Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************

PHAN THỊ LƢƠNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************

PHAN THỊ LƢƠNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Lƣơng

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

:

BLTTDS 2015

Hội đồng xét xử

:

HĐXX


Hội thẩm nhân dân

:

HTND

Tố tụng dân sự

:

TTDS

Tòa án nhân dân tối cao

:

TANDTC

Viện Kiểm sát

:

VKS

Xã hội chủ nghĩa

:

XHCN


2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM
PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP.11
1.1. Khái quát về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự ................11
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán ..............................11
1.1.2. Vị trí, chức năng của Thẩm phán trong tố tụng dân sự .............................15
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự .....................................................................................22
1.2.1. Đường lối của Đảng về công tác tư pháp ..................................................22
1.2.2. Quy định của Hiến pháp ............................................................................26
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán .......27
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự .....................................................................................30
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 .......................................................30
1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1989.......................................................................33
1.3.3. Giai đoạn 1989 đến 01/01/2005.................................................................36
1.3.4. Giai đoạn từ 01/01/2005 đến 01/07/2016 ..................................................38
1.3.5. Từ 01/07/2016 đến nay...............................................................................40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1.....................................................................................41
CHƢƠNG 2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ..........................................42
2.1. Các quy định về sự vô tƣ, khách quan, độc lập và trách nhiệm của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự .....................................................................................42

3



2.1.1. Các quy định bảo đảm sự vô tư, khách quan của Thẩm phán trong tố tụng
dân sự ...................................................................................................................43
2.1.2. Các quy định về sự độc lập của Thẩm phán trong tố tụng dân sự ............46
2.1.3. Các quy định về trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự ........... 49
2.2. Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thẩm phán trong tố tụng
dân sự ...................................................................................................................50
2.2.1. Xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, thụ lý vụ việc........................................51
2.2.2. Lập hồ sơ vụ việc dân sự ............................................................................56
2.2.3. Tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ chức phiên tòa, phiên họp để
giải quyết vụ việc dân sự ......................................................................................58
2.2.4. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời................................................................................................................. 67
2.2.5. Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự .............69
2.2.6. Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu
cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý ................70
2.2.7. Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải, ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ................ 70
2.2.8. Quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải quyết, triệu
tập người tham gia phiên tòa, phiên họp .............................................................72
2.2.9. Chủ tọa hoặc tham gia xét xử vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự..........73
2.2.10. Đề nghị Chánh án Tòa án phân công Thẩm tra viên hỗ trợ thực hiện hoạt
động tố tụng theo quy định ...................................................................................75
2.2.11. Phát hiện và đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản không hợp hiến, hợp
pháp ......................................................................................................................75
2.2.12. Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật
..............................................................................................................................76


4


2.2.13. Tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự theo
quy định của BLTTDS ..........................................................................................79
CHƢƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........81
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự ...........................................................................................................81
3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự ......................................................81
3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự .........................................................86
3.2. Một số kiến nghị về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự. ..106
3.2.1 Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
tố tụng dân sự .....................................................................................................106
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự .........................................................................................................114
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3...................................................................................122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................123

5


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đòi hỏi Việt

Nam phải có những cải cách về thể chế tƣ pháp và pháp luật tố tụng dân sự. Việc
Việt Nam tham gia hoặc ký kết các công ƣớc, điều ƣớc quốc tế song phƣơng và
đa phƣơng đã tạo cho nƣớc ta nhiều cơ hội nhƣng cũng đặt ra nhiều thách thức.
Công cuộc hội nhập đòi hỏi các cán bộ, công chức ngành tƣ pháp không những
phải có kiến thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực luật nội dung mà còn phải có
hiểu biết sâu sắc về pháp luật tố tụng, ý thức đƣợc rõ ràng vị trí, vai trò, chức
năng và nhiệm vụ, quyền hạn của mình và tuân thủ pháp luật trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các chủ thể. Trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp, Tòa án là
cơ quan nhân danh Nhà nƣớc thực hiện quyền tƣ pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
quyền con ngƣời, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể, do vậy,
Tòa án là trọng tâm của cải cách tƣ pháp. Trong hệ thống Tòa án của Việt Nam,
Thẩm phán đƣợc coi là ngƣời tiến hành tố tụng chủ yếu thực hiện chức năng và các
nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án. Do vậy, trong bối cảnh cải cách tƣ pháp hiện nay
thì địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự là một vấn đề cần đƣợc quan
tâm, chú trọng một cách đúng mức để họ có thể thực sự độc lập trong việc bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã
xác định Tòa án giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tƣ pháp, hoạt động của Tòa
án là trọng tâm của hoạt động tƣ pháp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp
tục khẳng định nhiệm vụ:“đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp…”.
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới đã đƣa ra một trong
những nhiệm vụ của cơ quan tƣ pháp là phải nâng cao chất lƣợng trong công tác
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, đảm bảo và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp
6


pháp của các tổ chức và công dân. Nghị quyết số 08 cũng khẳng định: “Nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt

động tư pháp”[15].
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng dân sự là nội dung quan trọng,
không thể thiếu trƣớc yêu cầu cải cách tƣ pháp hiện nay. Do vậy, việc tìm hiểu
và nghiên cứu về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự là một công
việc cần thiết góp phần thực hiện thành công yêu cầu cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta
hiện nay. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Bởi nó
không những góp phần vào việc làm rõ và củng cố lý luận về địa vị pháp lý của
Thẩm phán mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thẩm phán, tạo khuôn khổ pháp lý cũng nhƣ
định hƣớng hoạt động nghiệp vụ của Thẩm phán trong bối cảnh cải cách tƣ pháp
nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp hiện nay.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải cách tư pháp” làm luận
văn thạc sỹ. Thông qua đề tài này, tôi muốn làm rõ thêm vị trí, vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm phán trƣớc yêu cầu
cải cách tƣ pháp, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự đã đƣợc đề cập ở một
số công trình nghiên cứu nhƣ luận văn thạc sĩ “Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự” của tác giả Bùi Thị Huyền, 2001;
luận văn thạc sĩ “Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Bích Thảo, 2008 và gần
đây nhất là luận văn thạc sĩ “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hằng năm 2013. Bên cạnh
đó, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học nhƣ bài viết “Vai trò
7



của Thẩm phán đối với việc mở rộng tranh tụng trong các vụ án dân sự” của tác
giả Tƣởng Duy Lƣợng và Nguyễn Văn Cƣờng, Tạp chí khoa học pháp lý, số 02,
2004; bài viết “Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở nƣớc ta, những nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng”, của tác giả Đỗ Gia Thƣ, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 04, 2004.v.v... Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích,
luận giải đƣợc những khía cạnh nhất định về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, các công trình
này chủ yếu đƣợc triển khai nghiên cứu theo Luật Tổ chức Tòa án trƣớc đây và
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Nay theo Hiến pháp năm 2013,
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2015 thì nhiều quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm phán đã có
sự thay đổi đáng kể.
Luận văn “Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự trước yêu
cầu cải cách tư pháp” đƣợc thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật có
liên quan trong thời gian gần đây để phân tích, nghiên cứu, đánh giá về địa vị
pháp lý của Thẩm phán gắn với quá trình cải cách tƣ pháp hiện nay.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của Thẩm phán theo Bộ luật
tố tụng dân sự cũng nhƣ nghiên cứu tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt
động của Thẩm phán trong tố tụng dân sự trong quá trình xét xử, đáp ứng yêu
cầu của cải cách tƣ pháp.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích đặc điểm của các mô hình tố tụng dân sự qua đó thấy rõ đƣợc
địa vị pháp lý của Thẩm phán tƣơng ứng với từng mô hình.

- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự ở nƣớc ta trong thời gian qua.

8


- Làm rõ nội dung, yêu cầu cải cách tƣ pháp đối với Tòa án nói chung và
Thẩm phán nói riêng, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực
hiện các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận có liên quan
tới địa vị pháp lý của Thẩm phán; các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm
1945 đến nay về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự. Bên cạnh
đó, Luận văn cũng có nghiên cứu, so sánh tham khảo kinh nghiệm tố tụng dân sự
của một số nƣớc. Ngoài ra, Luận văn cũng nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các
quy định về địa vị pháp lý của Thẩm phán tại một số Tòa án để có góc nhìn toàn
diện hơn trong việc đề xuất, kiến nghị.
Trên cơ sở mục đích, đối tƣợng nghiên cứu đã đƣợc xác định, phạm vi
nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào các quy định hiện hành có liên quan
đến địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự nhƣ Hiến pháp 2013,
Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 và BLTTDS năm 2015. Việc nghiên cứu thực
tiễn thực hiện các quy định hiện hành có liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự đƣợc tiến hành tại một số Tòa án trong những năm gần
đây.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn


Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phép biện chứng duy vật,
phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các luận
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
nhƣ: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng
pháp thống kê, tổng hợp.
6.

Ý nghĩa khoa học của luận văn

Luận văn đã luận giải làm rõ đƣợc khái niệm về địa vị pháp lý của Thẩm
phán đồng thời phân tích làm rõ những yếu tố thể hiện địa vị pháp lý của Thẩm
9


phán nhƣ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự, thực tiễn áp dụng những quy định đó, đồng thời chỉ
ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành từ đó đƣa ra những kiến nghị
và giải pháp hoàn thiện.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn,
làm sâu sắc hơn cơ sở của việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về địa vị
pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu này còn là tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan tới
địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sựHơn nữa, luận văn còn có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng cho những ngƣời làm công tác thực tiễn mà cụ thể là
Thẩm phán. Luận văn sẽ giúp cho Thẩm phán có nhận thức đúng đắn về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để từ đó áp dụng một cách có hiệu quả.
7.


Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
tố tụng dân sự trƣớc yêu cầu cải cách tƣ pháp.
Chƣơng 2: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự theo pháp
luật Việt Nam hiện hành.
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự và kiến nghị

10


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
1.1. Khái quát về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán, địa vị pháp lý của Thẩm phán
1.1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
Ở nƣớc ta, các thiết chế tổ chức có chức năng phát hiện, điều tra, truy tố xét
xử ngƣời vi phạm là cơ quan điều tra, VKS, Tòa án nhân dân. Theo quy định tại
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp...Tòa án có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Xét xử đƣợc hiểu là “hoạt động do Tòa án thực hiện để xem xét và giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh tế với việc tuân thủ
nghiêm ngặt các đòi hỏi của pháp luật và trật tự pháp luật, có tính lập luận công
bằng và có ý nghĩa bắt buộc chung” [37, tr 45].

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định việc xét xử sơ thẩm của Toà án
nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Theo
quy định tại Điều 105 của Hiến pháp 2013 thì việc bổ nhiệm , phê chuẩ n , miễn
nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán ...do luật định. Vị trí độc lập của
Thẩm phán đƣợc tiếp tục ghi nhận trong Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014. Theo đó, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm dƣới bất kỳ hình thức nào. Cá nhân, cơ quan tổ chức có hành vi
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức
11


độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật.
Việc nghiên cứu cũng cho thấy sự tách bạch và độc lập giữa Tòa án ra khỏi
hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đã hình thành nên một đội ngũ cán
bộ mới trong bộ máy nhà nƣớc làm nhiệm vụ xét xử từ trƣớc đến nay đó là Thẩm
phán [10, tr 16]. Theo đó, Thẩm phán là một chức danh thuộc bộ máy tƣ pháp
thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong lĩnh vực tƣ pháp, trong đó có tƣ pháp dân sự.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có nhiều định nghĩa về Thẩm phán, trong đó có cả
định nghĩa đƣợc các nhà nghiên cứu thực hiện trong các công trình nghiên cứu
và cả định nghĩa đƣợc thể hiện trong các văn bản pháp luật. Chẳng hạn nhƣ,
“Thẩm phán là một chức danh Nhà nước trong hệ thống Tòa án các cấp” [33]. Tác giả
Đỗ Gia Thƣ cho rằng “Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan Tòa án,
chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Tòa án,
ra bản án, quyết định nhân danh Nhà nước” [10, tr 17].
Nghiên cứu các văn bản pháp luật cho thấy thuật ngữ này cũng đã đƣợc thể
hiện tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002. Theo đó,

“Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa
án” [36]. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Hội thẩm nhân dân 2014 quy định
định nghĩa “Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của
Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”.
Theo khái niệm này thì Thẩm phán phải có đủ điều kiện và tiêu chuẩn và
đƣợc Chủ tịch nƣớc bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định. Điều này có
nghĩa là chức danh Thẩm phán phải do ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc bổ nhiệm chứ
không phải là ngƣời đứng đầu ngành Tòa án có thẩm quyền quyết định, nhiệm
vụ chính mà Thẩm phán đƣợc giao là xét xử.
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tƣơng ứng với ba cấp
Tòa án có ba ngạch Thẩm phán tƣơng ứng và thẩm quyền bổ nhiệm đối với các
12


ngạch Thẩm phán này cũng khác nhau. Và để đƣợc bổ nhiệm làm Thẩm phán thì
cán bộ Tòa án phải đáp ứng những điều kiện và tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm
phán do pháp luật quy định.
1.1.1.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán
Theo từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên thì “địa vị” đƣợc hiểu
là “vị trí, chỗ xứng đáng với vai trò tác dụng có đƣợc hay vị trí chỗ đứng của cá
nhân trong xã hội” [16].
Luật Dân sự đã quy định cho cá nhân có các quyền nhƣ quyền nhân thân
gắn với tài sản và không gắn với tài sản; quyền sở hữu, quyền gắn với tài sản và
không gắn với tài sản; quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với
tài sản và quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Những nội dung này đƣợc coi là năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự của
các chủ thể. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý thì đó đƣợc coi là “địa vị pháp lý.
Địa vị pháp lý đó là tƣ cách của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hay các chủ thể
khác khi tham gia vào một hoặc nhiều quan hệ pháp luật nhất định. Nó thể hiện

vị trí, vai trò của chủ thể đó trong quan hệ pháp luật và đi liền với nó là quyền
lợi, nghĩa vụ cũng nhƣ trách nhiệm pháp lý phát sinh; là nền tảng để xác định
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi ngƣời và cũng là điểm xuất phát để gỡ rối tranh
chấp trong tố tụng. Chính vì vậy, theo tác giả luận văn, địa vị pháp lý được hiểu
đó là vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi chủ thể trong một
hay nhiều quan hệ nhất định.
Nói đến Thẩm phán trƣớc hết phải hiểu đó là ngƣời - chuyên hành nghề xét
xử. Công việc xét xử của Thẩm phán đƣợc coi là một nghề - nghề có tính đặc
thù. Bởi lẽ, chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Tính đặc thù nghề nghiệp
của Thẩm phán đƣợc thể hiện ở chỗ: Nghề này có ảnh hƣởng lớn đến tính công
minh của pháp luật, uy tín về nền công lý của một quốc gia, lao động của Thẩm
phán chính là lao động trí óc, đầy khó khăn phức tạp dƣới sự giám sát nghiêm
ngặt của xã hội và công dân. Thẩm phán là ngƣời đại diện cho Nhà nƣớc trực
13


tiếp áp dụng pháp luật, do vậy, sự công bằng, khách quan và độc lập khi tiến
hành tố tụng là không thể thiếu đƣợc của ngƣời Thẩm phán, hoạt động của Thẩm
phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của công dân, tổ chức. Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý
chặt chẽ đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng dân sự; khi xét xử, Hội đồng xét
xử nhân danh Nhà nƣớc để ra bản án hoặc quyết định.
Nhƣ vậy, theo tác giả luận văn, địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng
dân sự được hiểu là tổng thể các vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn được pháp luật tố tụng dân sự trao cho họ khi thực hiện các hoạt động tố
tụng nhân danh Nhà nước và các hoạt động khác trong lĩnh vực tố tụng dân sự
thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt địa vị pháp lý của Thẩm phán với tƣ cách
là một chức danh đƣợc nhân danh nhà nƣớc với địa vị pháp lý của ngƣời Thẩm
phán khi họ với tƣ cách là một công dân, cán bộ, công chức nhà nƣớc.

Dƣới góc độ của một công dân, Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của một công dân đƣợc pháp luật hiện hành quy định. Quyền và nghĩa vụ
này đƣợc quy định cụ thể trong Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Ví dụ: Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền làm việc, lựa
chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” (Điều 35); “Mọi ngƣời có quyền
đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế
và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”
(Điều 38); … thì Thẩm phán cũng có các quyền và nghĩa vụ đó.
Dƣới góc độ là một cán bộ, công chức nhà nƣớc, Thẩm phán đƣợc hƣởng
các quyền và phải chịu các nghĩa vụ của một cán bộ, công chức nhà nƣớc theo
Luật cán bộ, công chức quy định. Tuy nhiên, không phải mọi quyền và nghĩa vụ
của cán bộ, công chức nhà nƣớc đều đƣợc áp dụng cho Thẩm phán vì xuất phát
từ chính tính đặc thù của nghề nghiệp mà Thẩm phán đảm nhiệm. Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định quyền và
nghĩa vụ riêng biệt của ngƣời Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm
14


phán. Ví dụ: Thẩm phán không đƣợc “Tƣ vấn cho bị can, bị cáo, đƣơng sự hoặc
ngƣời tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác
không đúng quy định của pháp luật” (khoản 2 Điều 77 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014).
1.1.2. Vị trí, chức năng của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Vị trí, chức năng của Thẩm phán theo từng mô hình tố tụng
Mô hình tố tụng đƣợc hiểu là sự khái quát cao những đặc trƣng cơ bản,
phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng, cách thức tìm đến sự
thật khách quan của vụ việc. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của
các chủ thể trong quá trình thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng. Mô hình tố
tụng dân sự ở nƣớc ta hiện nay luôn theo hƣớng bảo đảm quyền tranh tụng trong
tố tụng dân sự. Từ đó, BLTTDS 2015 đã sửa đổi theo hƣớng phát huy những ƣu

điểm của tố tụng thẩm vấn kết hợp tiếp thu nhƣ̃ng yếu tố hợp lý, tiến bộ của mô
hình tố tụng tranh tụng phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhằm nâng
cao tính dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch. Trong tố tụng dân sự, nguyên
tắc tranh tụng phải đƣợc thể hiện ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc xét xử,
để duy trì những nội dung hợp lý của mô hình tố tụng dân sự, cần xác định rõ
trách nhiệm chứng minh thuộc về các bên tham gia tố tụng.
Nếu ở mô hình tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán không chỉ thực hiện chức
năng xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra thì ở mô hình tố tụng tranh
tụng Thẩm phán giữ vai trò là trọng tài giữa bên nguyên đơn và bị đơn, Toà án
phải có thái độ vô tƣ, khách quan và công minh. Các thành viên HĐXX phải
quan tâm ở mức độ nhƣ nhau đối vói tất cả những nguời tham gia phiên toà và
có thái độ khách quan, không thiên vị đối với các chứng cứ, các yêu cầu, đề nghị
của các bên đƣa ra cũng nhƣ đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật dành cho họ. Toà án không đƣợc phép định kiến đối với bất cứ bên nào
và cũng không thể bị ràng buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của
bất kỳ ai. Đối với quan toà, thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp.
Trong mô hình tố tụng tranh tụng, một đặc điểm nổi bật là Thẩm phán thụ
động và trung lập. Mô hình tranh tụng dựa trên vai trò trung lập và thụ động của
Thẩm phán để giải quyết các tranh chấp giữa các bên qua các thủ tục đối kháng.
Thẩm phán chỉ đƣa ra kết luận cuối cùng và đứng ngoài mọi tranh luận. Trách
nhiệm trình bày chứng cứ thuộc về các bên. Lý luận của mô hình tranh tụng đòi

15


hỏi rằng các bên phải có trách nhiệm đƣa ra chứng cứ trƣớc Toà. Nguyên tắc này
bảo đảm cho Toà án thoát khỏi mọi ảnh hƣởng hay định kiến - nếu tham gia vào
việc thu thập chứng cứ. Điều đó cũng khuyến khích các bên phải tận dụng hết
mọi cơ hội hay khả năng để tìm tòi, đƣa ra những chứng cứ thuyết phục nhất và
qua đó Thẩm phán có điều hiện để suy xét, đƣa ra phán quyết thích hợp nhất.

Còn nét đặc trƣng nhất của mô hình tố tụng thẩm vấn là đề cao vai trò chủ
động của Thẩm phán. Thẩm phán cũng là ngƣời có trách nhiệm tìm ra sự thật
trên cơ sở các sự việc, chứng cứ. Cũng chính Thẩm phán là ngƣời chỉ đạo toàn
bộ quá trình tố tụng, kể cả giai đoạn điều tra. Trong quá trình điều tra, Thẩm
phán cũng góp phần tích cực trong việc tìm ra sự thật và phục vụ với tƣ cách là
ngƣời thẩm tra. Nhƣ vậy, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng thẩm vấn khác xa
so với vai trò của Thẩm phán - trọng tài trong tố tụng tranh tụng. Ở đây, Thẩm
phán là trung tâm của quá trình thu thập dữ kiện trong hệ thống thẩm vấn. Thẩm
phán không chỉ thực hiện chức năng xét xử, mà còn thực hiện cả chức năng điều
tra. Các bên có trách nhiệm cung ứng tất cả các chứng cứ thích hợp, có liên quan
đến vụ án cho Toà án. Các Thẩm phán sẽ thực hiện trực tiếp việc thẩm vấn các
nhân chứng một cách tích cực chứ không phải công tố viên và luật sƣ bào chữa.
Phiên toà cũng diễn ra trong thời gian ngắn hơn so với tố tụng tranh tụng, bởi vì
nó không bao gồm phần tranh tụng của các bên.
Đối với Thẩm phán trong tố tụng dân sự, vị trí, chức năng của họ đƣợc thể
hiện từ khi thụ lý đến khi kết thúc xét xử. Vị trí, chức năng này bảo đảm quyền
tranh luận tại phiên tòa đƣợc phát huy hết hiệu quả trên thực tế; trình tự, thủ tục
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện tính tranh tụng mạnh mẽ; phát huy đƣợc sự
tham gia tích cực và chủ động của những ngƣời tham gia tố tụng; thể chế hóa
đƣợc chủ trƣơng, quan điểm của Đảng về cải cách tƣ pháp và cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
1.1.2.2. Vị trí, chức năng của Thẩm phán trong mối quan hệ với các chủ thể tố tụng khác
Trong mối quan hệ của Thẩm phán có mối quan hệ giữa Thẩm phán với
ngƣời tiến hành tố tụng, mối quan hệ của Thẩm phán với ngƣời tham gia tố tụng.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, mối quan hệ với ngƣời tiến hành tố tụng thì chúng
ta có mối quan hệ của Thẩm phán với Chánh án Tòa án, Hội thẩm nhân dân,
16


Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, Viện trƣởng VKS, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên

của VKS. Tuy nhiên, để làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Luận
văn chỉ xét mối quan hệ của Thẩm phán với Chánh án Tòa án, Hội thẩm, Thẩm
tra viên, Thƣ ký Tòa án và Kiểm sát viên.
- Thứ nhất, mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng
+ Về mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án Tòa án là mối quan hệ
hành chính với nhau, mối quan hệ này đƣợc hiểu dƣới hai góc độ khác nhau:
Đầu tiên, mối quan hệ giữa Thẩm phán với tƣ cách cán bộ cơ quan và
Chánh án với tƣ cách thủ trƣởng cơ quan. Đây là mối quan hệ hành chính. Thẩm
phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án chịu sự quản lý của Chánh
án. Với tƣ cách là cán bộ Tòa án, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm, chấp hành
nhiệm vụ đƣợc giao trƣớc Chánh án. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa Thẩm phán
và Chánh án với tƣ cách là Thẩm phán tham gia giải quyết vụ việc dân sự. Đây
là mối quan hệ tố tụng và chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng dân sự, phải
độc lập trong xét xử.
Vì vậy, điểm khác biệt giữa nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án và
Thẩm phán ở đây đó là Chánh án giữ chức danh quản lý hành chính và Thẩm
phán phải là ngƣời chịu sự phân công, quản lý, chấp hành của Chánh án giao
trong mỗi vụ việc dân sự.
+ Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm
Đây là mối quan hệ tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự. Thẩm phán và Hội thẩm là thành phần của Hội đồng xét xử. Hội thẩm đại
diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát hoạt động
của Tòa án góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật, hợp lẽ công
bằng, bảo đảm pháp chế.
Tại phiên tòa, Hội thẩm cũng có quyền tham gia xét hỏi nhƣng phải theo
thứ tự Chủ tọa phiên tòa hỏi trƣớc rồi mới đến Hội thẩm. Hội thẩm có quyền
nghị án, đƣa ra quan điểm và biểu quyết. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc
17



lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điểm khác biệt căn bản giữa Thẩm phán và Hội
thẩm là Thẩm phán là theo chế độ bầu hay bổ nhiệm, tính chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp khi tiến hành tố tụng.
+ Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án
Thẩm phán và Thƣ ký Tòa án đều là những ngƣời tiến hành tố tụng nên mối
quan hệ giữa Thẩm phán và Thƣ ký là mối quan hệ đƣợc điều chỉnh bằng pháp
luật tố tụng và nó chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Thẩm
phán không phải là thủ trƣởng của Thƣ ký Tòa án và Thƣ ký Tòa án cũng không
phải là thƣ ký riêng của Thẩm phán. Tuy nhiên, Thƣ ký là ngƣời giúp việc cho
Thẩm phán để thực hiện một số việc trong quá trình giải quyết vụ án do đó Thƣ
ký phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đôn đốc, hƣớng dẫn của Thẩm phán nhằm
thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đƣợc thể hiện tại phiên tòa đối với Thƣ
ký Tòa án đó là ghi biên bản phiên tòa. Bên cạnh đó, tại phiên tòa Thƣ ký phải
phổ biến nội quy phiên tòa, sắp xếp chỗ ngồi cho đƣơng sự, kiểm tra sự có mặt,
vắng mặt của những ngƣời tham gia tố tụng và báo cáo trƣớc Hội đồng xét xử để
quyết định có hoãn phiên tòa hay không. Do vậy, chức danh Thẩm phán khác
chức danh Thƣ ký ở chỗ Thẩm phán là ngƣời chủ tọa phiên tòa, thực hiện chức
năng xét xử, còn chức danh Thƣ ký thì làm thƣ ký phiên tòa ghi lại diễn biến các
tình tiết tại phiên tòa, ngoài ra Thƣ ký còn thực hiện hoạt động tố tụng nhƣ phổ
biến nội quy, sắp xếp chỗ ngồi cho đƣơng sự, kiểm tra sự vắng mặt của những
ngƣời tham gia tố tụng…
+ Mối quan hệ của Thẩm phán với Thẩm tra viên
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Thẩm phán đƣợc
BLTTDS 2015 quy định đó là việc đề nghị Chánh án Tòa án phân công Thẩm tra
viên hỗ trợ thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định. Thẩm tra viên đƣợc sự
phân công của Chánh án Tòa án sẽ hỗ trợ Thẩm phán thực hiện các hoạt động tố
tụng mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Thẩm tra viên còn thực hiện việc thẩm
18



tra hồ sơ vụ việc dân sự mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; kết luận về việc thẩm
tra và báo cáo kết quả thẩm tra, đề xuất phƣơng án giải quyết vụ việc dân sự với
Chánh án Tòa án.
Mặc dù, chức danh Thẩm phán và Thẩm tra viên đều đƣợc Chánh án Tòa
án phân công nhƣng họ đều có những nhiệm vụ, quyền hạn hoàn toàn khác nhau.
Trong khi bản án, quyết định dân sự của Tòa án đƣợc ban hành qua chức năng
xét xử của Thẩm phán tại phiên tòa mà đã có hiệu lực pháp luật thì chính các
quyết định, bản án ấy lại đƣợc chức danh Thẩm tra viên thẩm tra, xem xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
+ Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên
Trong mối quan hệ với Thẩm phán, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại
phiên tòa có nhiệm vụ tham gia phiên tòa và phát biểu ý kiến của VKS về việc
giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật, kiểm sát bản án, quyết định của
Tòa án, kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy
định của pháp luật.
Tại phiên Tòa, Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa
phiên tòa về mặt trình tự tố tụng. Thế nên, khác với chức danh Thẩm phán, Kiểm
sát viên chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ
pháp mà không thực hiện chức năng xét xử nhƣ chức danh Thẩm phán.
- Thứ hai, mối quan hệ giữa Thẩm phán với Luật sư:
Luật tố tụng dân sự quy định về sự tham gia của Luật sƣ trong quá trình Tòa
án giải quyết vụ án. Luật sƣ góp phần vào việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án,
họ đƣợc quyền tham gia vào quá trình tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của thân chủ mình. Luật sƣ có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, sao chép các tài liệu
cần thiết trong hồ sơ vụ án, đƣợc biết về thời gian địa điểm mở phiên tòa.
Trong quá trình tác nghiệp của Luật sƣ tại phiên tòa thì Thẩm phán phải tạo
điều kiện để họ thực hiện những quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
19



Tại phiên Tòa, Luật sƣ có quyền tham gia tranh tụng. Thẩm phán đảm bảo về
mặt thời gian, tạo điều kiện để luật sƣ thực hiện quyền của mình tại phiên tòa.
- Mối quan hệ giữa Thẩm phán với người giám định, người phiên dịch
Khi thấy cần thiết phải trƣng cầu giám định về một vấn đề nào đó trong vụ
án, Thẩm phán hƣớng dẫn Thƣ ký hoặc chủ động liên hệ với cơ quan tổ chức
giám định để họ cử Giám định viên thực hiện theo yêu cầu giám định. Thẩm
phán phải đƣa ra quyết định trƣng cầu giám định, ngƣời giám định có quyền tìm
hiểu tài liệu vụ án có liên quan đến đối tƣợng giám định.
Trong trƣờng hợp ngƣời tham gia tố tụng không sử dụng đƣợc Tiếng Việt
thì Thẩm phán phải mời ngƣời phiên dịch cho họ (nếu nhƣ họ không thỏa thuận
đƣợc về việc lựa chọn ngƣời phiên dịch) hoặc đƣơng sự là ngƣời câm điếc.
Thẩm phán có trách nhiệm giải thích thêm về những vấn đề cần phiên dịch khi
ngƣời phiên dịch yêu cầu. Mặc dù, luật tố tụng không quy định ngƣời phiên dịch
có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nhƣng trên thực tế thì Thẩm phán có thể cung
cấp cho họ những tài liệu cần thiết hoặc có thể cho họ nghiên cứu hồ sơ vụ án
trong phạm vi nhất định.
- Mối quan hệ của Thẩm phán với nguyên đơn, bị đơn và các đương sự khác
Đây là mối quan hệ tố tụng chỉ phát sinh khi giải quyết các vụ việc dân sự.
Quyền và nghĩa vụ của các bên, nguyên đơn và bị đơn và các đƣơng sự khác
đƣợc quy định rất cụ thể trong Bộ luật tố tụng dân sự (Ví dụ: nguyên đơn, bị đơn
có quyền trình bày chứng cứ, đối đáp, trả lời trong vụ án theo sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa). Trƣớc pháp luật, họ đƣợc đối xử một cách bình đẳng, Thẩm
phán phải xử sự đúng mực, tôn trọng ý kiến của các bên đƣơng sự, không áp đặt
ý chí chủ quan của bản thân dẫn đến định kiến làm sai lệch vụ án. Tại phiên tòa,
các bên đƣơng sự phải tuân thủ theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
1.1.1.3. Vị trí, chức năng của Thẩm phán trong xét xử vụ án, giải quyết vụ
việc dân sự và bảo vệ công lý


20


Thứ nhất, trong xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán thể hiện vị trí, chức năng
của mình thông qua việc giải quyết vụ án dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; Xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn; hoạt động của Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự; nằm trong thành phần giải quyết việc dân
sự; qua thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện; qua việc trả lại đơn khởi kiện, hậu
quả của việc trả lại đơn khởi kiện; yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; khiếu
nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện…
Thứ hai, trong giải quyết việc dân sự, Thẩm phán thể hiện vị trí, vai trò của
mình thông qua thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu; chuẩn bị xét đơn yêu cầu;
quyết định việc thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng khi giải quyết việc dân sự; thủ
tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự; chuẩn bị xét kháng cáo, kháng
nghị; thủ tục tiến hành phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự.v.v…
Thứ ba, bảo vệ công lý trong lĩnh vực tố tụng dân sự
Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, trong đó Thẩm phán là trụ cột, là chỗ dựa
vững chắc cho công dân, tổ chức trong việc bảo vệ công bằng xã hội. Trong xét
xử bắt buộc phải có Thẩm phán, Thẩm phán có quyền xét xử, chính vì vậy Thẩm
phán giữ vị trí, vai trò trọng yếu trong hoạt động xét xử, có tính chất quyết định
đến chất lƣợng xét xử của Tòa án. Quần chúng nhân dân có đặt lòng tin vào công
lý hay không đều phụ thuộc vào sự phán quyết cuối cùng của Hội đồng xét xử.
Bởi vậy, Thẩm phán thể hiện vị trí, chức năng qua việc hòa giải và công
nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; Xem xét yêu
cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ƣớc lao động tập thể vô hiệu; Thủ
tục giải quyết đơn yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.v.v…
1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
Theo quy định của BLTTDS 2015 thì Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn, đó là: Xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, thụ lý vụ việc dân sự theo
quy định của Bộ luật này; Lập hồ sơ vụ việc dân sự; Tiến hành thu thập, xác

minh chứng cứ, tổ chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ việc dân sự theo
21


quy định của Bộ luật này; Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời; Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân
sự, quyết định tiếp tục đƣa vụ việc dân sự ra giải quyết; Giải thích, hƣớng dẫn
cho đƣơng sự biết để họ thực hiện quyền đƣợc yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy
định của pháp luật về trợ giúp pháp lý; Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đƣơng sự theo quy định của Bộ luật này; Quyết định đƣa vụ án
dân sự ra xét xử, đƣa việc dân sự ra giải quyết; Triệu tập ngƣời tham gia phiên
tòa, phiên họp; Chủ tọa hoặc tham gia xét xử vụ án dân sự, giải quyết việc dân
sự; Đề nghị Chánh án Tòa án phân công Thẩm tra viên hỗ trợ thực hiện hoạt
động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; Phát hiện và đề nghị Chánh án Tòa
án kiến nghị cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc
bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên theo quy định của Bộ
luật này; Xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp
luật; Tiến hành hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
1.2.1. Đường lối của Đảng về công tác tư pháp
Ở Việt Nam, đƣờng lối của Đảng về công tác tƣ pháp giữ vai trò quan trọng
trong việc định hƣớng tổ chức và hoạt động của ngành tƣ pháp, trong đó có địa
vị pháp lý của Thẩm phán. Do vậy, việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý
của Thẩm phán cần đƣợc tiến hành trên cơ sở những định hƣớng quan trọng của
Đảng về cải cách thể chế tƣ pháp và cán bộ tƣ pháp. Các triết lý trong nghị quyết

của Đảng nếu hợp với lòng dân, hƣớng tới phụng sự cho việc bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của dân một cách công bằng thì cần đƣợc lĩnh hội, tiếp thu và chuyển
22


hóa vào trong các quy phạm pháp luật. Để tạo chuyển biến căn bản trong cải
cách tƣ pháp, đó là tiến hành cải cách ở khâu then chốt nhất, cải cách tổ chức
Toà án. Lựa chọn vấn đề này vì xét đến cùng, Toà án là nơi giám sát kết quả hoạt
động của cả hệ thống tƣ pháp. Ngay cả việc thi hành án ở khâu cuối cùng của tố
tụng hình sự cũng nhƣ tố tụng dân sự còn gặp nhiều khó khăn cũng phải xem xét
từ cội nguồn của vấn đề là chất lƣợng bản án. Bản án công bằng, vô tƣ luôn tạo
ra sức mạnh và tính chính đáng của hệ thống cơ quan tƣ pháp vì nó đƣợc ngƣời
dân tin tƣởng “tâm phục, khẩu phục”. Thông qua hoạt động của Toà án, các cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát cũng phải không ngừng nâng cao năng lực của mình
bởi lẽ theo tinh thần pháp quyền và pháp luật thực định nếu Toà án tuyên sai, ắt
hẳn các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp dƣới phải thực hiện
việc bồi thƣờng nếu có lỗi để xảy ra oan trong quá trình tố tụng. Việc nghiên cứu
cho thấy, ở Việt Nam Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị
và Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ của cải cách
tƣ pháp là bảo đảm để Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trung tâm.
Quan điểm đó xuất phát từ yêu cầu và các định hƣớng của nhiệm vụ xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta.
Cải cách tƣ pháp đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu và
định hƣớng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền. Theo đó, các cơ quan tƣ pháp nói
chung và Tòa án nói riêng phải thực sự “phụng công, thủ pháp, chí công vô tƣ, là
chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân”. [12, Tr. 116].
Trong số các quan điểm và chủ trƣơng của Đảng ta về cải cách tƣ pháp thì
quan điểm và chủ trƣơng đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta là quan điểm mang
tính đột phá. Theo đó, về mặt nhận thức cũng nhƣ quá trình tổ chức thực tiễn và

xây dựng, hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm để Tòa án thực sự đóng vai trò là
trung tâm của hệ thống tƣ pháp và hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động
trọng tâm của tố tụng dân sự ở nƣớc ta.
23


×