát triển của trƣờng
Trường Cao đẳng Công nghiệp - Dệt May Thời trang Hà Nội (HICT) được
nâng cấp từ Trường Trung học Kỹ thuật May và Thời trang I vào năm 2005. Trường

được thành lập năm 1967 với tên gọi ban đầu là Trường Nghiệp vụ Kỹ thuật May
mặc thuộc Bộ Nội thương. Năm 1969, trường được chuyển về trực thuộc Bộ Công
nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công thương). Năm 1996, trường được chuyển về trực thuộc
Tập đoàn Dệt May Việt Nam - Bộ Công thương.
Trước những yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, trường Cao đẳng
Công nghiệp Dệt May Thời trang Hà Nội đã đặt ra cho mình tầm nhìn, sứ mạng và
mục tiêu làm kim chỉ nam cho quá trình đào tạo. Đó là:
Tầm nhìn: Phấn đấu trở thành trường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, đa cấp, đa ngành, phát triển đồng hành cùng các doanh nghiệp, thông qua các
chương trình đào tạo nguồn nhân lực theo hướng nghề nghiệp ứng dụng, đạt chuẩn
quốc tế.
Sứ mạng: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công
nghiệp nói chung và ngành dệt may nói riêng theo hướng nghề nghiệp ứng dụng, có
khả năng làm việc độc lập, sáng tạo tại các doanh nghiệp trong nước và quốc tế.
Giá trị cốt lõi: Chất lượng - Năng động - Đáp ứng nhu cầu xã hội.
Mục tiêu t ng quát: Đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân
lành nghề cho nền kinh tế, có đạo đức, có sức khoẻ, có kiến thức chuyên môn vững
vàng, có kỹ năng thực hành nghề nghiệp chuyên sâu, có tác phong công nghiệp và
kỷ luật lao động, có khả năng thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế.
Trải qua hơn 48 năm xây dựng và trưởng thành, với nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau, nhiều tên gọi khác nhau, trường đã không ngừng phát triển và lớn
mạnh, đặc biệt trong những năm đổi mới đất nước và 5 năm trở lại đây. Trường đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương nâng cấp thành trường Đại học
Công nghiệp Dệt May Hà Nội vào tháng 02/2012. Tháng 10/2015, trường đã được
Chính phủ quyết định thành trường đại học và là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực

25



×